1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Tiến sĩ >

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.07 MB, 230 trang )


10



vật ở bên ngoài hệ thống TH, thứ ba là chiều dụng học nghiên cứu các TH trong những

mối quan hệ với người sử dụng nó.

Theo F. Guiraud:“Một TH…là một kích thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi

ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác”[17,706].Đây là một quan niệm rộng bởi TH

được hiểu bao gồm cả những TH hiểu theo nghĩa hẹp, cả những TH “nhận biết” và TH

“giao tiếp” có tính chất bản năng của loài vật.Vì thế, một đám mây đen báo hiệu trời sắp

mưa, đám khói bay lên cho biết ở đó có lửa, vết xe trên cát chứng tỏ có người vừa đi

qua…đều có khả năng trở thành TH.

Còn A.Schaff định nghĩa TH theo nghĩa hẹp:“Một sự vật vật chất hay thuộc tính

của nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành TH nếu như trong quá trình giao tiếp, nó

được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của một ngôn ngữ để truyền đạt

một tư tưởng nào đó về thực tế, tức về thế giới bên ngoài hay về những cảm thụ nội

tâm”[17,707]. Như vậy, A.Schaff chỉ thừa nhận là TH khi nó mang chức năng giao tiếp

được con người sử dụng nhằm trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình trong đời sống.

Dù TH được hiểu theo nghĩa hẹp hay rộng thì các ý kiến đều thống nhất cho rằng

TH là khái niệm quan hệ không phải là khái niệm tự thân, muốn một cái gì đó trở thành

TH thì nó phải nằm trong một hệ thống nhất định và có mối quan hệ với các sự vật

khác.

Để thuận tiện trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi lấy định nghĩa rộng của F.

Guiraud làm xuất phát điểm bởi vì nó có tác dụng phát hiện ra những đặc trưng TH học

của các TH ngôn ngữ.Như vậy, một sự vật muốn trở thành TH phải thỏa mãn các điều

kiện sau đây:

- TH phải có tính vật chất. Vật chất là một sự vật hoặc một thuộc tính vật chất

như ánh sáng, màu sắc, âm thanh, vật thể…Nghĩa là, người ta có thể nghe được, nhìn

thấy được, sờ thấy được. Đồng thời thuộc tính vật chất ấy của TH phải có khả năng kích

thích vào giác quan con người và được con người cảm nhận bằng giác quan của chính

mình. Ở đây, chúng ta cần phân biệt TH của loài người với TH cũng được cảm nhận bởi

giác quan của loài vật, thực chất đấy chỉ là phản xạ có điều kiện của loài vật mà thôi.

- TH phải gợi ra, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó. Hay nói cách

khác TH phải mang nghĩa…Định nghĩa của F. Guiraud cũng đã chỉ rõ: Ý nghĩa của cái

chỉ ra trong TH bao giờ cũng là một thực thể tâm lý thuộc tinh thần. Chẳng hạn hệ

thống đèn giao thông màu đỏ, màu vàng, màu xanh đóng vai trò là cbđ. Nó mang chức

năng gợi ra ý nghĩa về mặt tinh thần, cụ thể là truyền tải nội dung “đứng lại”, “chuẩn

bị”, “đi”…



11



- TH phải được chủ thể tiếp nhận và lý giải được, nói rõ hơn cái quan hệ, cbđ và

cđbđ phải được chủ thể nhận thức và lĩnh hội. Muốn thế quan hệ giữa vỏ vật chất của

TH và nội dung của TH phải dựa trên quy ước có ý thức của con người hoặc xã hội,

được con người nhận thức và lĩnh hội. Có như vậy, con người mới có khả năng hiểu

được mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ.

Ví dụ 1: Một hồi chuông dài đối với học sinh là báo hiệu hết giờ học nhưng có

thể lại là TH tập hợp quân đối với các quân binh. Ví dụ 2: Tia sáng lọt qua khe cửa vào

phòng đối với một đứa trẻ sơ sinh chưa phải là TH bởi vì đứa trẻ chưa lý giải được cái

gì về tia sáng mặc dù tia sáng vẫn kích thích cảm quan của đứa trẻ và gây được những

phản ứng nhất định. Nhưng đối với người lớn, tia sáng là TH bởi vì họ có thể rút ra một

ý nghĩa nào đó, như “trời đã sáng”, “có người vừa mở cửa”, “sắp đến giờ

đilàm”…[15,54].

- TH phải nằm trong một hệ thống nhất định và có đặc điểm khác biệt với các

yếu tố khác cùng hệ thống. Đây là điều kiện bắt buộc một cách hiển nhiên đối với những

TH giao tiếp do con người đặt ra. TH sẽ không còn là TH khi tách khỏi hệ thống bởi giá

trị của nó có được là nhờ vào mối quan hệ của nó với các TH khác trong hệ thống. Mặt

khác, một điều kiện hiển nhiên đó là hệ thống phải là một tổng thể bao gồm nhiều yếu tố

và các yếu tố nằm trong quan hệ đối lập nhằm tạo ra giá trị khu biệt của TH trong hệ

thống.

b. Phân loại tín hiệu

Các nhà nghiên cứu TH học đã phân các TH thành những phạm trù (hay loại)

khác nhau.K.Buhler chia các TH thành: Symbole (TH chỉ ra sự vật, đối tượng),

Symptome (TH bộc lộ trạng thái tâm sinh lí, tư tưởng, tình cảm của người nói), Signal

(TH gây tác động tâm sinh lí cho người nghe) [17,711].

Ch.S.Pierce phân chia TH thành ba loại chính: Hình hiệu (icones), chỉ hiệu

(index), và ước hiệu (symbol) dựa theo tiêu chuẩn quan hệ giữa cbđ và cđbđ mà F.de

Saussure đã đưa ra. Theo đó, đại đa số TH ngôn ngữ (THNN) là thuộc loại ước hiệu, loại

TH mà mối quan hệ cbđ và cđbđ là hoàn toàn võ đoán, không giải thích được nguyên do.

Loại TH này sẽ mất tư cách là TH nếu không có người lí giải [17,711].

Morris dựa vào mối quan hệ giữa TH với các loại sự vật mà chúng biểu thị để

chia TH thành hai loại: các chỉ hiệu(Single indexes)và định hiệu (Singnes

caracterisant).Tiếp theo, ông lại phân chia các định hiệu ra thành hình hiệu và biểu

trưng (symbole) [17,712].



12



A.Schaff xuất phát từ cơ sở chỉ xem TH gắn liền với chức năng giao tiếp, nên

ông tiến hành phân loại như sau: đầu tiên ông phân TH thành TH nhân tạo và TH tự

nhiên (TH đích thực). TH tự nhiên lại được chia thành TH từ và TH thực có khả năng

bộc lộ nhất định. TH thực có khả năng bộc lộ nhất định lại được chia thành lệnh hiệu và

định hiệu. Các định hiệu lại được chia thành định hiệu đích thực và Symbole [17,713].

P.Guiraud từ năm 1950 đã đưa ra bảng phân loại TH. Ông phân chia TH dựa trên

mối quan hệ giữa thực tế với nhận thức của con người. Trong đó, tác giả quan tâm tới

những TH biểu hiện (TH không giao tiếp). Những TH biểu hiện về bản chất là các hình

hiệu và chức năng của chúng không phải là công cụ giao tiếp mà là công cụ để phản

ánh, miêu tả thực tế khách quan. Ví dụ như bức ảnh, bản nhạc... Chúng là sản phẩm của

các loại hình nghệ thuật và thuộc đối tượng nghiên cứu của nghệ thuật học. P.Guiraud

tiếp tục phân chia TH thành TH tự nhiên và TH nhân tạo. Trong TH nhân tạo ông lại

phân chia thành TH giao tiếp và TH không giao tiếp. Ông còn dựa theo đặc tính thể chất

của TH mà phân chia các TH thành TH thị giác, TH thính giác, TH xúc giác. Theo đặc

tính chuyển mã hay chưa chuyển mã, ông chia các TH thành TH thứ cấp (còn gọi là kí

hiệu) và TH sơ cấp... P. Guiraud cũng chỉ ra sự xâm nhập lẫn nhau của các loại tín hiệu

[17,714].

Đỗ Hữu Châu cũng đã đưa ra bảng phân loại TH theo quan điểm riêng của mình.

Theo ông, TH là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các phương diện khác nhau có

thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau. Mỗi lần vận dụng một tiêu chí phân loại là

có một kết quả phân loại. Những tiêu chí phân loại mà Đỗ Hữu Châu đưa ra là: 1/ Dựa

vào đặc tính thể chất của cái biểu hiện, 2/ Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu, 3/ Dựa vào

mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện, 4/ Căn cứ vào chức năng xã hội

của tín hiệu [17, 716-718].

Dựa vào mặt thể chất của TH có thể phân chia ra được các loại TH như: tín hiệu màu

sắc, tín hiệu âm thanh...Trong đó THNN được coi là một loại TH đặc biệt.

1.1.1.2 Tín hiệu ngôn ngữ

Ngôn ngữ cũng là một TH bởi ngôn ngữ đáp ứng đầy đủ các điều kiện của một

TH. Trong thực tế giao tiếp, ngôn ngữ bao gồm ba mối quan hệ chính: quan hệ giữa TH

với TH, quan hệ giữa TH với thực tế và quan hệ giữa TH với nhân vật giao tiếp. Ba quan

hệ này lập thành ba bình diện tạo nên bản chất của THNN:kết học, nghĩa học và dụng

học. Ba bình diện này luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với nhau.

F.de Saussure xác định THNN như sau: “Tín hiệu ngôn ngữ kết liền thành một

không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một hình ảnh âm thanh,



13



hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái này phải có cái kia. Trong đó

khái niệm được gọi là cái được biểu đạt (cđbđ) và hình ảnh âm thanh được gọi là cái

biểu đạt (cbđ )”[112,121].Nó như hai mặt của một tờ giấy, hễ mất mặt này thì mặt kia

không thể tồn tại, hay nói cách khác, THNN là một tổng thể hai mặt không thể tách rời.

Từ đó F.de Saussure đã chỉ ra hai đặc điểm của THNN: tính võ đoán và tính hình

tuyến.Tính võ đoán, hiểu theo F.de Saussure là mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ hoàn toàn

không có một lý do xác đáng nào. Nghĩa là, nếu không có cbđ này thì có thể sử dụng cbđ

khác làm vỏ cho các đơn vị ngôn ngữ mà người ta vẫn có thể hiểu nếu như cấp cho

chúng các thế đối lập cần thiết nhằm xác định giá trị của đơn vị đó.

Ch.S. Pierce cũng có quan niệm tương tự. Ông cho rằng đại đa số THNN thuộc

loại ước hiệu, loại TH mà mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ là hoàn toàn võ đoán, không

giải thích được nguyên do. Loại TH này sẽ mất tư cách là TH nếu không có cái lí giải.

F.de Saussure chỉ rõ rằng “Thường người ta không nói bằng TH riêng lẻ, mà bằng

từng nhóm TH, từng khối có tổ chức, vốn cũng là TH” [17,221].Sau này, Ch.W. Morris

cũng đồng tình với F.de Saussure về quan điểm cho rằng tất cả các TH đều nằm trong

quan hệ với các TH khác và quy định lẫn nhau [17,712]. Do đó, các TH luôn nằm trong

một hệ thống nhất định. Ngôn ngữ là một loại TH đặc biệt nên nó cũng lập thành một hệ

thống với những cấp độ và quan hệ đặc thù của ngôn ngữ.

Trong cuốn Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ là hệ

thống TH sơ cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật chất. Đó là những

âm thanh do bộ máy cấu âm của con người tạo ra. Ông đặc biệt lưu ý vấn đề chức năng

và đặc tính đa chức năng của các THNN so với các hệ thống TH nói chung và TH

mang chức năng giao tiếp nói riêng. Nếu như các TH khác ở từng hệ thống chỉ thực hiện

được một chức năng TH học thì ngôn ngữ không chỉ thuần túy mang chức năng giao

tiếp mà đồng thời còn là công cụ để tư duy, để tổ chức xã hội, để duy trì sự sống của

con người và còn mang chức năng thi pháp...Trong đó, chức năng giao tiếp được coi là

chức năng xã hội quan trọng nhất của ngôn ngữ.

Vì vậy, THNN vừa là TH giao tiếp, vừa có thể là TH nhận thức, TH biểu hiện

v.v... Riêng đối với chức năng giao tiếp, cũng có sự phân biệt các chức năng khác nhau

có liên quan đến các nhân tố khác nhau của hoạt động giao tiếp: chức năng miêu tả,

chức năng dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng cú học.

Từ các phương diện chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý nghĩa

TH của chúng trên tất cả những đơn vị mang ý nghĩa (tức các đơn vị có hai mặt): từ,

cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản. Một từ, ngữ hay một câu nói nào đó có thể vừa mang



14



những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc lộ những đặc điểm về địa

phương, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lí của người nói v.v...Chẳng hạn, khi đọc

những câu ca dao sau: Trăm năm dẫu lỗi hẹn hò/ Cây đa, bến cũ con đò còn đưa/ Cây

đa, bến cũ, đường xưa/Con đò còn đó người chưa thấy về. Có thể nói, làng quê truyền

thống Bắc Bộ nào cũng có hình ảnh cây đa cổ thụ ở đầu làng. Chính vì vậy từ bao đời

nay, mỗi người Việt chúng ta đều coi cây đa như một biểu tượng. Ý nghĩa biểu tượng

đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, là sức sống dẻo dai. Cùng với sự trường tồn ấy cây

đa như một nhân chứng của thời gian, chứng kiến những sự đổi thay của con người, của

đất trời. Cây đa còn là biểu tượng tâm linh con người, “Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo

cây đề”. Trong ca dao Bắc Bộ có bộ 3 biểu tượng Cây đa- Giếng nước- Sân đình, mỗi

biểu tượng mang một nội dung ý nghĩa riêng biệt nhưng có thế thấy, ở đâu có cây đa là

có giếng nước hoặc sân đình và ở đó có sự giao lưu, sinh hoạt, trao đổi. Với người dân

Bắc Bộ, cây đa là nơi sinh hoạt chung, bình đẳng với tất cả mọi người “không tiền ngồi

gốc cây đa, có tiền thì hãy lân la vào làng” và cây đa còn là nơi hẹn hò, còn là minh

chứng tình yêu của các đôi trai gái:Cây đa rụng lá sân đình/ Rụng bao nhiêu lá thương

mình bấy nhiêu; Cây đa trốc gốc đi rồi/ Đò đưa bến khác anh ngồi đợi ai.Cây đa luôn là

biểu tượng đẹp, biểu tượng này có sức sống bền lâu trong văn học dân gian và trong tâm

hồn mỗi con người Việt Nam.

Ở bất kỳ cấp độ nào, mỗi THNN đều phải bao hàm một hình thức ngữ âm (cbđ)

tương ứng với một nội dung ngữ nghĩa (cđbđ), và giá trị của THNN cũng do những mối

quan hệ thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định. Vậy những mối quan hệ hệ thống của

THNN là những quan hệ nào? F.de Saussure đã nêu hai loại quan hệ chung nhất, đó

là:1) Quan hệ đồng nhất - đối lập và quan hệ khác biệt; 2) Quan hệ hình tuyến và quan

hệ trực tuyến [15,145].

Trong ngôn ngữ học hiện đại, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến các loại quan

hệ như: quan hệ tôn ti (giữa các cấp độ của ngôn ngữ) và quan hệ hiện thực hóa (giữa

bình diện trừu tượng và bình diện cụ thể, giữa điển dạng và hiện dạng).

Chính các nguyên tắc đồng nhất và đối lập, kết hợp (hay tuyến tính) và liên

tưởng (hay trực tuyến), điển dạng (hay hằng thể) và hiện dạng (hay biến thể) trong hệ

thống ngôn ngữ sẽ là những cơ sở lý thuyết quan trọng giúp chúng ta lí giải về các

THNN trong quá trình hoạt động thực hiện các chức năng của ngôn ngữ trong giao tiếp,

trong đó có giao tiếp nghệ thuật (giao tiếp của văn học) có liên quan đến những nhiệm

vụ mà luận án cần giải quyết.



15



Chính vì vậy, mối quan hệ giữa hai mặt của THNN đã được Đỗ Hữu Châu đặt

trong chức năng xã hội của ngôn ngữ. Sự hiện thực hóa chức năng xã hội của ngôn ngữ

được biểu hiện trong hoạt động của toàn bộ hệ thống; qua những mối quan hệ ngang

(tuyến tính, ngữ đoạn, tiếp đoạn cú đoạn: khả năng kết hợp của các yếu tố ngôn ngữ với

nhau để tạo thành một đơn vị cao hơn) và mối quan hệ giữa các cấp độ của hệ thống

ngôn ngữ. Trong các kết hợp cụ thể, mối quan hệ giữa hình thức ngôn ngữ (cbđ) và ý

nghĩa (cđbđ) rất khác nhau [16-763,764].

Ví dụ: Tín hiệutrái tim trong những kết hợp saukhác nhau về đối tượng được nó

biểu trưng. Nhà thơTagor khẳng định giá trị của trái tim là tình yêu:Trái tim anh là tình

yêu/Nỗi vui sướng, khổ đau của nó là vô biên/Những đòi hỏi và sự giàu sang của nó là

trường cửu/Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy/Nhưng chẳng bao giờ em

biết trọn nó đâu.

Với nhà thơ Tố Hữu,trái tim là hiện thân của tình cảm, lí tưởng cách mạng cao

đẹp:Trái tim anh đó/Rất chân thật, chia ba phần tươi đỏ/Anh dành riêng cho Đảng

phần nhiều/Phần cho thơ và phần để em yêu...Và có khi trái tim được nhà thơ Xuân

Diệu nhân hóa như hai thực thể biết tâm tình, biết trao nhau những lời thầm thì yêu

thương trong“Anh về Ấm Thượng”: Thấy anh, em xiết nỗi mừng/Nhìn em gương mặt

sáng bừng đêm khuya/Làng không một tiếng chân đi/Trái tim ta chuyện thầm thì cùng

nhau.

1.1.1.3 Tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ

a. Khái quát về tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ

Mỗi ngành nghệ thuật sẽ chọn cho mình một cách thức riêng để đưa vào tác

phẩm nghệ thuật của mình. Nếu tác phẩm điêu khắc là tổ chức của các hình khối, tác

phẩm hội họa là sự biểu diễn của những đường nét, màu sắc, tác phẩm âm nhạc là sự

hòa thanh…thì tác phẩm văn học là tổ chức của ngôn từ. Bước vào thế giới nghệ thuật,

các TH thông thường sẽ chuyển hóa thành TH thẩm mĩ (THTM), mang những đặc thù

của nghệ thuật.

Đã có nhiều tác giả đã định nghĩa về THTM:

- Ch.Morris cho rằng THTM là: “Một thuật ngữ của tín hiệu để phân biệt nó với

tín hiệu khác ở chức năng thẩm mĩ và đặc trưng miêu tả hoặc tạo hình”. Theo Ch.

Morris, một tín hiệu thẩm mĩ có ba đặc điểm: tính cấu trúc, tính phổ quát và tính tương

ứng với các quan hệ giá trị” [Dẫn theo 50,218].

- Tác giả Lại Nguyên Ân quan niệm về THTM trong “150 thuật ngữ văn

học”như sau:“Là những hệ thống vật chất truyền tải các thông báo. Đại diện cho các



16



hình thái hoạt động vật chất và các mối quan hệ của con người, các hệ thống ngôn ngữ

kí hiệu ở nghệ thuật trở thành “vật tải” các nội dung khách quan can dự vào quá trình

phản ánh thực tại bằng nghệ thuật” [3,127].

- Theo tác giả Bùi Minh Toán: “Tín hiệu thẩm mĩ là loại tín hiệu có chức năng

thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc về cái đẹp. Nó cũng như

mọi loại tín hiệu khác, cần có hai mặt: cái biểu đạt (cái biểu hiện) và cái được biểu đạt

(cái được biểu hiện), nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mĩ” [142,1].

Từ đó có thể hiểu, THTM chính là toàn bộ những yếu tố hiện thực, những chi

tiết, những sự vật, hiện tượng của đời sống được đưa vào tác phẩm vì mục đích biểu

hiện ý nghĩa thẩm mĩ nhất định. Chẳng hạn như các tín hiệu ngôn ngữ

thuyềnvàbếntrong câu ca dao sau: Thuyền về có nhớ bến chăng/Bến thì một dạ khăng

khăng đợi thuyền. Những TH đó không phải là những THNN thông thường mà là những

TH mang những chức năng thẩm mĩ, nghĩa là những TH biểu hiện cái đẹp, truyền cảm

cái đẹp. Và hình ảnh thuyền và bến ở đây là hình ảnh của người con trai và người con

gái. Thuyền và bến gắn bó mật thiết với nhau như một lẽ thường của tình yêu giữa anh

và em vậy. Dù trong hoàn cảnh nào, người con gái vẫn “khăng khăng đợi”- một tình

yêu thủy chung son sắt. Đó chính là một ý nghĩa thẩm mĩ cao đẹp làm cho TH thuyền,

bến trong câu ca dao trên trở thành THTM.

- Từ sự phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện nghệ thuật, Đỗ Hữu Châu đã

có những kiến giải cụ thể về THTM ngôn ngữ: THTM là phương tiện sơ cấp (primaire)

của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú pháp - THTM.

THNN tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức- cbđ của THTM [15,18].Để trả lời cho

câu hỏi: Thế nào là một THTM?,Đỗ Hữu Châu chủ trương căn cứ vào sự tương ứng của

THTM với các vật quy chiếu thuộc thế giới hiện thực: THTM phải tương ứng với một

vật quy chiếu nào đấy trong thế giới hiện thực. Chẳng hạn như một con thuyền, một

dòng sông, hay một nỗi buồn nào đó [17, 576].

Mặc dù có khá nhiều định nghĩa về THTM song chúng tôi chưa tìm thấy một

định nghĩa hoàn chỉnh, thống nhất.Tuy nhiên có thể hiểu một cách chung nhất, THTM

là yếu tố thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Nói đến phương tiện

nghệ thuật là nói đến hai mặt thể chất và tinh thần. Mặt thể chất chính là những hình

thức vật chất được sử dụng trong mỗi ngành nghệ thuật (như: đường nét, màu sắc trong

hội họa, hình khối trong kiến trúc, âm thanh, tiết tấu trong âm nhạc, ngôn ngữ trong văn

học). Mặt tinh thần bao gồm nhiều loại nội dung ý nghĩa, nhiều tầng khái quát hóa, trừu

tượng hóa có tính thẩm mĩ[17, 755].



17



Trong tác phẩm“Bàn về văn học nghệ thuật”, Lê-nin đã viết: “Văn học ở mức độ

khách quan nhất là phương tiện đồng hóa hiện thực về mặt thẩm mĩ, một nghệ thuật

ngôn từ làm phương tiện thể hiện” [81, 363]. Và có thể khẳng định một trong những

nghệ thuật sử dụng ngôn từ làm biện pháp thể hiện hiệu quả nhất chính là việc xây dựng

hệ thống THTM trong các tác phẩm văn học.

Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu tác phẩm văn chương, thuật ngữ THTM

cũng chính là TH ngôn ngữ thẩm mĩ (THNNTM). Khái niệm THNNTM khác với TH

và THNN ở chỗ: THNNTM vừa là quan hệ, vừa là khái niệm vật tự thân có nghĩa là bản

thân nó đã mang tính thẩm mĩ. Để thuận lợi cho việc nghiên cứu, chúng tôi thống nhất

tên gọi tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ cũng là tín hiệu thẩm mĩ.

Từ những điều đã được trình bày trên đây, để làm rõ hơn mối quan hệ giữa

THNN và THTM, có thể minh họa bằng sơ đồ sau:

Cbđ

hình thức

TH ngôn ngữ

Cbđ

Cđbđ

nội dung (ý nghĩa)

THTM

Cđbđ nội dung (ý nghĩa thẩm mĩ)

Từ sơ đồ này, chúng ta thể thấy rằng cả cái hợp thể cbđ và cđbđ tạo thành THNN

đã trở thành cbđ cho một cđbđ mới là ý nghĩa thẩm mĩ của THTM trong tác phẩm văn

học. Hay nói một cách khác, THTM là tổng hòa tính hai mặt của THNN.

Theo quan niệm của chúng tôi, hình thức là tất cả các phương tiện ngôn ngữ

được tổ chức thành văn bản ca dao. Hình thức ở đây liên quan chặt chẽ với hình tượng

nghệ thuật và tư tưởng, quan niệm của tác giả.

Hình thức tác phẩm ca dao bao gồm: (1) hình thức bên ngoài là “sự thể hiện

bằng vật chất các khách thể thẩm mĩ bên trong. Đó là hình thức khi ấn loát chiếm một

số lượng trang giấy, khi đọc chiếm một lượng thời gian vật chất, chỗ ngừng dày hoặc

thưa, âm thanh trầm hay bổng. Hình thức bên ngoài là cơ sở khách quan của tác phẩm:

không có hình thức này thì tác phẩm không thể tồn tại”[123,25]; (2) hình thức bên trong

là “sự thể hiện tính cá thể thẩm mĩ...là hình thức của cái nhìn nghệ thuật, là sự hiện diện

của con mắt nghệ sĩ, yếu tố quy định cách tạo hình cho tác phẩm” [123,25].

Như vậy: “Các đơn vị ngôn ngữ và các dấu hiệu ngôn ngữ, các từ ngữ diễn đạt

nội dung và các mối liên kết nội dung được gọi là các đơn vị hình thức. Mạng các đơn



18



vị và các dấu hiệu ngôn ngữ của một văn bản được gọi là cấu trúc hình thức của văn

bản đó”[18,745].

Trong hình thức của THTM có nhân tố ý nghĩa, cái mã ngôn ngữ học, gọi là nội

dung và hình thức. Như vậy, THTM là TH bậc 2 mang đặc tính biểu trưng. Chính vì

thế, không nên đồng nhất THTM và THNN thông thường được sử dụng làm chất liệu

của tác phẩm văn học. Chính sự khác biệt có tính vượt cấp này là do vai trò quyết định

của chủ thể sáng tạo. Điều đó khiến cho, nói theo Ch.Bally, giữa cách dùng ngôn ngữ

hàng ngày và ngôn ngữ của nhà văn có một vực thẳm không vượt qua được [15, 9].

Điều đáng chú ý ở đây nếu mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ trong ngôn ngữ tự

nhiên có thể là võ đoán thì mối quan hệ giữa cbđ và cđbđ trong THTM lại là luôn có lí

do và là lí do liên hội. THNN tự nhiên muốn trở thành THTM trong tác phẩm nghệ

thuật phải trải qua một quá trình khái quát hóa nghệ thuật mang tính biểu trưng để đạt

đến ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.

Ví dụ: Con cò đối với người Nhật Bản là biểu trưng cho sự bất tử. Đối với người

Việt Nam, con cò biểu trưng cho phận đời long đong, vất vả, cho những đức tính tốt đẹp

của người phụ nữ Việt Nam như cần cù, đảm đang, hiền lành và chất phác: Con cò lặn

lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Trong ngôn ngữ văn chương, THTM cũng tồn tại ba mối quan hệ chính: quan hệ

giữa các TH với nhau trong ngôn ngữ văn học, quan hệ giữa các TH trong ngôn ngữ văn

học với thực tế, quan hệ giữa TH với các nhân vật giao tiếp trong tác phẩm.Trong cách

gọi THTM đã bao hàm đủ cả hai khái niệm TH và THNN. Việc xác định thế nào là một

THTM hiện vẫn đang là vấn đề mở đối với các nhà nghiên cứu.

Thẩm mĩ:



có nghĩa là “cái đẹp”. Theo quan điểm mĩ học, nói đến tính thẩm



mĩ của ngôn ngữ văn chương là nói đến chức năng biểu hiện của cái đẹp. Mác- Lênin

cho rằng: “Cái đẹp là sự tác động qua lại giữa đối tượng thẩm mĩ và chủ thể thẩm mĩ

tạo nên hứng thú phổ biến cho chủ thể từ tính hình tượng, tính hoàn thiện, toàn vẹn, cân

xứng, hài hòa”[Dẫn theo 57,90].

Từ quan niệm này, chúng ta thấy rằng sự cân xứng, hài hòa là sự phù hợp, sự “ăn

khớp” trong bản thân sự vật và giữa sự vật với hoàn cảnh. Hình tượng hài hòa là sự tổng

hợp các tác động qua lại giữa các giá trị thẩm mĩ.

Trên cơ sở các ý kiến nêu trên cùng với những điểm đã trình bày, chúng tôi đề

xuất định nghĩa về THTM như sau: Tín hiệu thẩm mĩ là tín hiệu thuộc hệ thống các

phương tiện được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật nhằm biểu hiện

nội dung thẩm mĩ. Tính thẩm mĩ của các tín hiệu thẩm mĩ biểu hiện ở sự thống nhất



19



biện chứng giữa nội dung và hình thức, giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng nằm ở

cả nội dung và hình thức của tín hiệu.

Ví dụ hai THTM “chim” trong câu ca dao:

Con chim liễu nó biểu con chim quỳnh

Biểu to, biểu nhỏ, biểu mình thương tôi.

Tín hiệu bản thể “chim” cụ thể là “chim liễu”,“chim quỳnh” đẳng cấu với các TH:

biểu, to, nhỏ, mình, thương, tôi đã mang lại cho những TH này nét nghĩa của THTM.

“Chim liễu”, “chim quỳnh” đã trở thành những biểu tượng sống động mang tính cá thể

hóa: biết tâm tình, biết truyền cảm xúc yêu thương. Hình thức lục bát biến thể (8/8),

cộng hưởng với sự chuyển biến của nhịp điệu từ 3/2/3 (Con chim liễu /nó biểu/ con

chim quỳnh) ở câu thứ nhất sang nhịp 2/2/2/2 ở câu thứ hai (Biểu to,/ biểu nhỏ,/ biểu

mình /thương tôi) đã làm thay đổi sắc thái biểu cảm của nhân vật trữ tình. TH “biểu”

đậm chất địa phương được sử dụng 4 lần góp phầnlàm tăng thêm giá trị biểu cảm cho

lời tỏ tình độc đáo nghe như một lời thủ thỉ, tâm sự nhưng hết sức sâu lắng.

b. Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ

Hệ thống THTM được sử dụng để làm công cụ thể hiện tình cảm của người tạo

lập (người viết). Còn người lĩnh hội (người đọc) giải mã hệ thống THTM đó như thế

nào phụ thuộc nhiều vào đặc tính của THTM.Vì vậy, chúng ta cần lưu ý các đặc tính sau

đây:

+Đặc tính về nguồn gốc: Việc chỉ ra nguồn gốc của THTM là bước đầu xác

định hai phương diện quan trọng của nó là mặt thể chất và mặt tinh thần.

THTM được sinh ra từ nhiều nguồn. Trước hết là từ thế giới hiện thực đa sắc

màu với những sự vật, hiện tượng phong phú tồn tại một cách hiển nhiên không phụ

thuộc vào ý thức con người và một thế giới mang màu sắc chủ quan rõ nét. Đó là thế

giới tâm trạng- thế giới của cảm xúc, suy tư, những buồn vui, trăn trở...được người nghệ

sĩ lựa chọn vào tác phẩm nghệ thuật của mình nhằm mục đích thẩm mĩ.

THTM còn có nguồn gốc từ những tưởng tượng logic hoặc phi logic của người

nghệ sĩ. Đó là phút thăng hoa nghệ thuật, phút xuất thần của những điều phi thường, kì

diệu mà đôi khi nếu lấy những tri thức của đời sống thường ngày khó lòng lí giải nổi.

THTM còn có nguồn gốc từ các sự kiện ngôn ngữ như từ địa phương, đoạn đối

thoại, những yếu tố ngôn ngữ như âm, vần, thanh; cấu trúc ngữ pháp câu; cách trình bày

ngôn bản…trong tác phẩm.

+ Đặc tính về cấp độ: Tùy theo từng nhà nghiên cứu mà quan điểm về phân chia

cấp độ THTM cũng khác nhau. Đỗ Hữu Châu phân biệt THTM ở hai cấp độ cơ bản:



20



Cấp độ cơ sở: THTM ứng với một chi tiết, một sự vật, hiện tượng thuộc thế giới

khách quan: biển, mặt trời, con thuyền... Đó là những THTM đơn hay THTM cơ sở có

chức năng tham gia cấu tạo nên những THTM ở cấp độ cao hơn trong tác phẩm. THTM

đơn được tạo nên bằng các từ hay cụm từ, có thể là những từ ngữ, thành ngữ, điển cố

hay những hình ảnh đơn lẻ, mang ý nghĩa thẩm mĩ. Đỗ Hữu Châu viết: “Phương tiện sơ

cấp của văn học là tín hiệu thẩm mĩ. Rồi cái THTM đó mới được thể hiện bằng các tín

hiệu ngôn ngữ thông thường..." [17, 564].

Cấp độ xây dựng (TH phức): Là loại THTM ứng với nhiều sự vật, hiện tượng

được xây dựng từ những tín hiệu thẩm mĩ đơn. Loại tín hiệu phức được tạo ra để biểu

hiện những ý nghĩa thẩm mĩ mới trong tác phẩm văn chương.

THTM được xét đến trong đề tài của chúng tôi là những TH đơn. Mỗi TH ứng

với một yếu tố hiện thực (yếu tố của các hiện tượng tự nhiên như: trời, biển,

núi...;Yếu tố của các vật thể nhân tạo như: nhà, áo, thuyền…) và được cụ thể, đa

dạng, phức tạp hóa bằng các hình thức ngôn ngữ nhất định. Nghiên cứu các hình

thức biểu đạt này sẽ là cách thức để phát hiện ra các ý nghĩa thẩm mĩ của các THTM

này.

+ Đặc tính tác động: Đặc tính này có cơ sở từ bản chất của tín hiệu như ý kiến

của P. Guiraud mà chúng tôi đã dẫn ở trên: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động

của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác”. Hiệu quả tác động của

THTM trước hết là hình thành nên những hình tượng nghệ thuật. Như vậy có thể hiểu,

hình tượng nghệ thuật, là sản phẩm của thế giới tinh thần được THTM làm đầy lên

trong thế giới chủ thể tiếp nhận.

Đặc tính tác động của THTM còn được thể hiện ở chức năng giao tiếp nghệ

thuật mang tính đối thoại đặc thù của nó. Khi đó, THTM là TH đặc biệt có khả năng

kích thích mạnh mẽ thế giới, tư tưởng của chúng ta, do đó nó trở thành yếu tố kích thích

của sự điều chỉnh sống động những tâm trạng xã hội khác nhau [46,17].

+ Đặc tính biểu hiện: Đây là đặc tính quan trọng liên quan đến sự thực hiện

chức năng chung của nghệ thuật - đó là chức năng phản ánh hiện thực. THTM phải

mang nội dung hiện thực nhất định, phải gắn với hiện thực. Điều này có nghĩa là mỗi

THTM ứng với sự vật, hiện tượng thuộc thế giới vật chất hay tinh thần.

Theo F.de Saussure: “...Tín hiệu là một thực thể có hai mặt nội dung và hình thức

không tách rời nhau; trong đó dấu hiệu vật thể có vai trò rất quan trọng đối với người

tiếp nhận. Nếu không có nội dung thì không có gì để truyền đạt; và nếu có nội dung



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (230 trang)

×