Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.07 MB, 230 trang )
40
thức ngữ âm là vô cùng quan trọng và tác giả nhấn mạnh đến các yếu tố như âm điệu,
nhịp điệu, vần điệu, khổ thơ..., những đơn vị thuộc bình diện hình thức. Chúng tôi ứng
dụng nguyên lí này vào việc xem xét biểu hiện hình thức của THTM trong ca dao Nam
Trung Bộ.
Ở nội dung thứ nhất này, chúng tôi chỉ trình bày đặc điểm hình thức - thể thơ ca
dao.Còn những biểu hiện như: âm điệu, nhịp điệu, vần điệu, chúng tôi không đi sâu
nghiên cứu mà vận dụng những kết quả đã có của các nhà nghiên cứu về ca dao vào quá
trình phân tích nội dung biểu hiện của các THTM.
Thứ hai, luận án khảo sát các phương tiện ngôn ngữ làm thành bình diện hình
thức vật chất biểu đạt (gồm các đơn vị cbđ, sự kết hợp của các đơn vị cbđ) của các
THTM trong ca dao Nam Trung Bộ. Đây là biểu hiện hình thức trọng tâm để chúng tôi
nghiên cứu đối tượng của mình, vì vậy sẽ được chúng tôi trình bày chi tiết.
Ngữ liệu chúng tôi khảo sát và thống kê là các bài ca dao khu vực Nam Trung Bộ
(gồm 8 tỉnh) với các đầu sách: Ca dao, dân ca đất Quảng; Bài chòi và dân ca Bình
Định; Non nước Phú Yên; Văn học dân gian Sông Cầu; Non nước Khánh Hòa. Ngoài
ra, chúng tôi còn sử dụng tài liệu sưu tầm của Khoa Ngữ Văn - Trường ĐH Quy Nhơn ở
các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Hòa, Bình Thuận. Tổng cộng có 4.537 bài ca dao được khảo
sát. Đó là những cơ sở ngữ liệu trọng yếu để chúng tôi tiến hành nghiên cứu các bình
diện của THTM trong ca dao Nam Trung Bộ.
2.1 Biểu hiện của các tín hiệu thẩm mĩ qua thể thơ
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các THTM xuất hiện trong các
trường hợp cụ thể với những thể ca dao khác nhau sẽ có ít nhiều biến đổi về ý nghĩa, về
sắc thái. Ca dao gắn với những thể thơ nhất định như: lục bát, song thất lục bát, song thất
và thể hỗn hợp. Ca dao mỗi vùng miền sẽ có những cách thức vận dụng mỗi thể ca dao
khác nhau, điều này phụ thuộc vào văn hóa, vào tâm lí, vào điều kiện sống...
Đại đa số ca dao được sáng tác theo thể thơ lục bát. Bởi thể lục bát có một phẩm
chất thẩm mĩ đặc biệt kết tinh tinh hoa văn hóa - ngôn ngữ của dân tộc ta. Vì thế: “Thể
thơ này đồng hành cùng với tiến trình phát triển văn hóa - xã hội. Nó bền bỉ và sâu
lắng. Mỗi con chữ hằn rõ dấu ấn những trạng thái tâm lí tinh tế, phức tạp của mọi cá
nhân trong cộng đồng xã hội” [43,40].
Tuy nhiên khi khảo sát ca dao Nam Trung Bộ, chúng tôi có được những kết quả
“bất ngờ” đối với ca dao vùng đất này. Từ 4.537 bài ca dao Nam Trung Bộ, chúng tôi
thu được kết quả như sau:
41
Thể ca dao
Số bài ca dao
Tỉ lệ %
Lục bát
1.825
40,22
Lục bát biến thể
1.376
30,3
Song thất lục bát
173
3,81
Song thất
89
1,96
Hỗn hợp
1.074
23,71
Tổng
4.537
100%
Qua kết quả thống kê trên, chúng ta thấy thể lục bát - thể thơ truyền thống được
sử dụng cao nhất, tiếp đến làlục bát biến thể và thể hỗn hợp. So sánh với kết quả thống
kê của Nguyễn Xuân Kính: “Trong 1.015 lời của Ca dao Việt Nam có 973 lời được
sáng tác theo thể lục bát, chiếm 95%, các thể còn lại (song thất, song thất lục bát, hỗn
hợp) chiếm 5%” [64, 219], kết quả này được coi là một biểu hiện “hình thức đặc trưng”
của các THTM trong ca dao Nam Trung Bộ.
Thể lục bát trong ca dao Nam Trung Bộ chiếm tỉ lệ cao nhất 40,22%. Đây là điều
hiển nhiên, bởi nhắc đến ca dao là chúng ta nghĩ đến thể thơ này. Tuy nhiên, ở thể thơ
lục bát truyền thống, ca dao vùng đất này vẫn mang “dấu ấn” riêng của vùng miền với
các sự vật, hiện tượng đặc trưng được phản ánh, qua việc sử dụng từ ngữ, gieo vần, ngắt
nhịp. Ví dụ như: Chim chuyền bụi ớt líu lo/Lòng thương em bậu ốm o gầy mòn/Thương
nhau giọt lệ nhỏ dài/Thương chùng nhớ lén biết ai trao lời. Với việc dùng từ phương
ngữ “em bậu,thương chùng, nhớ lén” kết hợp với cách gieo vần “o” của “líu lo, ốm o”
càng làm tăng thêm sắc thái biểu cảm của nhân vật trữ tình. Đó là nỗi nhớ làm cho
người con gái “tròng trành, chao đảo”. Cũng diễn tả nỗi niềm thương nhớ của những đôi
trai gái yêu nhau nhưng nhân vật trữ tình trong ca dao Bắc Bộ thể hiện: Đôi ta thương
mãi nhớ lâu/ Như sông nhớ nước như dâu nhớ tằm. Nỗi nhớ ở đây chỉ diễn tả ở mức độ
thời gian lâu dài với nỗi nhớ nhẹ nhàng, kín đáo. Nỗi nhớ của nhân vật trữ tình trong ca
dao Nam Trung Bộ không chỉ được diễn tả bằng thời gian mà còn có sự biểu hiện của
tâm trạng. Hay như nói đến nỗi đau của những người bị phụ tình:
Gan khô ruột héo như dưa
Chàng đà phụ nghĩa thiếp chưa dứt tình
Ở đây nỗi đau dường như tăng lên gấp bội khi sử dụng “gan khô ruột héo”, cái
đau như thấm tận vào xương tủy, gan ruột để nhân vật trữ tình cảm nhận như từng bộ
phận của cơ thể sống đang khô đang héo dần theo năm tháng.
42
Nhịp điệu lục bát trong ca dao Việt Nam nói chung, ca dao Nam Trung Bộ nói
riêng uyển chuyển, linh hoạt vô cùng. Ngoài nhịp truyền thống 2/2, ca dao Nam Trung
Bộ có nhịp điệu phong phú như nhịp 3/3 ở dòng lục, nhịp 4/4, nhịp 3/3/2 ở dòng bát. Ví
dụ như:
-Ngọn Chóp Chài/ cao lắm bấy
Trông hủy trông hoài chẳng thấy người thương.
-Từ ngày thiếp Bắc chàng Đông
Thuyền kia chẳng lại/ hết mong lại chờ.
-Thiếp thương chàng/không ai biết
Chàng thương thiếp/đừng lộ tiếng/ ai hay.
-Xa xôi chưa kịp nói năng
Từ qua đến bậu/như trăng xế chiều.
Việc sử dụng ngôn ngữ địa phương cộng hưởng cách ngắt nhịp phong phú đã tạo
nên chất “thô mộc”, song nhờ “thô mộc” mà ca dao vùng đất này trở nên đặc sắc. Với
nhiều từ lệch chuẩn như “trông hủy, trông hoài”, “lộ tiếng”, “lắm bấy”, “qua’,
“bậu”...đã góp phần tạo nên cái thô mộc đặc sắc ấy.
Cái khuôn mẫu ngàn năm của thể lục bát càng đi vào vùng đất Đàng Trong càng
bị phá bỏ dần. Ở vùng đất mới, nhân vật trữ tình đã tìm cho mình một hình thức phù
hợp. Trong ca dao Nam Trung Bộ, những bài được sáng tác theo lục bát biến thể và thể
hỗn hợp được biểu hiện khá đa dạng, đặc biệt là thể hỗn hợp:
Ở gần bạn không trao
Ở xa bạn mới đoái
Hồi ở gần không đi nói
Cho nên chị em đã đi xa
Nay chừ có cửa có nhà
Anh đừng trách mẹ hờn cha mà tội trời!
Bài ca dao trên gồm 2 câu 5 tiếng, 3 câu 6 tiếng và 1 câu 9 tiếng.Trường hợp dưới
đây gồm có 2 câu 11 tiếng, và 1 câu 7 tiếng, 1 câu 9 tiếng:
Hay như:
Sớm mai chàng hóa con chim trống đứng dựa bìa núi
Chiều lại thiếp hóa con chim mái đứng dựa bìa rừng
Nỉ non ba tiếng cho có chừng
Dẫu xa muôn dặm biểu bạn đừng có xa!
Bạn nói với ta không thiệt không thà
Như cây đủng đỉnh trên già dưới non
Khi xưa bạn nói với ta chưa vợ chưa con
43
Bây giờ ai đứng đầu non đó bạn tề
Bạn nói với ta bạn chưa có hiền thê
Bây chừ hiền thê mô đứng đó bạn trả lại lời thề cho ta!
Bài ca dao trên gồm có 2 câu 8 tiếng, 1 câu 10 tiếng, tiếp đến là 2 câu 9 tiếng và
1 câu 10 tiếng. Phần lớn các bài theo thể hỗn hợp gồm những cặp lục bát, lục bát biến
thể kết hợp với 2 câu thất, hoặc 2 câu bát, hoặc các câu từ 9 tiếng trở lên. Chẳng hạn
như:
Thấy thuyền quyên đảo điên trong dạ
Thương sao thương lạ thương hết tâm tình
Ngày nào anh kêu em đặng bằng mình
Dẫu phải chịu muôn lao nghìn khổ anh vẫn giữ tâm tình sắt son.
Mặc dù ca dao vùng đất này sử dụng nhiều lục bát biếnthể và thể hỗn hợp nhưng
vẫn giữ được âm hưởng, nhịp điệu, gieo vần của thể lục bát. Vần và nhịp trong ca dao là
2 biểu hiện hình thức quan trọng trong quá trình đi tìm giá trị thẩm mĩ của các THTM.
Bởi vần không chỉ có chức năng liên kết mà còn có chức năng nhấn mạnh, chức năng
biểu đạt ý nghĩa cho lời ca dao. Nhịp và vần trong thơ nói chung và trong ca dao nói
riêng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Có thể nói, sự ngắt nhịp là
tiền đề của hiện tượng gieo vần, còn vần có chức năng nhấn mạnh sự ngừng nhịp.Nhịp
thơ có khả năng đem đến một lượng thông tin cho quá trình lĩnh hội. Chẳng hạn, ở thể
lục bát với nhịp chẵn thường tạo âm hưởng êm ái, mượt mà cho bài ca dao. Còn ở lục
bát biến thể và thể hỗn hợp với nhịp lẻ thường tạo giọng “trắc trở, gập ghềnh”.
Vì sao lục bátbiến thể và thể hỗn hợp lại được sử dụng nhiều trong ca dao vùng
đất này?
Theo chúng tôi, thứ nhất, hình thức ca dao thể hiện theo 2 thể thơ này rất gần gũi
với lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng lao động.
Thứ hai, với lục bát biến thể và thể hỗn hợp thường số lượng tiếng được tăng lên
(hoặc giảm đi nhưng rất hiếm) đó là điều kiện đóng vai trò quyết định để nhịp thơ thay
đổi, phá vỡ nhịp 2 của lục bát truyền thống phẳng lặng, êm đềm. Do đó, thường tạo nên
sự “trúc trắc, trục trặc” khi đọc nhằm nhấn mạnh những biểu hiện cuộc sống khó khăn,
những tình cảm khúc mắc, những trở ngại, những nỗi đau uất ức, những nỗi éo le... mà
nhân vật trữ tình đã trải qua:
-Một thuyền/một bến/ một dây
Ngọt bùi ta hưởng /đắng cay/ ta chịu cùng.
-Tôi than hết sức,/ tôi dứt hết tình
Thiếu điều cắt ruột/ trao cho mình/mình ơi.
44
Hay như:
Trách ai/ ngăn lối /trở đàng
Để thiếp ôm lòng vò võ/ trông đợi bóng chàng lại qua
Đêm nay/ anh gối/ tay nàng
Mai ra ngoài biển/ anh gối đàng dây neo...
Những câu ca dao trên hoàn toàn có thể viết lại thành hình thức cho đúng thể lục
bát như: Một thuyền một bến một dây/ Ngọt bùi ta hưởng đắng cay (ta) chịu cùng; Đêm
nay anh gối tay nàng/ Mai ra ngoài biển (anh) gối đàng dây neo...rõ ràng vần, nhịp,
thanh điệu đều đảm bảo nhưng đã mất đi cách nói đích thực còn tươi nguyên “nhựa
sống” của những chàng trai, cô gái xứ sở này.
Thứ ba, phải chăng vùng đất nhiều khó khăn của buổi đầu lập nghiệp đã tác động
đến việc người dân nơi đây sáng tạo và lựa chọn cách diễn đạt “tương thích” này.Thể
hỗn hợp không bị gò bó vào những luật lệ có sẵn, trong khuôn mẫu 6/8 mà nó có sự “co
giãn” về số lượng âm tiết, nhịp điệu linh hoạt uyển chuyển cho nên rất tiện cho việc
diễn tả được dễ dàng, nhanh chóng và nhiều tư tưởng, tình cảm của người dân.Ví dụ:
Em nghe anh/nhức đầu/chưa khá
Em băng đồng/chỉ sá,/hái nồi lá/ cho anh xông
Ở làm ri/ cho nên vợ/ nên chồng
Đổ mồ hôi/em quạt,/ngọn gió lồng/ em che.
Ở ví dụ trên, sự biến đổi số lượng âm tiết trong một dòng ca dao đã làm thay đổi
vị trí gieo vần cho tương thích. Nhịp chẵn được chuyển sang nhịp lẻ tạo sắc thái rất
riêng của ca dao vùng đất này. Nhạc điệu láy ở các TH chưa khá - chỉ sá - nồi lá; xông
- chồng - lồng đã tạo sự nhịp nhàng, liên hoàn giữa các câu và thể hiện đầy đủ các chức
năng của vần.
Theo Phan Ngọc “nói chung lục bát dân gian không biết đến kiến trúc 3-3 và 44. Đó là một loại cấu trúc không có trong thơ ca dân gian”[Dẫn theo 64,243]. Thực tế,
trong ca dao Nam Trung Bộ, kiểu nhịp3 - 3 và 4 - 4 không phải là không có. Có lẽ kiểu
ngắt nhịp này phù hợp với câu ca dao tăng về số lượng âm tiết. Ví dụ như:Thờ cha
mẹ,/ở hết lòng//Ấy là chữ hiếu/dạy trong luân thường; Thương/thì thương hết/cả
nhà//Ghét/thì lại mượn người ta/ghét giùm.
Tính chất ngắn gọn là đặc trưng của ca dao. Chúng ta thường thấy những bài ca
dao 2 dòng (một cặp lục bát) tuy nhiên ở ca dao Nam Trung Bộ số bài 4 dòng và trên 4
dòng chiếm tỉ lệ cao. Phải chăng điều này rất phù hợp với thể hỗn hợp. Từ 4.537 bài ca
dao, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bài ca dao
Số bài
Tỉ lệ %
45
2 dòng
1.765
38,9
4 dòng
1.584
34,91
Trên 4 dòng
1.188
26,19
Tổng cộng
4.537
100%
Số bài ca dao 2 dòng chỉ chiếm 38,9%, tổng số bài 4 dòng và trên 4 dòng chiếm
61,1%. Sự xuất hiện nhiều dòng trong một bài ca dao sẽ góp phần truyền tải được nhiều
nội dung. Vì thế, tâm tư, tình cảm của người dân nơi đây có “cơ hội” được bộc lộ cụ thể
hơn, sâu sắc hơn. Đồng thời, chất sống ở vùng đất này cũng được thể hiện rõ hơn, xông
xáo hơn và người ta dám nói thật hơn, thẳng hơn, bộc lộ nhiều hơn những điều cảm
nghĩ. Ví dụ như:
Hòn đá cheo leo
Con trâu trèo con trâu trợt
Con ngựa rượt con ngựa đổ
Anh thương em lao khổ
Tận cổ chí kim
Anh thương em khó kiếm khôn tìm
Cây kim luồn qua sợi chỉ
Sự bất đắc dĩ, phu thê mới lìa
Nên hay không nên, anh ở em về
Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương.
Sử dụng thể hỗn hợp kết hợp với cách gieo vần, ngắt nhịp bài ca dao đã mang lại
âm hưởng cho người đọc với 10 dòng lời như chạy “vòng qua đá”, nhảy “lốc cốc qua
sỏi”. Đó chính là sự sáng tạo “tinh vi” riêng về nhạc điệu. Từ những biểu hiện hình thức
đó, nội dung đã được biểu hiện một cách sâu sắc: con đường của tình duyên đi qua rất
nhiều ngoắt ngoéo, khấp khểnh, mạch nhạc của bài ca dao đi luồn giữa lòng các dòng
thơ như chính những con đường thử thách đầy chông gai.
8 dòng thơ đầu là nguyên cớ để đến 2 câu kết chủ thể trữ tình bộc lộ tình cảm của
mình: Nên hay không nên, anh ở em về/ Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương mang
hai sắc thái đối nghịch nhau. Câu thứ9 với 5/8 thanh bằng, âm hưởng câu ca dao nhẹ
nhàng như tiếng lòng thổn thức, băn khoăn của nhân vật trữ tình: nên/ không nên. Hỏi
để có cớ mà hỏi, chứ thực tình điều muốn giãi bày đã ẩn chứa trong đó. Đến câu cuối
bài ca dao, sự xuất hiện của 3 từ đừng kết hợp với nhịp ngắn 2/2/2: đừng giao, đừng kết,
đừng thề, sắc thái đã được đẩy lên cao như một lời thách thức, đe dọa quyết liệt đến
khôn cùng. Chủ thể trữ tình đã bộc lộ tình cảm một cách bộc trực đến mạnh bạo nhưng
46
rất đáng yêu. Đáng yêu bởi vì tình cảm được xuất phát từ những tấm lòng chân thành,
xuất phát từ sự ăn ngay nói thẳng, ít ngại mất lòng nhau.
Trong “Đi tìm bản sắc tiếng Việt”, tác giả Trịnh Sâm có viết: “Ca dao Nam
Trung Bộ không những phong phú về thể loại mà còn khá đa dạng về mặt biểu hiện.
Trong đó có thể nói tính chất giao thoa giữa các loại hình nghệ thuật nổi lên hàng đầu”
[117,50]. Đó là những bài dân ca nghi lễ biểu hiện đa sắc màu ở trong lời ca và làn điệu,
chúng gắn liền với các điệu hò, điệu lý. Những bài ca dao dân ca như vậy thường là
tiếng nói tâm tình, là sự giao tiếp giữa con người với thiên nhiên, là nơi thể hiện khát
vọng của nhân dân lao động. Đây cũng chính là một trong những yếu tố góp phần làm
cho hình thức ca dao vùng đất này có những đặc trưng riêng. Ví dụ như bài ca dao sau
có 2 câu 8 tiếng chen giữa hai câu 12 tiếng:
Ngó xuống biển Đông, con cá ngư ông thường ngày thường lội
Ngó lên trên rừng, con hổ thường nằm
Thiếp đó chàng đây đạo ngãi trăm năm
Ví dù không có câu duyên nợ, cũng viếng thăm kẻo buồn.
Hình thức của thể thơ trong ca dao Nam Trung Bộ vẫn nối tiếp truyền thống ca
dao cổ truyền, nhưng lại có những sáng tạo mới đẩy lên một sự phát triển mới. Số câu
cũng không ở trong khuôn khổ tứ tuyệt, nhịp điệu cũng không phải là nhịp êm ái, véo
von; ở đây là nhịp tự do hơn, số dòng trong bài ca dao cũng linh hoạt hơn. Từ hình thức
thơ “tự do” này, sự sống được để nguyên chất hơn, những tình tiết hiện thực cũng nhiều
hơn.
2.2. Biểu hiện của các tín hiệu thẩm mĩqua trường nghĩa
Số lượng THTM trong ca dao Nam Trung Bộ khá lớn, vì vậy trước hết chúng tôi
phân chia các THTM theo 4 trường nghĩa: trường nghĩa hiện tượng tự nhiên, trường
nghĩa vật thể nhân tạo, trường nghĩa thực vật, trường nghĩa động vật và sau đó ở mỗi
trường nghĩa chúng tôi chỉ nghiên cứu những THTM điển hình - những THTM có tần
suất cao. Theo chúng tôi, đối với một cộng đồng diễn ngôn, hiện tượng, sự vật nào gần
gũi, quen thuộc nhất thì xuất hiện trước nhất, xuất hiện nhiều nhất và chúng có tầm
tác động lớn nhất.
Ở mỗi THTM, chúng tôi xem xét các TH cùng xuất hiện trên trục dọc, trục
ngang; các TH kết hợp giúp cụ thể hóa đặc điểm, trạng thái, hoạt động của mỗi THTM;
các TH chỉ đối tượng: thời gian, không gian, động vật, thực vật, vật thể nhân tạo... xuất
hiện với THTM trong cùng một dòng ca dao, một bài ca dao giúp biểu hiện các quan hệ,
ý nghĩa của THTM.
47
Những TH cùng xuất hiện t
trên trục dọ và trục ngang như vậy được phân lập
ọc,
ư
ành
ùng
ểm
hĩaáp
át.
thà các nhóm/ các tiểu nhóm có cù đặc điể ngữ ngh ngữ phá khái quá
ài
am
Bộ,
ôi
:
Khảo sát 4.537 bà ca dao Na Trung B chúng tô thu được:
6
o
M
ượng tự nhi chiếm 43,1%. Đâ là tỉ lệ
iên,
ây
- 1.956 bài ca dao có THTM chỉ hiện tư
cao nhất so vớ các THTM thuộc các trường ng khác tr
o
ới
M
ghĩa
rong ca dao Nam Trung Bộ.
g
- 1.362bài ca dao c THTM c vật thể n
có
chỉ
nhân tạo, ch
hiếm 30%.
ật,
4,31%.
- 1.103 bài ca dao có THTM chỉ thực vậ chiếm 24
5
ật,
3,47%.
- 1.065 bài ca dao có THTM chỉ động vậ chiếm 23
Mối tươ quan củ 4 trường nghĩa đượ biểu hiện bằng biểu đồ sau:
ơng
ủa
g
ợc
n
50
5
40
4
43.1
30
3
30
20
2
24.31
23.47
10
1
0
0
hỉ
chỉ
THTM chỉ hiện THTM ch vật thể THTM c thực vật THT chỉ động
ỉ
TM
nhân
n tao
tượng tự n
nhiên
vật
Hìn 1: Biểu đồ so sánh sự xu hiện các T
nh
uất
THTMthuộc 4 trường nghĩ trong ca da Nam Trun Bộ
ĩa
ao
ng
Trong khuôn khổ luận án, ch
k
húng tôi chỉ tập trung n
ỉ
nghiên cứu những TH
HTMcó tần
số cao trong mỗi trườn nghĩa v những T
ng
và
THTM man “dấu ấ Nam T
ng
ấn”
Trung Bộ.
goài việc ng
ghiên cứu h
hằng thể củ các trườ THTM này, chúng tôi nghiên cứu các
ủa
ờng
g
n
Ng
BT
TTV, cũng như BTKH BTQH củ chúng tr
n
H,
ủa
rong phạm vi kết hợp với những TH cùng
g
dòn ca dao, TH có tần s cao, TH được coi là “nhãn tự của bài c dao, TH có vai trò
ng
T
suất
H
ự”
ca
bổ sung ý ngh quan trọn đối với T
hĩa
ng
THTM đan xem xét.
ng
Sự vượ trội của c THTM chúng tôi n
ợt
các
nghiên cứu “đánh dấu” đặc trưng của các
g
HTM trong ca dao Nam Trung B Chính đ trưng n có nhữn ảnh hưở quan
m
Bộ.
đặc
này
ng
ởng
TH
trọn đến giá trị ý nghĩa c các TH
ng
t
của
HTM mà chú tôi sẽ p
úng
phân tích ở c
chương 3.
Biểu hi hình thứ của các THTM tron ca dao N
iện
ức
ng
Nam Trung Bộthuộccá trường
ác
ngh
hĩađược chú tôi khái quát bằng sơ đồ sau:
úng
g
Ca d Nam Tru Bộ
dao
ung
Trư
ường nghĩa
ường nghĩa
Trư
Trường nghĩ
ĩa
Trường nghĩa
T
a
hiệ tượng tự nhiên
ện
n
vật thể nhân tạ
t
ạo
thực vật
động vật
đ
48
Những THTM điển hình
Hằng thể
Biến thể từ vựng
Biến thể kết hợp
Biến thể quan hệ
Hình 2: Sơ đồ khái quát về hình thức ngôn ngữ biểu đạt
của THTM thuộc các trường nghĩa
Để phân lập trường nghĩa tuyến tính, chúng tôi dựa vào từ trung tâm. Những từ
trung tâm này chứa đựng các nét nghĩa biểu vật, biểu niệm cụ thể khi đứng trong các
chuỗi kết hợp ngữ đoạn. Để xác định trường nghĩa tuyến tính cho cả tập hợp của từ
trung tâm, chúng tôi tiến hành phân lập, thống kê tất cả các dạng thức kết hợp của
chúng (BTKH, BTQH) trong các câu ca dao, bài ca dao có từ trung tâm đang nghiên
cứu. Các dạng thức kết hợp ấy là các từngữ đứng trước và sau từ trung tâm trong câu ca
dao giúp biểu hiện ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp của THTM.
Ở chương 1, chúng tôi đã trình bày các đặc tính của THTM. Đó cũng chính là
vấn đề hằng thể và biến thể của THTM. THTM trung tâm của trường nghĩa được gọi là
THTM hằng thể, mỗi THTM hằng thể có thể ứng với một hoặc một số biến thể ngôn
ngữ nhất định (biến thể của hằng thể- biến thể từ vựng). Sự cụ thể hóa về hình thức
ngôn ngữ (cbđ) gắn liền với sự cụ thể hóa nội dung thẩm mĩ (cđbđ). Quan hệ hằng thể biến thể của THTM còn được biểu hiện thành quan hệ giữa các TH chỉnh thể và TH bộ
phận. Chính sự biến đổi về hình thức ngôn ngữ biểu đạt của THTM trong kết cấu các
câu ca dao thường xảy ra cùng với sự biến đổi về nội dung thẩm mĩ được biểu đạt, mang
lại cái mới, cái cụ thể, sinh động cho THTM trong mỗi lần xuất hiện của nó.
Có thể xét biến thể của THTM trong tác phẩm văn học, cụ thể ở đây là thể loại ca
dao qua những biểu hiện sau:
Biến thể từ vựng (BTTV): là tên gọi khác của THTM được nảy sinh trong quá
trình sử dụng, với ý nghĩa cơ bản không biến đổi. Nói cụ thể hơn, BTTV là những đơn
vị đồng nghĩa, gần nghĩa, cùng trường nghĩa hoặc đồng sở chỉ với THTM hằng thể. Ví
dụ như THTM biển trong thực tế sử dụng có thể được thay thếbằng: biển khơi, khơi,
bể, đại dương.
Biến thể kết hợp (BTKH) là những biến thể nảy sinh trong sử dụng của một
THTM. Nó được miêu tả, được cụ thể thêm bởi một số yếu tố phụ trợ cùng xuất hiện
trên trục tuyến tính. Trong ngôn ngữ, đây là kết quả của tính hình tuyến, cùng một
49
THTM nhưng nó có sự biến đổi ít nhiều trong quan hệ với từ ngữ đi trước và đi sau. Khi
xuất hiện trong những tổ hợp khác nhau, TH ít nhiều biến đổi để tạo nên những tình
cảm, cảm xúc khác nhau.
Ví dụ: các THTM thuộc trường nghĩa thực vật như: cau, tre, dâu sẽ được cụ thể
hơn với những đặc điểm, tính chất, màu sắc, vận động, trạng thái...qua các BTKH
như:Một mình lo bảy lo ba/ Lo cau trổ muộn lo già hết duyên/ Cau già mượn mớ bán
phiên/ Phần tôi lỡ lứa ngồi riêng ra ngoài;Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng/ Tre ra lá
bẻo gầy sàng nên chưa?Trong các ví dụ này, THTM cau có các BTKH: lo, trổ muộn,
già; THTM tre có BTKH: ra lá.
Như vậy, các BTKH xuất hiện ở cả hai vị trí trước và sau THTM. Những BTKH
có thể là những từ/ cụm từ chỉ đặc điểm, tính chất, hoạt động đi kèm làm rõ nghĩa cho
THTM, giúp cụ thể hóa THTM. Chính những BTKH này của THTM đã mang lại những
YNTM mỗi lần một mới khi nó xuất hiện trong ngữ cảnh.
Biến thể quan hệ (BTQH) là những biến thể nảy sinh trong sử dụng của một
THTM. Cùng xuất hiện với THTM, trong một dòng ca dao, bài ca dao còn có những TH
khác giữ vai trò bổ sung ý nghĩa cho nó, đẳng cấu với nó trong một khung ngữ nghĩa
chung. Sự tương tác giữa các TH sẽ tạo nên những biến thể do quan hệ của TH. Ví dụ
như:Dừa xanh trên bến Tam Quan/ Dừa bao nhiêu trái, em thương chàng bấy nhiêu.Ở
câu ca dao này, BTQH cùng xuất hiện trên một dòng hay trong một bài: dừa xanh- trái
- em - thương - chàng, cùng với cấu trúc bao nhiêu - bấy nhiêu giúp biểu đạt sự sóng
đôi giữa vẻ đẹp của thiên nhiên với tình yêu lứa đôi của con người. Và để hiểu ý nghĩa
biểu trưng của THTM dừa: thể hiện nỗi niềm tương tư, sự nhớ thương da diết luôn
hướng về nhau của nhân vật trữ tìnhcần thiết phải xét đến các TH đồng xuất hiện trong
cả văn bản.
Các BTQH của một THTM có số lượng vô cùng lớn, có quan hệ ngữ nghĩa ngữ
pháp hết sức phức tạp. Bởi vậy, luận án chỉ nghiên cứu những trường hợp có vai trò bổ
sung ý nghĩa quan trọng đối với từng THTM được xét.
Có thể nói, mối quan hệ giữa hằng thể và biến thể là mối quan hệ giữa cái chung
và cái riêng, giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, giữa cái bất biến và cái khả biến, cái vô
hình và cái biểu kiến, phải thấy được mối quan hệ hai mặt này thì mới đánh giá được
giá trị của THTM.
Trong mỗi trường nghĩa, các THTMcó tần số, có giá trị thẩm mĩ không đồng
đều. Ở mỗi trường nghĩa, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những THTM có tần số
cao, THTM có “hàm lượng” ngữ nghĩa thẩm mĩ cao nhất. Chúng được coi như là những
50
THTM cơ bản quan trọng nhất đại diện cho một trường nghĩa trong ca dao Nam Trung
Bộ. Ở mỗi THTM điển hình của từng trường nghĩa, chúng tôi trình bày các dạng thức
biểu hiện của THTM trung tâm - hằng thể, biến thể của hằng thể, các BTKH, các BTQH
qua những dạng thức sau:
1.
2.
3.
4.
5.
Tên gọi của THTM
Từ ngữ chỉ đặc điểm, tính chất của THTM (BTKH 1)
Từ ngữ chỉ hoạt động của THTM (BTKH 2)
Từ ngữ chỉ thời gian, không gian của THTM (BTQH 1)
Từ ngữ chỉ sự vật nhân tạo, hiện tượng tự nhiên liên quan đến THTM
(BTQH 2)
6. Từ ngữ chỉ thực vật, động vật liên quan đến THTM (BTQH 3)
7. Từ ngữ chỉ con người, hoạt động của con người, sự việc xã hội liên quan
đến THTM (BTQH 4)
8. Từ ngữ chỉ tính chất, tâm lí con người liên quan đến THTM (BTQH 5)
Sau đây là kết quả nghiên cứu các THTM điển hình của mỗi trường nghĩa.
2.2.1 Biểu hiện của các tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự
nhiên
Hiện tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội được phân biệt chủ yếu ở chỗ: có tồn
tại độc lập hay không trong mối quan hệ với xã hội loài người. Hiện tượng nào khi vượt
ra ngoài xã hội, tách ra khỏi xã hội loài người mà vẫn tồn tại thì thuộc hiện tượng tự
nhiên, còn hiện tượng nào khi vượt ra ngoài xã hội loài người không thể tồn tại thì thuộc
hiện tượng xã hội.
Thuộc hiện tượng tự nhiên có: các hiện tượng của thế giới tự nhiên và các hoạt
động có tính chất bản năng sinh vật của con người (ăn, ngủ, đi, đứng...). Đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi là những hiện tượng của thế giới tự nhiên.
Hiện tượng tự nhiên là hiện tượng xuất hiện, tồn tại, hoạt động không tùy thuộc
vào ý chí, ý muốn của con người.Chẳng hạn như các sự vật hiện tượng: biển, núi, nắng,
mưa, gió, trăng, mây, ngày, đêm...
Từ 4.537 bài ca dao, chúng tôi thu được 1.956 bài ca dao có THTM chỉ hiện
tượng tự nhiên. Như vậy các THTM trường nghĩa hiện tượng tự nhiên chiếm 43,1%,
đây là một tỉ lệ cao nhất trong tương quan với các THTM thuộc các trường nghĩa khác
trong ca dao Nam Trung Bộ như trường nghĩa vật thể nhân tạo, trường nghĩa thực vật,
trường nghĩa động vật.
Sau đây là tần suất (Ts) cụ thể của từng THTM: