1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Tiến sĩ >

CHƯƠNG 3. BIỂU HIỆN Ý NGHĨA CỦA CÁC TÍN HIỆU NGÔN NGỮ THẨM MĨ TRONG CA DAO NAM TRUNG BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.07 MB, 230 trang )


92



Người gửi



Thông



Người nhận



điệp



Hình 12: Mô hình giao tiếp cơ bản



Qua mô hình trên có thể thấy, người gửi thông điệp (người tạo lập) truyền đi một

thông điệp (văn bản) cho người nhận (người lĩnh hội). Để bức thông điệp có hiệu quả,

yêu cầu đầu tiên là phải có một hoàn cảnh giao tiếp (hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn

cảnh giao tiếp hẹp) mà bức thông điệp chuyển dẫn. Tiếp đến, yêu cầu một bản mã

chung cho cả người gửi và người nhận. Bức thông điệp đòi hỏi một sự tiếp xúc, một

kênh vật chất và một sự kết nối tâm lý giữa người gửi và người nhận. Sự tiếp xúc cho

phép họ xác lập và duy trì sự giao tiếp.Để quá trình chuyển mã và giải mã đạt hiệu quả

giao tiếp cao, giữa người gửi và người nhận cần có sự giao thoa trong quá trình giao

tiếp. Sự giao thoa đó là cùng chung một hệ thống TH (ngôn ngữ), cùng chung kiến thức

nền, cùng chung nền văn hóa, cùng chung sở thích, tâm lí...Như vậy, chúng ta muốn

hiểu nội dung biểu đạt chính xác của văn bản thì cần phải đặt văn bản đó trong mối

quan hệ của nhiều nhân tố.

Nghiên cứu YNTM của các TH thuộc các trường nghĩa trong ca dao Nam Trung

Bộ chính là nghiên cứu những lần biểu hiện của những THTM trung tâm. Khi nghiên

cứu ý nghĩa THNN nói chung, THTM thuộc các trường nghĩa nói riêng thì việc nghiên

cứu các quan hệ giữa các TH (BTKH, BTQH) là một công việc rất quan trọng. Bởi, giá

trị của THTM trung tâm ngoài việc được xác định bằng các đặc trưng của cđbđ- mặt

ngữ nghĩa của THTM- thì còn được xác định bằng các đặc điểm phân bố của các THTM

đó trong các câu ca dao khác nhau. Các đặc điểm phân bố này chính là sự thể hiện ra

bên ngoài của các mối quan hệ có thật giữa các TH trong một ngôn ngữ. Các quan hệ

này bao gồm các cấp độ: âm vị và mối quan hệ âm vị, từ và các quan hệ từ pháp, câu và

các quan hệ cú pháp, văn bản và các quan hệ giữa các thành tố văn bản. Thông tin của

các quan hệ này đưa lại thường không phải là các thông tin về nghĩa từ vựng của từ,

cũng không phải là thông tin logic của một câu mà là những thông tin về giá trị của

THTM đó trong hệ thống, những thông tin về hệ thống, cấu trúc.

Theo kết quả khảo sát, phân tích, chúng tôi nhận thấy các THTM trong các

trường nghĩa đã đề cập thì ở mỗi THTM có số lượng YNTM phong phú, có những ý

nghĩa chung, phổ quát nhưng cũng có những ý nghĩa đặc trưng của vùng miền. Vấn đề



93



“Đặc trưng của các TMTM trong ca dao Nam Trung Bộ” sẽ được chúng tôi nghiên cứu

ở chương 4.YNTM của các TH có thể được thể hiện khái quát qua mô hình sau:



CBĐ

CBĐ’



CĐBĐ



Nghĩa

hạt nhân



Nghĩa

Nghĩa liên hội

lĩnh hội



CĐBĐ’(ý nghĩa thẩm mĩ)



YNTM

1



YNTM

2



YNTM

n



Môi trường giao tiếp



Hình 13: Mô hình khái quát về ý nghĩa thẩm mĩ của các TH



- Nghĩa hạt nhân: Biểu thị phần nội dung ổn định, chung cho cộng đồng.

- Nghĩa liên hội: Phần nội dung riêng của cá nhân hoặc cộng đồng có tính

không ổn định gắn liền với ngữ cảnh. Việc nắm bắt và phân tích được các ý nghĩa

liên hội góp phần tìm ra những đặc trưng nhận thức của thời đại, của cộng đồng

ngôn ngữ và của cá nhân các nhà nghệ thuật ngôn từ.

Ví dụ: Cây đa từ bao đời nay như một biểu tượng của làng quê truyền thống, đặc

biệt là làng quê Bắc Bộ với sức sống mạnh mẽ, tán rộng, gốc to và tươi tốt quanh năm.

Với những hình ảnh như vậy, YNTM đầu tiên của cây đa là sự trường tồn, sức sống dẻo

dai (và với các giá trị nghĩa liên hội khác nữa).Trong ca dao, ý nghĩa bền vững của cây

đa được thể hiện qua những lời ca nói về tình yêu đôi lứa:Có quán tình phụ cây đa/ Ba

năm quán đổ cây đa hãy còn. Cây đa - còn là nơi hẹn hò của các đôi trai gái: Em đang

dệt vải quay tơ/ Bỗng đâu có khách đưa thơ tới nhà/Hẹn giờ ra dốc cây đa/ Phượng

hoàng chả thấy, thấy gà buồn sao.Và còn có ý nghĩa biểu đạt cho tình yêu chung thủy,

sắt son, lâu bền:Cây đa lá rụng sân đình/ Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu.Với

người dân quê truyền thống gốc đa là nơi bình đẳng nhất, không phân biệt ngôi thứ:

Không tiền ngồi gốc cây đa/ Có tiền thì hãy lân la vào làng. Cây đa trong vai trò là cây

thiêng, là biểu tượng của thần linh:Ở cho phải phải phân phân/ Cây đa cậy thần, thần

cậy cây đa. Cây đa còn có nhiều ý nghĩa khác nữa trong mỗi nhóm người, mỗi cá nhân

tùy thuộc vào kinh nghiệm sống, các yếu tố lịch sử- văn hóa- xã hội.

3.2 Ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao Nam Trung Bộ



94



Nhiệm vụ của phần này là nghiên cứu bình diện nghĩa của các THTM thuộc các

trường nghĩa: hiện tượng tự nhiên, vật thể nhân tạo, thực vật, động vật trong ca dao

Nam Trung Bộ và trong hoạt động hành chức nghệ thuật. Đây chính là việc chúng ta

nghiên cứu sự hành chức có tính đặc thù của một hệ thống THTM -TH văn chương

nhằm rút ra các YNTM của chúng. Hay nói một cách khác là nghiên cứu trường nghĩa

liên tưởng để rút ra các hệ quả ngữ nghĩa khái quát mang tính quy luật của các từ chỉ

hiện tượng tự nhiên, vật thể nhân tạo, thực vật, động vật cụ thể là các THTM: trời, núi,

biển, gió, trăng (thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên); nhà, áo, thuyền- đò- ghe,

chén - bát - đĩa- nồi - mâm-đũa, cầu (thuộc trường nghĩa vật thể nhân tạo); cây, lúa,

dừa, cau, tre (thuộc trường nghĩa thực vật); chim, cá, gà, rồng, heo (thuộc trường nghĩa

động vật) trên kết quả nghiên cứu về các loại biến thể mà chúng tôi đã trình bày ở

chương 2.

Để xác lập nên trường nghĩa liên tưởng, chúng ta phải dựa vào các nghĩa của từ

điển hình, từ được coi là nguyên mẫu. Và khi những từ ấy xuất hiện trong các văn bản

nghệ thuật, chúng sẽ được bổ sung nhiều ý nghĩa mới, gắn liền với các nhân tố giao tiếp

trong bối cảnh nghệ thuật. Chính vì vậy, nghĩa liên tưởng có thể rất bất ngờ, rất “mới”,

nhưng trong quá trình hành chức - người tiếp nhận văn bản vẫn lí giải được chúng bởi

các nhân vật giao tiếp có chung kiến thức nền và những THTM đó vẫn có chứa “cái

lõi” ngữ nghĩa cơ bản, trung tâm trong hệ thống trường nghĩa liên tưởng.

Ví dụ xét những câu ca dao sau có từ lúa, chúng ta sẽ thấy các ý nghĩa mới đã

được hình thành bất ngờ, thú vị như thế nào dưới áp lực của trường nghĩa liên tưởng của

ngữ cảnh nghệ thuật: Lúa kia xanh ở ngoài đồng/ Lúa cho ta gạo lúa trồng nên ta; Nhà

em thi lúa phơi khô/ Gánh mau lên nộp quỹ trao tại đình/Lúa trao cho chính phủ mình

/Nuôi quân đánh giặc đặng mình tự do.

Những hiểu biết về từ lúa trong hệ thống cũng chỉ cho ta biết cái nghĩa thông

thường của nó trên mặt chữ: cây lương thực,thân thảo rỗng, hạt có vỏ trấu bao ngoài

gọi là hạt thóc [164,1056]. Những nét nghĩa này chính là cơ sở trọng yếu để thơ ca nghệ

thuật khai triển các YNTM của TH lúa. Trong sự kết hợp theo với các từ cùng xuất hiện

trên một dòng ca dao và cả bài ca dao, với tri thức văn hóa làng xã Việt Nam, nhân vật

giao tiếp sẽ thấy được mối quan hệ giữa nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn trong ngôn

bản.

Ngữ nghĩa liên tưởng từ những TH nghệ thuật thường rất bất ngờ.Trong đó, các

BTTV và BTKH với tư cách là những cbđ bằng ngôn ngữ, có vai trò rất quan trọng



95



trong việc xác định YNTM. Nghiên cứu ý nghĩa của các THTM thuộc các trường

nghĩa,chúng tôi sẽ trình bày theo các bước sau:

Thứ nhất là ý nghĩa cơ sở. Dựa vào từ điển tiếng Việt, chúng tôi trình bày nghĩa

củacác THTMtrong hệ thống (cbđ tự nhiên, thông thường của TH ngôn ngữ bản thể chất

liệu). Các THTM này dù xuất hiện ở dạng tên gọi nào, được miêu tả trong những đặc

điểm, trạng thái, hoạt động, quan hệ...thế nào, cũng đều có cái lõi ý nghĩa thông thường.

Tất cả các ý nghĩa tiếp theo của các THTM nghiên cứu được hình thành trong thế giới

nghệ thuật, dù đa dạng phong phú đến mấy cũng đều xuất phát từ nghĩa cơ sở này.

Thứ hai là ý nghĩa thẩm mĩ hằng thể của các THTMthuộc các trường nghĩa

trong ca dao Nam Trung Bộ.Đây chính là loại ý nghĩa biểu trưng - cđbđ thẩm mĩ phổ

quát, chung nhất của các THTM trong thực tiễn hành chức nghệ thuật. Sau đây là kết

quả nghiên cứu biểu hiện ý nghĩa của các THTM thuộc các trường nghĩa.

3.2.1 Ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự

nhiên

3.2.1.1 Ý nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ trời

a. Ý nghĩa cơ sở trong hệ thống của tín hiệu ngôn ngữ trời

Trong ca dao Nam Trung Bộ, theo số liệu thống kê của chúng tôi, THTM trời

xuất hiện 275 lần/ 2.111 lần xuất hiện của 22 THTM được xét, chiếm 13,02 % thuộc

THTM có Ts cao nhất. Và số lượng các biến thể trong thực tiễn hành ngôn so với các

loại THTM khác cũng thuộc loại cao, ý nghĩa thẩm mĩ, do đó cũng phong phú, phức

tạp. Những tên gọi có Ts cao là: trời, ông trời, mặt trời. Dù trời xuất hiện ở dạng tên

gọi nào, được miêu tả trong những đặc điểm, trạng thái, hoạt động, tính chất...như thế

nào, cũng đều có cái lõi ý nghĩa thông thường cơ bản theo Từ điển tiếng Việt là: 1.

khoảng không gian nhìn thấy như hình vòm úp trên mặt đất, 2. Thiên nhiên, 3. Lực

lượng siêu nhiên trên trời cao, có vai trò sáng tạo và quyết định mọi sự ở trần

gian[163,1722].Và tất cả các ý nghĩa khác của trời được hình thành trong thế giới nghệ

thuật ca dao, dù đa dạng phong phú đến mấy cũng đều xuất phát từ nghĩa cơ sở này.

Cơ sở làm nền tảng ban đầu cho THTM trời là THNN cấp 1 trời. Đó là một hợp

thể bao gồm các nhân tố: âm thanh, nghĩa biểu vật, nghĩa sử dụng, nghĩa trong hệ thống

ngôn ngữ. Từ những cơ sở này, trời tiếp tục được nhận thức để chuyển tiếp các nghĩa

vượt cấp cao xa hơn - các YNTM của trời khi trời trở thành một THTM. Khi đi vào thế

giới nghệ thuật, trở thành THTM, trời sẽ bị chi phối, bị biến đổi bởi các mục đích, các

quy luật của nghệ thuật nói chung, đặc điểm của từng loại hình nghệ thuật nói riêng. Ở



96



đây nghệ thuật - thi pháp của ca dao - THNN trời giờ đây sẽ trở thành cbđ của THTM

trời, là sự cụ thể hóa về mặt hình thức của TH văn chương trong ca dao.

Mối quan hệ hằng thể - biến thể của trời trong ca dao sẽ được biểu hiện trong

tương quan giữa một bên là THTM trời hằng thể - nguyên mẫu có tính trừu tượng bất

biến và một bên là các đơn vị ngôn ngữ hiện dạng, cụ thể. Ví dụ như, THTM trời trong

thực tế sử dụng có thể được thay thế bằng các yếu tố chỉ bộ phận: mặt trời, chân trời,

da trời...Xét trong mối tương quan có thể thấy nghĩa của trời không cụ thể bằng nghĩa

của mặt trời, chân trời, da trời...Mặt trời, chân trời, sao trời...ngoài mang ý nghĩa cơ

sở trờicòn có thêm những nét nghĩa thẩm mĩ nữa như: sự vĩ đại, mang ánh sáng hạnh

phúc, sự xa xôi...

Mối tương quan hằng thể - biến thể trong THTM trời còn được thể hiện thành

các quan hệ giữa THTM trời trừu tượng, bất biến với các TH khả biến trong những lần

xuất hiện thể hiện những đặc điểm về hoạt động, tính chất, trạng thái quan hệ cụ thể

khác nhau của trời qua các BTKH, BTQH. Đặt trong quan hệ ngữ đoạn - cấp độ ngôn

ngữ cụ thể: cụm từ, câu ca dao, bài ca dao, trời tiếp tục được cụ thể hóa hơn về các ý

nghĩa TM.

b.Ý nghĩa thẩm mĩ hằng thể của tín hiệu trời

Đây chính là loại ý nghĩa biểu trưng - cđbđ thẩm mĩ phổ quát, chung nhất cho

THTM trời trong thực tiễn hành chức nghệ thuật. Ý niệm thông thường nhất của người

Việt Nam về trờichính là bầu trời xanh vật chất ở trên đầu chúng ta. Đó là môi trường

thiên nhiên của mọi biến chuyển về thời tiết như mưa nắng, gió bão v.v...Chính vì thế sự

có mặt của các TH chỉ không gian hay các TH chỉ hiện tượng tự nhiên cùng xuất hiện

với THTM trời lại có Ts cao và phong phú như vậy.

Với cuộc sống nông nghiệp, người Việt Nam phải xem trời để biết thời tiết, biết

ngày giờ trồng trọt, chăn nuôi ... Cũng chính vì thế THTM trời kết hợp với rất nhiều các

TH chỉhiện tượng tự nhiên (34 đvị,132 lần). Số lượng các BT trong thực tiễn hành ngôn

của nó phong phú và phức tạp.

- Khi trời là sự vật có ba ý nghĩa cơ bản: (1) khoảng không bao phủ trên không:

Dừa xanh sừng sững giữa trời; Ngó lên trời, trời cao lồng lộng...(2) Thiên nhiên, thời

tiết (trời hạn, trời mưa, trời nắng...):Tiết trời nay đã chuyển vào mùa khô;Trời mưa ướt

lá trầu vàng...(3) Lực lượng siêu nhiên sáng tạo và quyết định mọi sự (trời hành, trời

làm, trời phạt...): Trời làm mù mịt tối thui; Tình yêu là thứ trời hành; Ông trời phán tự

trên cao...



97



- Khi trời chỉ tính chất, trạng thái, hoạt động có hai ý nghĩa chính: (1) Hoang dại,

không do con người vun trồng, nuôi dưỡng: Trời cho mỗi thứ mỗi ngon;Thấy con cá

nước đang mong chim trời...(2) Chỉ thời gian: Cưới nhau ở mấy năm trời/ Giờ xa nhau

cách bao lời nhớ thương...

- Khi trời được dùng để biểu lộ trạng thái, cảm xúc có các ý nghĩa sau: (1) Tiếng

than thở, thốt lên ngạc nhiên hay luyến tiếc (trời ơi, quá trời, trời hỡi, rứa trời...): Trời

mưa chi khổ rứa trời/Ướt người vệ quốc không nơi không nhà;Tìm đến mẹ mẹ đâu

không thấy/Tấm thân này hiếu mấy trời trời ơi!...(2) Được dùng để trách móc bộc lộ sự

căm phẫn, bực bội:Trách trời khéo dội nắng mưa/ Cho nên cây kiểng ngày xưa héo

sầu...

Có thể nói, người dân Việt Nam nói chung, người dân khu vực Nam Trung Bộ

nói riêng sống gần gũi với trời, từ khi chào đời cho tới khi qua đời, người ta nói nhiều

tới trời xanh, người ta tin rằng tất cả mọi sự việc, hành động của con người đều có trời

chứng giám, can thiệp. Tiếng trời được xuất phát từ “cửa miệng” dân chúng qua đời

sống hằng ngày một cách dễ dàng, nó lại được sàng lọc và kết tinh, lưu trữ trong tâm trí

con người, trong ca dao như những nguyên tắc đạo lí, được lưu truyền qua nhiều thế hệ

của người Việt. Chúng ta có thể thấy trời đã hiện hữu trong cuộc sống của người dân

Nam Trung Bộ như sau:

-THTMtrờigắn bó với quê hương đất nước, gắn bó với vẻ đẹp núi, sông, đất,

biển, rừng... của khu vực Nam Trung Bộ:Bờ biển Rạng mênh mang dòng nước biếc/

Chân trời xanh mà dòng nước cũng xanh;Trước mặt anh biển xanh sóng hát/ Sau

lưng anh núi tạo hình cung/ Trên đầu anh trời rộng vô cùng/ Bước chân anh điệp

trùng hoa trái...Nói đến trời cũng là nói đến những miền sâu thẳm, thiêng liêng nhất,

làm nên cội nguồn, cốt cách riêng của tâm hồn con người Việt Nam. Ở YNTM này đã

tiềm ẩn một nguồn năng lượng dồi dào về sự gắn bó, tình yêu, niềm tự hào thiết tha đối

với quê hương giàu đẹp.

-THTM trời luôn “đồng hành” với cuộc sống của người dân Nam Trung Bộ,

trờitạo dựng muôn vật và trông coi, gìn giữ, trời tham gia vào tất cả các hoạt động của

đời sống con người, đặc biệt là hoạt động sản xuất nông nghiệp - một hoạt động phụ

thuộc rất nhiều vào thời tiết.Sự kết hợp với các THTM khác như: mây, mưa, gió,

nắng... các nhóm động vật, thực vật đi kèm, những TH có mối quan hệ mật thiết với

trời, làm thành một không gian rộng lớn chứa đựng muôn loài, tất cả những đối tượng

đồng hiện với trời này đã tạo dựng một không gian nghệ thuật là một thiên nhiên thật

rộng lớn đa dạng với muôn vàn hình sắc.



98



Điều đáng nói là các TH có tần số cao đều chủ yếu mang nghĩa biểu trưng: Sớm

mai vác cuốc ra đồng/Nhắn trời mưa xuống cho đồng lúa xanh; Vái trời đổ xuống cơn

mưa/ Để em tôi hết sớm trưa ra đồng...Chính vì xuất phát từ kinh tế nông nghiệp, cuộc

sống người dân Nam Trung Bộ phụ thuộc rất nhiều vào các hiện tượng tự nhiên do “trời

cho”. Vì vậy, trong tâm thức họ,trời là một đấng tối cao, một lực lượng siêu nhiên đem

đến cho con người mọi thứ và trong số liệu thống kê, chúng tôi thấy BTKH “vái trời,

lạy trời, van trời, cầu trời, nhờ trời, xin trời ...cho” có số lần xuất hiện rất cao. Cho nên

BTQH và BTKH với THTM trời được chuyển nghĩa rất phong phú. Cụ thể là: Trời

sinhra có biển có nguồn; Trời sinhcái cửa ra vào; Trời làm phân tóc lìa tơ; Cầu trời

đừng nắng, chớ mưa trên đàng...

Trời được đưa vào nhiều loại TG. Trong đó, TG đi kèm thường xuyên và nhiều

nhất là ngày, chiều chiều, mùa hè, trưa...Có lẽ đây là những thời điểm “mặt trời” tham

gia vào mọi sinh hoạt của đời sống con người. Ở tất cả khoảng thời gian trời xuất hiện

thông qua các THTM chúng ta thấy được hết mọi trạng thái tâm lí của con người: cô

đơn, lẻ bóng, buồn, chờ mong mỏi mòn...

Trong mọi trường hợp xuất hiện, THTM trời đều được đặt trong tương quan với

TH chỉ con người (mục 2.2.1.5, phần a), chỉ các trạng thái, tình huống tâm lí, chỉ những

sự vật, hiện tượng nhân tạo (mục 2.2.1.6, phần a) cho thấy mối quan hệ gắn bó tự nhiên,

mật thiết, bền vững giữa cuộc sống con người với trời đất. Trong đời sống hằng ngày

nói chung, cũng như trong thể loại ca dao những tiếng “trời ơi, trời hỡi,...” là những

tiếng kêu trước những biến cố khó khăn, bất ngờ, bất khả kháng. Người ta kêu trời cũng

là để nói lên nỗi lòng, để bày tỏ lòng biết ơn và cảm phục, để than trách và cầu cứu:

Chiều chiều ra ngắm sông sâu/ Thấy dòng nước chảy, dạ đau từng hồi/ Tội tình ta lắm

ai ơi/ Cắn răng mà chịukêu trời được đâu. Và khi gặp nghịch cảnh, con người thường

oán trách trời, họ kêu trời để chứng giám, minh oan, vì họ tin rằng trời là nhân tố quyết

định cho mọi sự công bằng trên đời: Trời ơi có thấu không trời/Công ta vun xới cho

người hái hoa; Trời ơi, trời ở chẳng cân/ Người ăn chẳng hết người lần chẳng ra...

Trong số liệu thống kê, chúng tôi nhận thấy THTM trời mang YNTM so sánh

với công ơn cha mẹ chiếm tỉ lệ cao, và cũng là nơi mà con cái bộc lộ, chia sẻ tình

thương của mình với đấng sinh thành và nuôi dưỡng: Ngó lên thấy da trời xanh/ Ơn cha

nghĩa mẹ biết ngày nào nguôi/ Ngậm ngùi chín chữ cù lao/ Ơn cha nghĩa mẹ biết bao

sinh thành; Ơn cha như núi ngất trời Tây/ Nghĩa mẹ lai láng như nước đầy biển

Đông...



99



Một giá trị thẩm mĩ chiếm tỉ lệ cao trong nhiều YNTM đã trình bày ở các

THTM trên đó là trời đóng vai trò là nguyên cớ, là bối cảnh, là cái nền tạo dựng để

người chủ thể trữ tình giãi bày tâm trạng, cảm nghĩ. Trong ca dao cũng như trong thơ,

nội dung trữ tình thường xuất hiện theo thứ tự cảnh rồi đến tình. Ở đây, trời thường giữ

vị trí như cái mốc không gian đánh dấu sự khởi đầu hay hiện diện của tâm trạng chủ thể

trữ tình. Trong nhiều trường hợp, chính sự hiện diện của trờiđã làm cho sự giãi bày cảm

xúc thêm tự nhiên, thoải mái. Đó có thể là không gian chứng giám tình yêu đôi lứa, đó

cũng có thể là nguyên cớ trời định để chúng mình có đôi, và đó cũng là nơi để chủ thể

trữ tình trút bỏ giận hờn, đau khổ trong tình yêu: Đôi lứa ta như quế với trầm/ Trời xui

đất khiến sắt cầm gặp nhau; Bao nhiêu nhân nghĩa em gửi lại đây/ Trời xanh se định,

định se có mấy hồi...

Từ THTM trời, những bức chân dung tâm trạng của chủ thể trữ tình đều hiện rõ

với bao buồn, vui, hạnh phúc, xót xa, đau khổ, giận hờn, âu lo, cô đơn, khát khao...Tất

cả đều qua trời, bằng trời trực tiếp hay gián tiếp mà chủ thể trữ tình giãi bày, bộc lộ.

Âm hưởng ca dao Nam Trung Bộ mang một nỗi buồn da diết, buồn vì thời cuộc,

buồn vì tha hương, buồn vì những khó khăn của cuộc sống vùng đất mới...Nhưng nỗi

buồn của những con người nơi đây không đồng nghĩa với bi quan, ở họ vẫn là niềm lạc

quan, tâm tư đó được gửi gắm vào hình ảnh của “trời xanh”,“núi xanh”,“biển xanh”

biểu trưng cho cuộc sống hạnh phúc, yên bình với nhiều hy vọng của con người ở mọi

thời đại.

Với tư cách là một đối tượng khách thể, trời trước hết được tri nhận, miêu tả,

biểu hiện theo lối trực quan đúng như thực tế nó tồn tại. Điều này được thể hiện qua

những từ ngữ miêu tả màu sắc, bộ phận, vận động, trạng thái... của trời chủ yếu mang

nghĩa biểu vật (mục 2.2.1.1 và 2.2.1.2, phần a).

Với tư cách là một đối tượng giúp biểu hiện tâm hồn, tâm linh chủ thể, trời được

miêu tả qua cái nhìn tượng trưng, siêu thực, đậm tính chủ quan. THTM trời hữu hình

sống động, có linh hồn đầy tình tứ, những trường hợp miêu tả trời như thế (mục 2.2.1.2,

phần a) đều có sự chuyển nghĩa ẩn dụ: Trên rặng liễu bơ vơ cánh nhạn/ Ngút trời xanh

ảm đạm thu về;Bắc thang lên hỏi ông trời/ Những phương lúachết ông trời tính

sao/Ông trời phán tựtrên cao/ Những phương lúa chết để tao mưa liền...Lối miêu tả

trời như vậy đã khiến cho nó như được nhập sâu vào đời sống con người, được hội tụ đủ

mọi chiều tâm trạng để có thể hòa điệu với lòng người, được trở thành con người.

Trên đây, chúng tôi đã trình bày những YNTM hằng thể của THTM trời trong ca

dao Nam Trung Bộ. Nhìn chung những ý nghĩa này đều cụ thể hóa, đều xoay quanh cái



100



“mẫu gốc”: “Trời là một biểu tượng gần như phổ quát mà qua đó con người thể hiện

niềm tin vào một Sinh Linh thần thánh ở trên cao, người sáng tạo ra vũ trụ và bảo đảm

cho sự phì nhiêu của đất. Những Sinh Linh như thế có tài tiên tri và trí anh minh vô

biên...; Trời là một biểu hiện trực tiếp của cái siêu tại, của quyền uy, của cái vĩnh hằng,

cái thiêng liêng: cái mà không một sinh vật nào trên mặt đất này có thể đoạt

được...;Trời khắp nơi là biểu tượng của những uy lực tối cao đối với con người, dù là

thiện chí hay đáng sợ”[13, 956 - 957].

3.2.1.2 Ý nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ núi

a.Ý nghĩa cơ sở trong hệ thống của tín hiệu ngôn ngữ núi

THTM núi xuất hiện 254 lần, đứng thứ hai trong bảng xếp hạng chiếm 12,03 %

do đó YNTM cũng phong phú. Trong sử dụng, những tên gọi, các yếu tố chỉ bộ phận,

tập hợp của núi xuất hiện nhiều là: núi, đỉnh núi, chân núi, núi rừng, núi non,

hòn...Đó là những hình thức ngôn ngữ biểu đạt điển hình, phổ quát của núi, một TH

quen thuộc với người dân nơi này. Những tên gọi đó bước đầu phản ánh các mối quan

hệ phức tạp giữa nhận thức và thực tiễn về núi, phản ánh chiều hướng tri nhận đa dạng

trong sự phát triển cũng như nét tinh tế trong chiều sâu khác biệt các khái niệm về núi

của người dân nơi đây từ trong tâm thức.

Ý nghĩa - cđbđ tự nhiên thông thường của THTM núi được nêu trong từ điển như

sau: dạng địa hình lồi, sườn dốc, có độ cao lớn hơn đồi [163,1286 ]. Ngoài ra, núi còn

có những tên gọi đồng nghĩa là: sơn, non.Với các nét nghĩa: dạng địa hình lồi/ sườn

dốc/ có độ cao lớn hơn đồi chính là những cơ sở trọng yếu để thơ ca, nghệ thuật khai

triển các YNTM của TH núi.

b.Ý nghĩa thẩm mĩ hằng thể của tín hiệu núi

Nhìn bao quát, các lần xuất hiện của THTM núi đều biểu đạt YNBT chủ đạo phổ

quát là nhằm khắc họa những thuộc tính điển hình của địa hình Nam Trung Bộ “núi

trùng núi”,“một đèo, một đèo, lại một đèo”. Những câu ca dao có THTM núi, đều sử

dụng núi làm tiêu điểm cho không gian của vùng đất này. Núi luôn tham gia trong mọi

mặt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần con người nơi đây, tất cả là biểu trưng cho

vùng đất, con người Nam Trung Bộ. Mọi YNBT khái quát khác của núi có thể nói đều

được phái sinh từ cái “trục” ngữ nghĩa trung tâm hằng thể này: Bình Định có đá Vọng

Phu/ Có núi Thiết Đính có cầu Tân An/Trai anh hùng dạo hết giang san/ Kiếm người

thục nữ dịu dàng sánh đôi...

Để biểu trưng cho ý nghĩa trên, núi được miêu tả cụ thể trong những hình thức,

dạng thức quen thuộc, cố hữu thể hiện qua các BTTV, các BTKH chủ yếu mang nghĩa



101



biểu vật, tả thực: chân núi, sườn núi…;non xanh, núi cao….và núi xuất hiện nhiều

dưới dạng địa danh: Lạc loài trong núi Ô Sa/ Chim kêu vắng vẻ lao xao tâm tình;

Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về...Những tên núi

“chen” vào trong câu ca, đưa vào những âm thanh của đất, làm cho ta yêu đất hơn.

Núi cũng được đặt trong mối tương liên với tất cả các đối tượng vốn có quan hệ

mật thiết, gần gũi với nó:sớm mai, chiều chiều, tháng giêng...; đèo, biển, trăng, gió...;

chim, cá...; cành dâu, dừa, nhánh quế...Sự đồng hiện với Ts cao của rất nhiều TH

biểu đạt các đối tượng đi kèm núi chứng tỏ một sự thực: địa lý tự nhiên ở đây có cảnh

quan địa hình đa dạng như: núi, sông, đồng bằng và biển cả, cả những vùng trung

chuyển giữa đồng bằng và vùng duyên hải. Chính đặc điểm nổi trội này đã góp phần

hình thành cái bản sắc riêng, và dần dần đi vào tâm thức của cộng đồng. Có thể nói,

những nếp tư duy- bản sắc văn hóa dân tộc- hồn thiêng đất nước giống nòi đã để lại

những dấu ấn đậm trong cái bề sâu ngữ nghĩa của THTM núi nói riêng và THTM biển,

trời ...nói chung.

Trong ca dao, núi luôn luôn là biểu tượng cho vẻ đẹp quê hương, đất nước hiền

hòa tươi đẹp: Đại Ân ngôi của chúa Bà/Giang san non nước hiền hòa thêm xuân; Gặp

nhau chưa nói đã cười/ Kia là An Dũ thiệt nơi Lò Ghè/Non xanh nước biếc chỉn ghê/

Núi Hương,Ghềnh Trọc, dựa kề Lộ Giao…Trong quan niệm thẩm mĩ phương Đông,

người xưa thích sự kiên định, vững chãi của núi non hơn là sự thay đổi, động, trôi chảy

của sông nước. Chính vì vậy, tên núi xuất hiện trong ca dao Nam Trung Bộgắn liền với

sự kiên địnhvà dáng núi thể hiện khí phách con người: An Khê nổi tiếng Hòn Bình/

Ngày xưa Nguyễn Huệ ẩn binh chốn này.

Khi nhắc đến núi, thông qua các câu ca dao, chúng ta đều thấy được sự yêu quý,

nâng niu rất mực của người dân nơi đây, điều đó thể hiện một sự gắn bó hướng về

nguồn cội, về hồn thiêng đất nước trong tiềm thức sâu xa. Với tình quê say đắm, qua

núi, các câu ca dao đã ghi lại được bao hình ảnh về vùng đất duyên hải Nam Trung Bộ

xiết bao gần gũi, thương yêu.

Núi là hình ảnh biểu trưng cho cuộc đời của bao thế hệ con người của vùng đất

suốt đời cần cù, chịu thương, chịu khó, gắn bó vất vả bởi núi là biểu tượng của trở ngại,

khó khăn: Gánh nghèo mà đổ lên non/ Quay lưng đi xuống, nghèo còn đi sau; Sớm mai

lên núi đốt than/ Chiều về xuống biển đào hang bắt còng...Khi biểu đạt ý nghĩa này núi

“hội” với rất nhiều TH chỉ cuộc sống đặc trưng nơi đây như: nhóm chỉ động vật: cá,

chim quyên...; nhóm chỉ các hiện tượng tự nhiên: đèo, biển, sườn đồi… nhóm chỉ núi

gắn liền với địa danh Quảng Nam,Nha Trang... (mục 2.2.1.4, phần b); nhóm chỉ con



102



người và hoạt động của con người (mục 2.2.1.5, phần b) với ví dụ cụ thể như: Qua sông

vượt núi băng ngàn/ Cáng thương cũng giỏi, tải hàng cũng hăng; Sớm mai lên núi củi

tan/ Chiều về xuống núi một mang củi già...

Núicòn là hình ảnh biểu trưng cho một đất nước đã từng trải qua vô vàn gian

khổ, hi sinh bởi thiên tai, giặc ngoại xâm: Non xanh nước biếc chập chùng/ Biết bao liệt

nữ anh hùng em ơi;Non nước của ta, ta đòi lấy/ Ngàn thu sự nghiệp mới còn đây ...Núi

ở đây vì thế được dùng làm biểu trưng cho sức mạnh chở che vững chãi, to lớn và vĩ

đại, dù mưa nắng hay giông tố, bão lũ thì núi vẫn sừng sững giữa trời xanh.

Đặc biệt cặp THTM sóng đôi núi- sông, trong văn hóa người Việt chính là một

cặp âm dương biểu trưng cho cha mẹ. Trong tâm thức người Việt, cặp đôi này có chức

năng sản sinh, duy trì sự sống, nơi nào có cặp đôisông - núi nơi đó được xem là vùng

đất địa linh nhân kiệt, nơi sinh ra những bậc hiền tài, những anh hùng bất khuất, có sức

sống mãnh liệt:Năm dòng sông chảy/Sáu dãy non cao/Biển Đông sóng vỗ dạt dào/Tháp

kia làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh…Núicòn được biểu trưng cho công lao sinh

thành và nuôi dưỡng của cha mẹ, biểu trưng cho tình cảm của con cái với những bậc

sinh thànhvà cũng là lời khuyên răn con cái sống cho đúng đạo làm con: Trèo non mới

biết non cao/ Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy. Đó chính là triết lí, quan điểm sống

của người dân nơi đây.

Con người xưa đi vào vùng đất mới với non xa núi lạ, hoang vắng, chỉ có một

mình đối mặt với số phận của mình, vì rất bơ vơ nên tấm lòng chỉ muốn tìm về gốc cũ.

Cha mẹ trở thành chỗ nương tựa duy nhất: Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng/ Thương cha nhớ

mẹ quá chừng, bạn ơi! Hai câu thơ rất đơn giản, mà điển hình cho sự tương quan giữa

lòng người và cảnh vật. “Bạn ơi!”cách diễn đạt rất nôm na như một lời tâm sự thủ thỉ,

hiền lành, càng làm rõ cái tê tái, hiu quạnh.

Núitrong môtip núi- sông, núi- mây cùng với nghĩa chuyển, hay được dùng để

biểu trưng cho tình yêu trai gái. Một lần nữa sự kết hợp, tương tác, tương thông giữa

sông và núi, giữa mây và núi, giữa âm và dương mới có thể có tình, sinh ra tình được.

Nếu vì một lí do nào đó, chỉ có một trong hai vế của cặp “ hữu tình” này xuất hiện thì bị

coi là cô đơn, lẻ loi, thiệt thòi, thiếu sự hài hòa. Trước hết những người yêu nhau, xưa

nay hay lấy cặp sông- núi (nước - non) để thề bồi, nguyện ước: Ai làm cho em bén

duyên anh/Cho mây lấy núi, cho trăng thanh gió ngàn; Trăng kia khi khuyết khi tròn/

Lời thề biển cạn non mòn không quên...

Núi caobiểu trưng cho sự thử thách trong tình yêu:Thương ai phải nhớ lời

ai/Non cao san phẳng, sông dài lấp sông….THTMnúicòn biểu trưng cho tình yêu nhớ



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (230 trang)

×