Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.28 KB, 60 trang )
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
thích có điều kiện khi tác động vào các giác quan chúng sẽ tạo ra
trên vỏ não những đường liên hệ thần kinh tạm thời. Sau khi những
kích thích này được lặp đi lặp lại nhiều lần, đường liên hệ thần kinh
tạm thời này sẽ được khắc sâu hơn tạo thành những rãnh trên vỏ não
của trẻ.
Khả năng chú ý của trẻ mầm non chưa cao. Tư duy của trẻ mang
đậm tư duy trực quan hành động và trực quan hình ảnh, chưa hình
thành loại tư duy ngôn ngữ - lôgic. Do đó ngôn ngữ của trẻ còn hạn
chế so với các độ tuổi khác, vốn từ của trẻ cũng nghèo nàn.
Để có thể giao tiếp tốt, chúng ta không thể không kể đến bộ
máy phát âm. Cấu tạo của bộ máy phát âm gồm: dây thanh và các
hộp cộng hưởng phía trên thanh hầu.
Hai cơ mỏng nằm sóng nhau theo chiều dọc trong một hộp bằng
sụn, gọi là thanh hầu, nằm ở phía trên của khí quản. Thanh hầu
được cấu tạo bởi một sụn hình giáp vốn nhô ra trước cổ, nhất là ở
người gầy, mà người phương tây quen gọi là quả táo của Ađam và ta
gọi là hầu. Sụn này chỉ che được ở phía trước còn phía sau hở. Để
bù lại, phía dưới nó có một sụn hình nhẫn mà mặt nhẫn quay về phía
sau, khiến cho phía sau vừa đủ che kín, làm thành một cái
hộp.Trong hộp này có hai sụn hình chóp điều khiển sự hoạt động
của dây thanh.
Do dây thần kinh chỉ huy, hai mép của hai dây thanh khép lại
làm cho áp suất của không khí trong khí quản ở phía dưới tăng lên.
Sau một thời gian ngắn, thanh môn mở ra cho phép một luồng không
khí từ khí quản đi lên và thoát ra ngoài. Thanh môn tiếp tục đóng
lại, và lại mở ra, cứ như thế và người ta bảo dây thanh chấn động.
Nó làm cho luồng không khí từ phổi ra ngoài thành từng đợt cách
nhau đều đặn tạo nên sóng âm. Những âm được tạo ra như thế được
gọi là thanh, trái với những âm được tạo ra không phải do sự hoạt
động của dây thanh mà do cọ sát không khí vào thành bộ máy phát
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
8
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
âm khi thoát ra ngoài, hoặc do không khí phá vỡ sự cản trở trên lối
thoát tạo thành một tiếng nổ, được gọi là tiếng động.
Miệng và mũi được ngăn ra bởi vòm miệng mà phía trước gọi là
ngạc, phía sau là mạc hay khẩu mạc. Trong miệng, lưỡi khi nâng lên
lại tạo ra hai khoang: khoang miệng ở phía trước, khoang yết hầu ở
phía sau. Yết hầu có một lỗ nhỏ thông lên mũi và được đóng lại khi
cần thiết bởi lưỡi con. Đó là ngã tư, chỗ giao nhau giữa đường của
thức ăn từ miệng vào thực quản và đường của không khí từ phổi lên
mũi. Mỗi khi ăn uống, đường vào phổi phải được đóng lại bởi nắp
họng. Yết hầu, miệng và mũi là ba khoang trống đóng vai trò của
những hộp cộng hưởng. Riêng yết hầu và miệng do hoạt động của
lưỡi và môi mà có thể thay đổi thể tích, hình dáng và lối thoát của
không khí bất cứ lúc nào và vì thế hai khoang này có một vai trò hết
sức quan trọng trong việc thay đổi âm sắc của âm thanh vốn được
tạo ra do sự chấn động của dây thanh đi lên.
Mỗi lần dây thanh chấn động với tần số khác nhau, tạo nên âm
cơ bản khác nhau cho ta những thanh điệu khác nhau. Trái lại, dây
thanh chấn động trong mọi trường hợp như nhau thì ta chỉ có một
thanh điệu duy nhất nhưng khi đi qua yết hầu, miệng, mũi thì các
hoạ âm chịu ảnh hưởng của sự cộng hưởng, đã bị thay đổi đi, trong
mối tương quan với âm cơ bản và cho các nguyên âm khác nhau.
Mỗi lần môi, lưỡi, hàm ở một vị trí khác nhau là một lần hộp cộng
hưởng miệng và yết hầu thay đổi thể tích, hình dáng, lối thoát của
không khí, tức là những nhân tố quyết định khả năng cộng hưởng
của mình và làm biến đổi âm sắc của âm thanh đi qua chúng một
cách khác nhau. Chính vì thế hai khoang miệng và yết hầu là hai
hộp quan trọng nhất. Hộp cộng hưởng mũi tạo nên một âm sắc
riêng.
Âm sắc và tiếng nói do tính chất của hoà âm xác định và phụ
thuộc vào các khoang cộng hưởng của phần trên các bộ phận thanh
quản, họng, khoang miệng, mũi.
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
9
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Bộ máy phát âm của trẻ mầm non phát triển chưa đầy đủ các bộ
phận tạo thành tiếng nói chưa liên kết chặt chẽ nên trẻ thường phát
âm không chuẩn, không chính xác. Do đó, việc nghiên cứu bộ máy
phát âm để tìm hiểu ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ là hoàn toàn có
cơ sơ và mang tính khoa học.
1.2. Cơ sở tâm lí
Ngay từ giai đoạn hài nhi ở trẻ đã hình thành những tiền đề của
sự lĩnh hội ngôn ngữ. Nhu cầu giao tiếp với người lớn và sự định
hướng vào môi trường xung quanh ngày càng tăng đã làm nảy sinh
khả năng nói năng ở trẻ. Khi giao tiếp trẻ bắt trước những âm thanh
trong lời của những người xung quanh. Đứa trẻ thường thích thú,
chăm chú lắng nghe lời người lớn nói với mình.
Cuối tuổi hài nhi, mối liên hệ giữa đối tượng và bản thân đối
tượng trở nên rõ ràng và phong phú hơn. Đó là hình thức đầu tiên
của sự thông hiểu ngôn ngữ. Lúc này, trẻ có thể chỉ ra đúng đối
tượng mà người lớn hỏi. Như vậy, trong quá trình tiếp xúc trực tiếp
với người lớn, sự thông hiểu ngôn ngữ của trẻ dần dần mang tính
chất tích cực hơn trở thành một trong những phương tiện quan trọng
để mở rộng khả năng giao tiếp của trẻ với những người xung quanh.
Đến tuổi mẫu giáo, tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất cơ bản.
Đó là sự chuyển tư duy từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên
trong mà thực chất đó là sự chuyển những hành động định hướng
bên trong theo cơ chế nhập tâm. Quá trình tư duy của trẻ đã bắt đầu
dựa vào những hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã có trong đầu,
cũng có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực quan - hành động sang
kiểu tư duy trực quan hình tượng.Tuy nhiên, bước chuyển này mới
chỉ là một bước nhảy từ bờ bên này (là tư duy ở bình diện bên
ngoài, tư duy trực quan hành động) sang bờ bên kia (là tư duy ở
bình diện bên trong, tư duy trực quan hình tượng) nên nó mới là
điểm khởi đầu của loại tư duy mới.
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
10
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ trong quá trình vui chơi trẻ bộc lộ
toàn bộ tâm trí của mình, nhận thức, tình cảm, ý chí, nói năng đều
tỏ ra tích cực và chủ động. Trong khi vui chơi, trẻ mẫu giáo nhỡ thể
hiện tính tự lực, tự do rất rõ, ít lệ thuộc vào người lớn và hoàn toàn
tuỳ thuộc vào ý thích của mình. Mẫu giáo nhỡ là giai đoạn phát
triển mạnh mẽ nhất của tư duy trực quan hình tượng. Trẻ em có nhu
cầu khám phá các quan hệ phụ thuộc giữa các sự vật, hiện tượng để
giải bài toán nhận thức ngày càng đa dạng và phức tạp. Trẻ mẫu
giáo nhỡ đã có khả năng suy luận, mặc dù những kết luận của trẻ
vẫn còn ngây ngô, ngộ nghĩnh. Khả năng tư duy trừu tượng của trẻ
còn hạn chế, trẻ thường nhận thức dựa vào những biểu tượng đã có,
những kinh nghiệm đã trải qua để suy luận những vấn đề mới. Sự
nhận thức đó thường chỉ dừng lại ở các đặc điểm nổi bật bên ngoài
chứ chưa đi sâu vào bản chất bên trong, chưa thấy được mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng cũng như các đặc điểm của đối tượng.
Do đó nhiều khi trẻ giải thích các hiện tượng một cách ngộ nghĩnh.
Một cháu bé đi tắm biển, nếm thấy nước biển mặn liền hỏi: Ai cho
muối vào biển thế?. Một cháu bé bốn tuổi trông thấy một em bé
người Nga đang đi xe đạp ba bánh trên vỉa hè liền kêu lên: ơ kìa
một ông già bé!. Trẻ dễ lẫn lộn giữa thuộc tính bản chất và không
bản chất của sự vật hiện tượng. Vì vậy, cần thông qua hoạt động
khám phá môi trường xung quanh để cung cấp cho trẻ những biểu
tượng mới một cách phong phú, đa dạng, có hệ thống đi đôi với việc
củng cố các biểu tượng mới, mở rộng vốn hiểu biết, phát triển vốn
từ cho trẻ phong phú hơn, đa dạng hơn, hình thành hệ thống ngôn
ngữ ở trẻ một cách lành mạnh và trong sáng. Hình thành cho trẻ kĩ
năng hiểu và diễn đạt suy nghĩ tình cảm của mình về thế giới xung
quanh bằng ngôn ngữ một cách mạch lạc.
Trẻ mẫu giáo nhỡ đã biết so sánh các đặc điểm giống và khác
nhau của hai đối tượng. Trong giao tiếp trẻ có ý thức đối với hành
động và lời nói của mình. Trẻ biết thực hiện nghĩa vụ của bản thân
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
11
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
và tuân thủ những qui định về nề nếp trong vui chơi, học tập, lao
động và sinh hoạt ở gia đình cũng như ở trường mầm non.
ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ, đời sống tình cảm của trẻ có một bước
chuyển biến mạnh mẽ, vừa phong phú vừa sâu sắc hơn so với lứa
tuổi trước đó. Quan hệ giữa trẻ và những người xung quanh được mở
rộng ra một cách đáng kể, do đó tình cảm của trẻ cũng được phát
triển về nhiều phía đối với những người trong xã hội. Ví dụ: Cháu
Hồng Kí đã nói với cô hiệu trưởng khi nghe tin cô giáo lớp cháu bị
ngã xe đạp: Cháu sẽ tìm đánh người nào làm đổ xe đạp của cô
giáo. Cháu Kim Oanh đã ngồi trên giường bệnh của mẹ rất lâu,
mặc dù bên ngoài các bạn đang rủ đi chơi thỉnh thoảng cháu lại cúi
xuống nói vào tai mẹ: Mẹ mà khỏi con sẽ mua cho mẹ nhiều bắp
ngô to. Ta có thể thấy rằng đời sống tình cảm của trẻ ở độ tuổi
mẫu giáo nhỡ khá phong phú. Trẻ đã có thể thể hiện tình cảm của
mình không chỉ bằng hành động, cử chỉ mà trẻ đã biết thể hiện tình
cảm của mình bằng ngôn ngữ một cách rõ ràng, mạch lạc. Trẻ
thường bộc lộ tình cảm của mình với những người xung quanh trước
hết là bố, mẹ, anh, chị, cô giáo,Tình cảm của trẻ không chỉ bộc lộ
với người thân hoặc những nhân vật trong chuyện mà đối với động
vật, cỏ cây, hoa, lá, đồ vật, đồ chơi, các hiện tượng trong thiên
nhiên. Vì vậy cần thông qua các chủ đề trong môn học cho trẻ làm
quen với môi trường xung quanh để giúp trẻ có thêm vốn kinh
nghiệm, hiểu biết về thế giới xung quanh và diễn tả bằng ngôn ngữ
về vẻ đẹp của thiên nhiên.
Giai đoạn này, tư duy của trẻ đã phát triển hơn, trẻ đã có thể
hình dung ra những hình ảnh của thiên nhiên, của cuộc sống khi
nghe người khác nói. Đây chính là thời điểm thuận lợi cho việc giáo
dục ngôn ngữ cho đứa trẻ. Thông qua việc giáo dục ngôn ngữ ta có
thể cho trẻ thấy được cái đẹp, đồng thời giáo dục đạo đức và giúp
trẻ phát triển toàn diện.
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
12
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
ở trẻ mẫu giáo nhỡ,các động cơ đã xuất hiện như muốn tự
khẳng định mình, muốn được sống và làm việc giống như người lớn,
muốn nhận thức sự vật hiện tượng xung quanh, đều được phát
triển mạnh mẽ. Những động cơ này gắn liền với việc lĩnh hội có ý
thức những chuẩn mực về những qui tắc đạo đức hành vi trong xã
hội. Lúc đầu việc thực hiện những qui tắc hành vi xã hội chỉ là
phương tiện để trẻ duy trì mối quan hệ qua lại giữa mình với những
người xung quanh. Sau rồi được tán thưởng, khen ngợi mà đứa trẻ
vui vẻ thực hiện những hành vi đó như là một sự bắt buộc của chính
mình. Chẳng hạn như câu hỏi: Tại sao không được đánh bạn?.
Nếu như ở trẻ mẫu giáo bé trả lời: Không được đánh nhau, đánh
nhau sẽ bị phạt thì trẻ mẫu giáo nhỡ lại trả lời: Không được
đánh nhau với bạn vì cô giáo đã dặn là phải yêu thương bạn bè
hay khi hỏi các cháu đang làm trực nhật là tại sao chúng làm việc
đó thì trẻ trả lời: Cháu cần phải giúp bác cấp dưỡng kẻo một
mình bác ấy vất vả hoặc Ai nhanh hơn? Tổ nào làm tốt
hơn?, đối với trẻ mẫu giáo nhỡ có một sức động viên khiến cho
trẻ thực hiện công việc tốt hơn bình thường. Vì vậy, trong giai đoạn
này ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng giúp trẻ điều chỉnh
động cơ hành vi đúng đắn với chuẩn mực đạo đức. Cần thông qua
ngôn ngữ giúp trẻ điều chỉnh những hành vi phù hợp với xã hội. ở
giai đoạn này, những cấu tạo tâm lí đặc trưng của con người vẫn
tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Với sự giáo dục của người lớn, những
chức năng tâm lí đó sẽ được hoàn thiện về mọi phương diện của
hoạt động tâm lí để hoàn thành việc xây dựng những cơ sở ban đầu
về nhân cách của con người.
Một trong những thành tựu lớn lao nhất của giáo dục mầm non
là làm cho trẻ sử dụng một cách thành thạo tiêng mẹ đẻ trong đời
sống hàng ngày. Tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh
hội nền văn hoá dân tộc, để giao lưu với những người xung quanh,
để tư duy, để tiếp thu khoa học, để bồi bổ tâm hồn, Lứa tuổi mẫu
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
13
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
giáo là thời kỳ bộc lộ tính nhạy cảm cao nhất đối với các hiện tựợng
ngôn ngữ, điều đó khiến cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tốc
độ rất nhanh. Đứng trước một nền văn hóa đồ sộ của dân tộc và
nhân loại mà nó có nhiệm vụ phải lĩnh hội những kinh nghiệm của
ông cha để lại, đồng thời có sứ mạng xây dựng nền văn hoá đó trong
tương lai. Cho nên việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi mầm
non là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Đến độ tuổi mẫu giáo nhỡ khi tư duy của trẻ đã phát triển đến
mức độ cần thiết cần tổ chức các hoạt động nhằm giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ. Điều quan trọng là cần xây dựng cho trẻ có vốn từ phong
phú đa dạng. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp kiến thức, mở rộng
hiểu biết, vốn từ phong phú để giúp trẻ làm giàu vốn từ, tích cực
hoá vốn từ, được thường xuyên sử dụng vốn từ của mình. Do vậy,
cần tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội để tích luỹ vốn từ, thể hiện sự
hiểu biết bằng lời, trong quá trình diễn đạt trẻ có thái độ tự tin
mạnh dạn; Trẻ biết nhận xét, biết tỏ thái độ với ý kiến của bạn đưa
ra và biết tôn trọng người khác khi trình bày. Việc này cần chú
trọng trong hoạt động cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh
giúp trẻ có hiểu biết hơn về thế giới xung quanh trẻ
1.3. Cơ sở ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao
tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng
đồng người. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư
duy, truyền đạt truyền thống văn hóa - lịch sử từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp của con người. Ngay cả những bộ lạc hậu nhất mà người ta mới
phát hiện ra cũng dùng ngôn ngữ để nói chuyện với nhau. Ngoài
ngôn ngữ, con người còn có những phương tiện giao tiếp khác như
cử chỉ, các loại dấu hiệu, kí hiệu khác nhau (kí hiệu toán học, tín
hiệu đèn giao thông, những kết hợp âm thanh của âm nhạc, những
kết hợp màu sắc của hội hoạ, cử chỉ điệu bộ của chân tay,) nhưng
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
14
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người. So
với ngôn ngữ thành tiếng, ngôn ngữ cử chỉ thật nghèo nàn và hạn
chế. Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau trong quá
trình sinh hoạt và lao động mà người ta có thể diễn đạt và làm cho
người khác hiểu được tư tưởng tình cảm trạng thái và nguyện vọng
của mình. Có hiểu biết lẫn nhau, con người mới có thể đồng tâm
hiệp lực chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã hội làm cho xã hội
ngày càng tiến lên.
Cách mạng khoa học kĩ thuật và công cuộc cải cách giáo dục ở
nước ta hiện nay đòi hỏi phải giải quyết những nhiệm vụ giao tiếp
và nâng cao chất lượng của hoạt động giao tiếp về mặt nội dung và
hình thức. Có như vậy, chúng ta mới đưa được những kiến thức khoa
học đang tăng lên không ngừng vào các lĩnh vực của đời sống.
Ngôn ngữ là phương tiện truyền đạt kinh nghiệm lịch sử xã hội
loài người, là phương tiện phát triển xã hội loài người. Thế hệ đi
sau kế thừa những kinh nghiệm của thế hệ đi trước. Vì vậy, trẻ em
phải được lĩnh hội những kinh nghiệm của lịch sử xã hội loài người
để xã hội hoá bản thân. Sự lĩnh hội ấy thông qua ngôn ngữ nhờ có
ngôn ngữ trẻ em ngày càng phát triển và sự phát triển của ngôn ngữ
tác động đến sự phát triển của tư duy. Trẻ mẫu giáo có nhu cầu rất
lớn về mặt nhận thức. Trẻ khát khao được tìm hiểu khám phá thế
giới xung quanh mình trong đó ngôn ngữ là công cụ của tư duy. Các
nhà nghiên cứu giáo dục đều khẳng định phát triển vốn từ là nền
tảng quan trọng để phát triển ngôn ngữ, có ý nghĩa quan trọng quyết
định đến mọi mặt sau này của trẻ. Bởi ngôn ngữ nói không chỉ có
thông tin mà còn có cả ý nghĩa tình cảm. Ngôn ngữ có thể tạo nên
hiện thực tâm lí có sức mạnh đặc biệt.
Sống trong xã hội con người luôn phải giao tiếp, mà khi giao
tiếp con người phải sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt với những người
xung quanh. Trẻ em giao tiếp với những người xung quanh học các
từ của bạn bè, cha mẹ, người thân thì ngôn ngữ của trẻ phát triển và
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
15
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
chịu ảnh hưởng không nhỏ. Cần làm giàu vốn từ bằng những từ mới,
những từ khó đối với sự tự tìm hiểu của trẻ về những lĩnh vực gần
gũi xung quanh trẻ, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Đào
sâu cung cấp chính xác hoá vốn từ cho trẻ hiểu chính xác nghĩa của
từ, dạy trẻ những từ đồng nghĩa trái nghĩa. Tích cực hoá vốn từ cho
trẻ trang bị cho trẻ vốn từ thực sự sống động.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ trong hoạt động
chung làm quen với môi trường xung quanh là hết sức thuận lợi.
Bằng vốn ngôn ngữ của mình trẻ có thể biểu đạt sự hiểu biết của
mình cho người lớn hiểu và hiểu được ý nghĩa của người lớn muốn
nói gì, từ đó giúp trẻ tích cực giao tiếp với mọi người. Qua hoạt
động chung làm quen với môi trường xung quanh trẻ học được các
tên gọi chỉ đồ vật, sự vật, hành động, hiện tượng, các từ chỉ đặc
điểm, tính chất, công dụng và các từ biểu cảm. Nghe và hiểu nội
dung các câu đơn, câu mở rộng. Trẻ biết dùng từ để biểu lộ tình
cảm, nhu cầu và kinh nghiệm bản thân bằng các câu đơn, câu mở
rộng. Trẻ biết sử dụng các từ biểu thị sự lễ phép và thể hiện cử chỉ
điệu bộ, nét mặt phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp, kể lại sự
việc theo trình tự thời gian. Biết mô tả đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh,
mô tả sự vật hiện tượng theo kinh nghiệm. Bước đầu hình thành cho
trẻ những năng lực ngôn ngữ như nghe lời nói và phát âm, khả năng
sử dụng từ ngữ, các kiểu câu tiếng việt và đặc biệt là nói năng mạch
lạc trong giao tiếp và học tập. Ngoài ra trẻ cũng được chuẩn bị một
số kĩ năng tiền đọc, viết cần thiết để học tiếng việt ở lớp một.
Việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ giúp trẻ
tích luỹ thêm vốn từ, tích cực hoá vốn từ, mở rộng hiểu biết về thế
giới xung quanh, làm cho ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú. ở
giai đoạn này, trong những điều kiện thuận lợi, trẻ đã nắm được một
hệ thống ngữ âm, ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ và trên cơ sở này cần
phát triển nhanh chóng vốn từ cho trẻ. Bây giờ, lời nói của trẻ đã
thực hiện chức năng giao tiếp và chức năng nhận thức (thông qua
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
16
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
việc nắm được các từ ngữ mới, các hình thức ngữ pháp mới, trẻ mở
rộng hiểu biết của mình về thế giới xung quanh về các đối tượng
của hiện thực và mối quan hệ giữa chúng) chức năng điều chỉnh
hành vi mà hình thức cao của nó là sử dụng lời nói bên trong để kế
hoạch hóa hành vi của bản thân mình. Chính vì vậy, việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo nhỡ thông qua hoạt động cho trẻ làm
quen với môi trường xung quanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1.4. Một số vấn đề liên quan đến hoạt động làm quen với môi
trường xung quanh
1.4.1. Quan niệm về hoạt động cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh
Cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh chính là việc giáo
viên tạo ra các điều kiện, cơ hội và tổ chức các hoạt động để cho trẻ
tích cực tìm tòi, phát hiện những điều thú vị về các sự vật, hiện
tượng xung quanh trẻ. Thực chất đó là việc giáo viện tạo môi
trường, tạo ra các tình huống và tổ chức các hoạt động cho trẻ tiếp
xúc, trải nghiệm với các sự vật hiện tượng của môi trường xung
quanh, thông qua đó trẻ hiểu biết về đặc điểm, thuộc tính của sự
vật, hiện tượng, các mối quan hệ qua lại, sự thay đổi và phát triển
của chúng. Điều quan trọng hơn cả là thông qua các hoạt động
khám phá này trẻ học được các kĩ năng quan sát, so sánh phân loại,
đo lường, phán đoán giải quyết vấn đề, chuyển tải ý kiến của mình
và đưa ra kết luận.
1.4.2. ý nghĩa của việc cho trẻ làm quen với môi trường xung
quanh
Làm quen với môi trường xung quanh chính là khám phá khoa
học giúp trẻ phát triển toàn diện về các mặt trí tuệ, đạo đức, thẩm
mĩ, thể lực và lao động.
a. Đối với sự phát triển trí tuệ
Khám phá khoa học về môi trường xung quanh là hoạt động
thực sự hấp dẫn làm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của trẻ, mở cho trẻ
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
17
KHOA GDTH
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nội 2
cánh cửa vào thế giới rộng lớn hơn. Trong các hoạt động khám phá
khoa học, trẻ được tích cực sử dụng các giác quan (thị giác, thính
giác, khứu giác, vị giác). Chính vì vậy, các cơ quan cảm giác của
trẻ phát triển và khả năng cảm nhận của trẻ cũng nhanh nhạy và
chính xác hơn. Mặc dù ở độ tuổi này, trẻ chưa cần phải đưa ra
những giải thích chính xác về mặt khoa học, song các cách lí giải
hợp lí sẽ giúp tư duy của trẻ linh hoạt, mềm dẻo hơn.
Vốn từ vựng của trẻ sẽ phát triển khi được hỗ trợ bởi sự tích luỹ
kinh nghiệm và bởi các hoạt động quan sát và thực tiễn. Ngôn ngữ
nghe hiểu được phát triển khi trẻ lắng nghe giáo viên đọc, kể về các
khám phá khoa học, tham gia các cuộc thảo luận, nghe, xem những
cuốn truyện, những cuộc đối thoại với người lớn và bạn bè. Việc
bộc lộ ý kiến, quan điểm của bản thân trong các hoạt động khám
phá khoa học và nói lên những kết quả thu được sẽ phát triển ở trẻ
ngôn ngữ biểu đạt và sự tự tin, cởi mở trong giao tiếp với những
người xung quanh.
Thông qua những hoạt động khám phá, trẻ thu được kinh
nghiệm thực tiễn, những kiến thức đơn giản về đặc điểm tính chất,
các mối quan hệ, sự phát triển của các sự vật hiện tượng trong thiên
nhiên và xã hội. Trẻ có khả năng diễn đạt những điều đó bằng ngôn
ngữ nói.
b. Đối với sự phát triển tình cảm, đạo đức thẩm mĩ, thể lực và
lao động
Việc khám phá môi trường xung quanh khơi gợi ở trẻ tình cảm
nhân ái, biết giúp đỡ, bảo vệ những đối tượng yếu ớt. Khám phá
thiên nhiên và xã hội giúp trẻ có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên cởi
mở, có lòng nhân ái, tình yêu đối với người thân và bạn bè.
Môi trường xung quanh đặc biệt là thiên nhiên còn là phương
tiện quan trọng để giáo dục thẩm mĩ. Thông qua việc khám phá môi
trường xung quanh trẻ phát hiện thấy sự cân đối, hài hoà, cảm nhận
được màu sắc, hình dạng, mùi vị, âm thanh,của cỏ cây, hoa, lá,
Nguyễn Thị Hoa K33 GDMN
18
KHOA GDTH