Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.03 KB, 20 trang )
1.2. Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện.
Vụ điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam
được Bộ Thương mại Hoa Kỳ ( DOC ) khởi xướng tháng 1/2004. Việc điều tra được tiến hành
đối với ba doanh nghiệp bị đơn có lượng xuất khẩu lớn nhất (bao gồm Minh Phú, Minh Hải và
Camimex- gọi là bị đơn bắt buộc). Đến tháng 2 năm 2005, DOC chính thức áp thuế chống bán
phá giá với các thuế suất thông qua phương pháp tính biên độ phá giá Zeroing của Hoa Kỳ :
- Từ 4.3% đến 5,24% đối với từng bị đơn bắt buộc
- Từ 4,57% ( mức bình quân gia quyền của thuế suất áp dụng cho 3 bị đơn bắt buộc) đối
với các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra.
- Mức thuế suất toàn quốc (……) cho tất cả các doanh nghiệp còn lại.
Theo luật pháp Hoa Kỳ, cứ sau 1 năm kể từ khi áp thuế, DOC sẽ tiến hành rà soát hành
chính (POR) các mức thuế mà cơ quan này áp dụng. Tính đến tháng 2/2010, cơ quan này đã rà
soát hành chính 3 lần đối với các doanh nghiệp Việt Nam và cả 3 lần doanh nghiệp Việt Nam
đều bị áp những mức thuế bất lợi cụ thể:
-
-
Lần rà soát thứ 2- POR2, 30 doanh nghiệp Việt Nam đăng ký tham gia rà soát. DOC chọn
2 doanh nghiệp là Minh Phú và Camimex là bị đơn bắt buộc do có lượng xuất khẩu lớn
nhất. Hai doanh nghiệp này đạt mức thuế suất không đáng kể (0-0.01%). 28 doanh nghiệp
còn lại bị áp dụng mức thuế là 4.57% và mức thuế được áp dụng cho tất cả các doanh
nghiệp không tham gia rà soát ( mức thuế toàn quốc) là 25.76%.
Lần ra soát thứ 3- POR3, có 28 doanh nghiệp đăng ký rà soát, DOC lựa chọn 3 doanh
nghiệp làm bị đơn là ( Minh Phú, Camimex và Phương Nam). Ba doanh nghiệp này lần
lượt được áp thuế là 0.43%; 0.08%; 0.21%. Mức thuế cho 25 doanh nghiệp còn lại là
4.57% và mức thuế toàn quốc là 25.76%.
Page 8
Trước nguy cơ DOC tiếp tục sử dụng phương pháp này gây kết quả bất lợi trong những
lần rà soát lại mức thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam, Hiệp hội
Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) đã đề xuất kiện Hoa Kỳ ra WTO lên Chính phủ và được Chính phủ chấp nhận để bắt
đầu vụ kiện.
2. Tóm tắt vụ kiện
Ngày 01/02/2010, phía Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn đối với chính phủ Hoa Kỳ liên
quan đến các biên pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với sản phẩm tôm nước ấm đông
lạnh của Việt Nam.
Các bên liên quan
Văn bản pháp
lý liên quan
Nguyên
đơn
Hiệp
định
ADA: các điều
2.1, 2.4, 2.4.2,
6.10,
6.10.2,
9.3, 9.4, 11.1,
11.3, 17.6(i).
Bị đơn
•
Việt
Nam
Hoa Kỳ
Khung thời gian
Việt Nam gửi yêu cầu
01/02/2010
tham vấn
Thành lập Ban hội
18/05/2010
thẩm
Ban hành Báo cáo của
11/07/2011
Ban hội thẩm
Ban hành Báo cáo của
11/07/2011
Hiệp
định Cơ quan Phúc thẩm
GATT 1994:
điều VI:2
02/11/2011
Thông qua
Sản phẩm và biện pháp gây tranh cãi.
- Hành động gây tranh cãi: Những quyết định chống bán phá giá trong đợt rà soát hành
chính thứ 2 và thứ 3 đối với nhập khẩu từ Việt Nam tiếp tục được USDOC sử dụng trong
những hành động chống bán phá giá tiếp theo
- Sản phẩm: Tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam.
•
Các hiệp định, nghị định liên quan đến vụ tranh chấp.
- Hiệp định Chống bán Phá giá của WTO ( ADA)
- Hiệp định GATT 1994.
- Nghị định Thư về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp trong WTO (Ngày 20 tháng 11 năm
1996)
Page 9
CHƯƠNG III.PHÂN TÍCH NỘI DUNG VỤ TRANH
CHẤPDS404-WTO GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM
1. Yêu cầu xem xét và khuyến nghị của các bên
- Việt Nam đề nghị Ban Hội thẩm xem xét các vấn đề:
(a) Việc sử dụng phương pháp zeroing để xác định biên độ phá giá đối với các bị đơn
bắt buộc trong rà soát POR2 và POR3 và việc tiếp tục sử dụng phương pháp này trong các rà
soát tiếp theo của DOC là không phù hợp với Điều 9.3, 2.1, 2.4.2, và 2.4 Hiệp định CBPG và
Điều VI:2 GATT 1994;
(b) DOC sử dụng phương pháp zeroing là vi phạm Điều 9.3 Hiệp định CBPG và Điều
VI:2 GATT 1994;
(c) Lấy biên độ phá giá được xác định theo phương pháp zeroing làm mức thuế suất áp
dụng cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn trong hai rà soát POR2 và POR3 là
không tuân thủ Điều 9.3, 2.1, 2.4.2, và 2.4 Hiệp định CBPG;
(d) Áp dụng mức thuế suất chung cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn mà
không căn cứ vào kết quả điều tra các bị đơn bắt buộc và áp dụng mức thuế bất lợi cho các bị
đơn không được lựa chọn trong rà soát POR2 và POR3 là không phù hợp với Điều 9.4, 17.6(i)
và 2.4 Hiệp định CBPG;
(e) Áp dụng mức thuế suất toàn quốc sau rà soát POR2 và POR3 trên cơ sở tính toán từ
những thông tin sẵn có bất lợi và việc tiếp tục áp dụng mức thuế này trong các rà soát tiếp theo
là vi phạm Điều 6.8, 9.4, 17.6(i) và Phụ lục II của Hiệp định CBPG;
(f) Quyết định của DOC trong rà soát POR2 và POR3 nhằm hạn chế số lượng bị đơn
bắt buộc, do đó không đảm bảo nghĩa vụ thực thi đầy đủ theo Hiệp định CBPG, cụ thể là các
điều khoản 6.10, 6.10.2, 9.3, 11.1 và 11.3.
- Hoa Kỳ đề nghị Ban Hội thẩm chấp nhận yêu cầu phán quyết sơ bộ mà Hoa Kỳ đã đề
đạt với Ban Hội thẩm từ trước đó, và bác bỏ khiếu nại của Việt Nam rằng Hoa Kỳ đã vi các
phạm hiệp định trên.
2. Vấn đề 1: Khiếu nại của phía Mỹ liên quan đến các nội dung thuộc điều khoản
tham chiếu của Ban hội thẩm
Nhìn chung, Việt Nam yêu cầu Ban Hội thẩm xem xét các vấn đề liên quan đến 4 vấn
đề: Quyết định của DOC trong lần rà soát thứ hai, Quyết định của DOC trong lần rà soát thứ
ba, “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” và phương pháp tính biên độ bán phá
giá “quy về 0”.
Page 10
Mỹ yêu cầu Ban Hội thẩm đưa ra phán quyết sơ bộ đối với kết luận của
Phòng Thương mại Mỹ trong lần điều tra đầu tiên và lần rà soát hành chính thứ nhất.
Lập luận của Mỹ: Mỹ cho rằng quyết định cuối cùng của Mỹ trong lần điều tra và rà
soát hành chính lần thứ nhất không nằm trong điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm, bởi
vào thời điểm diễn ra 2 sự kiện trên, Việt Nam vẫn chưa gia nhập WTO, và do đó chưa thể áp
dụng Hiệp định Chống bán phá giá vào trường hợp này. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn lập luận rằng,
lần điều tra thứ nhất cũng không nằm trong nội dung yêu cầu tham vấn của Việt Nam và vì
vậy cũng không nằm trong nội dung tham vấn của Ban Hội thẩm.
Lập luận của Việt Nam: Việt Nam không đưa ra ý kiến đối với yêu cầu này của phía
Hoa Kỳ.
Kết luận của Ban Hội thẩm: Vì phía Việt Nam cho thấy nước này không coi kết luận
của Phòng Thương mại Mỹ trong lần điều tra đầu tiên và lần rà soát hành chính thứ nhất là vấn
đề cần được tham vấn, cho nên Ban Hội thẩm không cần thiết phải xử lý yêu cầu này của phía
Mỹ.
Mỹ yêu cầu Ban Hội thẩm đưa ra phán quyết sơ bộ liên quan đến “việc
tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” (continued use of challenged practices)
Lập luận của VN: yêu cầu tham vấn từ phía Việt Nam cho rằng phía Mỹ đã và đang
tiến hành các hoạt động nằm trong diện bị phản đối (phương pháp tính biên độ “quy về 0”,
thuế suất toàn quốc và giới hạn số lượng bị đơn rà soát đơn lẻ). Những hành động này không
chỉ đã diễn ra, mà vẫn đang diễn ra và sẽ diễn ra trong tương lai, và vì vậy hàm chứa các tác
động sau này. Phía Việt Nam cho rằng Việt Nam đã định nghĩa rõ vấn đề “việc tiếp tục sử
dụng các biện pháp bị khiếu kiện” trong yêu cầu tham vấn. Điều mà Việt Nam muốn Ban Hội
thẩm thẩm định ở đây là bản chất liên tục và đang tiếp diễn của các hoạt động của Phòng
Thương mại Mỹ.
Lập luận của Mỹ: Phía Mỹ lập luận rằng, vấn đề “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp
bị khiếu kiện” mà phía Việt Nam đưa ra là không thể được chấp nhận vì vi phạm tính rõ ràng
của vấn đề được đưa ra, được ghi nhận trong điều 6.2 của Nghị định thư về Giải quyết tranh
chấp trong WTO. Điều 6.2 quy định “...[x]ác định rõ các biện pháp cụ thể đang được bàn cãi
và cung cấp tóm tắt ngắn gọn về cơ sở pháp lý của đơn kiện đủ để trình bày các vấn đề một
cách rõ ràng.” Bên cạnh đó, Mỹ cũng lập luận rằng, Việt Nam không thể hiện rõ nội dung này
là “các biện pháp đang gây tranh cãi” trong yêu cầu tham chiếu.
Kết luận của ban hội thẩm: Ban Hội thẩm cho rằng Việt Nam chưa định nghĩa rõ ràng
khái niệm “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” như là một vấn đề đang gây
tranh cãi. Trong yêu cầu tham vấn của Việt Nam không hàm chứa từ ngữ cho thấy Việt Nam
cho rằng các hoạt động tương lai của DOC có là vấn đề đang gây tranh cãi hay không, mà chỉ
có các biện pháp đã tồn tại và đang diễn ra tính từ ngày ghi trên yêu cầu tham vấn. Vì vậy Ban
Hội thẩm kết luận rằng “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” không nằm trong
Điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm. Như vậy, các biện pháp hiện đang gây tranh cãi là
Quyết định của DOC trong lần rà soát hành chính và điều tra lần thứ 2 và 3 và phương pháp
tính biên độ phá giá “quy về 0” của Mỹ.
Page 11