1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

CHƯƠNG III.PHÂN TÍCH NỘI DUNG VỤ TRANH CHẤPDS404-WTO GIỮA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.03 KB, 20 trang )


Mỹ yêu cầu Ban Hội thẩm đưa ra phán quyết sơ bộ đối với kết luận của

Phòng Thương mại Mỹ trong lần điều tra đầu tiên và lần rà soát hành chính thứ nhất.

Lập luận của Mỹ: Mỹ cho rằng quyết định cuối cùng của Mỹ trong lần điều tra và rà

soát hành chính lần thứ nhất không nằm trong điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm, bởi

vào thời điểm diễn ra 2 sự kiện trên, Việt Nam vẫn chưa gia nhập WTO, và do đó chưa thể áp

dụng Hiệp định Chống bán phá giá vào trường hợp này. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn lập luận rằng,

lần điều tra thứ nhất cũng không nằm trong nội dung yêu cầu tham vấn của Việt Nam và vì

vậy cũng không nằm trong nội dung tham vấn của Ban Hội thẩm.

Lập luận của Việt Nam: Việt Nam không đưa ra ý kiến đối với yêu cầu này của phía

Hoa Kỳ.

Kết luận của Ban Hội thẩm: Vì phía Việt Nam cho thấy nước này không coi kết luận

của Phòng Thương mại Mỹ trong lần điều tra đầu tiên và lần rà soát hành chính thứ nhất là vấn

đề cần được tham vấn, cho nên Ban Hội thẩm không cần thiết phải xử lý yêu cầu này của phía

Mỹ.

Mỹ yêu cầu Ban Hội thẩm đưa ra phán quyết sơ bộ liên quan đến “việc

tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” (continued use of challenged practices)

Lập luận của VN: yêu cầu tham vấn từ phía Việt Nam cho rằng phía Mỹ đã và đang

tiến hành các hoạt động nằm trong diện bị phản đối (phương pháp tính biên độ “quy về 0”,

thuế suất toàn quốc và giới hạn số lượng bị đơn rà soát đơn lẻ). Những hành động này không

chỉ đã diễn ra, mà vẫn đang diễn ra và sẽ diễn ra trong tương lai, và vì vậy hàm chứa các tác

động sau này. Phía Việt Nam cho rằng Việt Nam đã định nghĩa rõ vấn đề “việc tiếp tục sử

dụng các biện pháp bị khiếu kiện” trong yêu cầu tham vấn. Điều mà Việt Nam muốn Ban Hội

thẩm thẩm định ở đây là bản chất liên tục và đang tiếp diễn của các hoạt động của Phòng

Thương mại Mỹ.

Lập luận của Mỹ: Phía Mỹ lập luận rằng, vấn đề “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp

bị khiếu kiện” mà phía Việt Nam đưa ra là không thể được chấp nhận vì vi phạm tính rõ ràng

của vấn đề được đưa ra, được ghi nhận trong điều 6.2 của Nghị định thư về Giải quyết tranh

chấp trong WTO. Điều 6.2 quy định “...[x]ác định rõ các biện pháp cụ thể đang được bàn cãi

và cung cấp tóm tắt ngắn gọn về cơ sở pháp lý của đơn kiện đủ để trình bày các vấn đề một

cách rõ ràng.” Bên cạnh đó, Mỹ cũng lập luận rằng, Việt Nam không thể hiện rõ nội dung này

là “các biện pháp đang gây tranh cãi” trong yêu cầu tham chiếu.

Kết luận của ban hội thẩm: Ban Hội thẩm cho rằng Việt Nam chưa định nghĩa rõ ràng

khái niệm “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” như là một vấn đề đang gây

tranh cãi. Trong yêu cầu tham vấn của Việt Nam không hàm chứa từ ngữ cho thấy Việt Nam

cho rằng các hoạt động tương lai của DOC có là vấn đề đang gây tranh cãi hay không, mà chỉ

có các biện pháp đã tồn tại và đang diễn ra tính từ ngày ghi trên yêu cầu tham vấn. Vì vậy Ban

Hội thẩm kết luận rằng “việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” không nằm trong

Điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm. Như vậy, các biện pháp hiện đang gây tranh cãi là

Quyết định của DOC trong lần rà soát hành chính và điều tra lần thứ 2 và 3 và phương pháp

tính biên độ phá giá “quy về 0” của Mỹ.

Page 11



3. Vấn đề 2: Khiếu nại của việt nam liên quan đến phương pháp quy về 0 của mỹ

4. Vấn đề 3: Khiếu nại của việt nam liên quan đến việc mỹ giới hạn số lượng bị

đơn được chọn để tiến hành điều tra

Luận điểm của VN: Việt Nam cho rằng việc USDOC quyết định giới hạn số lượng các

bị đơn thuộc diện kiểm tra là trái với các điều 6.10, 6.10.2, 9.3, 11.1, và 11.3 của ADA. Câu

đầu tiên của Điều 6.10 quy định rằng “[c]ác cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định một biên độ

phá giá cho mỗi nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất được biết đến là người cung cấp sản phẩm

đang bị điều tra.”, nhưng việc Mỹ giới hạn số lượng các bị đơn thuộc diện kiểm tra đã không

thực hiện đúng theo điều này. Hơn nữa, điều này cũng làm cho các điều khoản 9.3, 11.1 và

11.3, vốn dựa trên sự tồn tại của biên độ bán phá giá riêng lẻ, trở nên vô nghĩa.

Cụ thể là, điều 9.3 quy định “[Mức] thuế chống bán phá giá không được phép vượt quá

biên độ bán phá giá...”, vì vậy việc Mỹ không kiểm tra đầy đủ các doanh nghiệp đơn lẻ mà áp

thuế là trái với điều khoản này. Hơn nữa, hành vi này của Mỹ còn khiến cho các DN không

được kiểm tra không thể thực thi nghĩa vụ phù hợp với điều 11.1 “[T]huế chống phá giá chỉ áp

dụng trong khoảng thời gian và mức độ cần thiết để chống lại các trường hợp bán phá giá gây

thiệt hại trong nước.” và 11.3 “[Các] cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét lại yêu cầu tiếp tục

duy trì thuế chống phá giá trong trường hợp các cơ quan thấy cần thiết hoặc trên cơ sở đề nghị

của các bên có liên quan đã cung cấp các thông tin tích cực đủ để đề nghị xem xét lại”, vì vậy

các doanh nghiệp không được kiểm tra sẽ không thể chứng minh được việc họ đã dừng hành

động phá giá hay chưa.

Luận điểm của Mỹ: Mỹ lập luận rằng, điều 6.10 ADA cho phép cơ quan điều tra được

giới hạn số lượng bị đơn khi hội đủ một số điều kiện, cụ thể là số lượng DN vượt qua mức mà

khiến cho việc xác định biên độ phá giá cho mỗi doanh nghiệp “không thể thực hiện được”.

Mỹ cũng lưu ý rằng, Việt Nam đã cáo buộc Mỹ vi phạm điều 6.10 mà không xét đến việc liệu

Mỹ có làm trái với việc lựa chọn số lượng bị đơn lớn nhất một cách hợp lý hay không và Mỹ

có thể làm như vậy hay không. Vì vậy mà cáo buộc của Việt Nam về việc Mỹ vi phạm điều

6.10 là không có cơ sở.

Đối với điều 9.3, Mỹ lập luận rằng trong trường hợp này không nhất thiết phải có mối

liên hệ giữa thuế chống bán phá giá áp dụng cho các bị đơn không được chọn với biên độ phá

giá, vì những bị đơn này không được Mỹ xác định biên độ phá giá.

Đối với điều 11.1 Mỹ cho rằng điều này không có liên quan gì đến trường hợp tranh

chấp, bởi điều này quy định nghĩa vụ chung đối với việc chống bán phá giá mà không xét đến

mức thuế cụ thể áp dụng cho những doanh nghiệp đơn lẻ. Đối với điều 11.3, Mỹ lập luận rằng

rà soát cuối kỳ không nằm trong phạm vi tham vấn của Ban Hội thẩm, vậy nên cáo buộc của

Việt Nam là không hợp lệ.

Kết luận của Ban Hội thẩm:

Về cơ bản, Ban Hội thẩm đồng ý với lập luận của phía Mỹ. Bởi vì cáo buộc của Việt

Nam không đề cập đến liệu việc điều tra tất cả các doanh nghiệp có thực hiện được hay không

Page 12



và số lượng doanh nghiệp nên được chọn là bao nhiêu, nên Ban Hội thẩm cho rằng hành động

giới hạn số lượng doanh nghiệp bị kiểm tra là phù hợp với điều khoản 6.10. Hay nói cách

khác, lập luận của Việt Nam không đánh trúng vào vấn đề.

Đối với các khiếu nại liên quan đến các điều khoản 9.3, 11.1 và 11.3, các khiếu nại này

dựa trên giả định rằng việc tiến hành kiểm tra và xác định biên độ phá giá riêng rẽ cho mỗi bị

đơn cần phải được thực hiện (thể hiện ở câu đầu tiên của điều 6.10), tuy nhiên câu thứ 2 của

điều 6.10 lại mở ra một trường hợp mà ở đó giả định trên của Việt Nam có thể không được

thực hiện. Vì vậy lập luận trong cáo buộc liên quan đến các điều khoản 9.3, 11.1 và 11.3 của

Việt Nam không được chấp nhận.

Kết luận của Ban Hội thẩm: Ban Hội thẩm bác bỏ khiếu nại của Việt Nam liên quan

đến các điều6.10, 9.3, 11.1, và 11.3 của Hiệp định Chống bán phá giá.



5. Vấn đề 4: Khiếu nại của việt nam liên quan đến mức thuế suất chung áp dụng

cho những bị đơn tự nguyện nhưng không được mỹ chọn để tiến hành điều tra.

Lập luận của Việt Nam: Việt Nam lập luận rằng vì lãi suất “all other” được xây dựng

trên biên độ phá giá theo điều 9.4 ADA, mà biên độ phá giá cần phải được tính dựa trên nền

tảng phù hợp với điều 2 ADA, trong khi phương pháp tính “quy về 0” của Mỹ trái với điều

này cho nên việc tính lãi suất “all other” của Mỹ áp cho các bị đơn tự nguyện nhưng không

được điều tra đã vi phạm điều 9.4 ADA.

Lập luận của Mỹ: phía Mỹ lập luận rằng họ không vi phạm điều 9.4 ADA bởi thứ

nhất, điều 9.4 không quy định phương pháp tính thuế cho các bị đơn không được chọn, và thứ

hai, không quy định cách tính biên độ phá giá cho doanh nghiệp tự nguyện trong trường hợp

khiếm khuyết (lacuna) trong đó biên độ phá giá của các doanh nghiệp được chọn là bằng 0

hoặc không đáng kể (de minimis). Mỹ còn lập luận thêm vào rằng điều 9.4 ADA không cấm

phương pháp zeroing, và thậm chí nếu phương pháp này có bị cấm bởi điều khoản khác trong

ADA thì cũng không có nghĩa là nó vi phạm điều 9.4.

Ngoài ra, phía Mỹ còn cho rằng, bởi vì Việt Nam chưa gia nhập WTO vào thời điểm

cuộc điều tra đầu tiên diễn ra, nên lãi suất “all other” được tính toán ở thời điểm đó không vi

phạm hiệp định ADA. Trong các lần điều tra và rà soát thứ 2 và thứ 3, DOC chỉ đơn giản áp

dụng mức thuế đã có sẵn từ lần thứ nhất, do vậy Việt Nam không có lý khi cáo buộc Mỹ sử

dụng zeroing vi phạm ADA trong các lần rà soát thứ 2 và thứ 3. Lập luận của Mỹ dựa trên

điều 18.3 ADA, quy định rằng “Theo quy định trong các đoạn 3.1 và 3.2, các quy định của

Hiệp định này sẽ được áp dụng trong quá trình điều tra và rà soát các biện pháp đang áp dụng

trong thời điểm hiện tại được bắt đầu theo đúng các đơn đề nghị đã được gửi kể từ ngày Hiệp

định WTO có hiệu lực đối với Thành viên đó.”

Kết luận của Ban Hội thẩm:

Ban Hội thẩm đồng ý với luận điểm của Việt Nam cho rằng việc sử dụng zeroing, bất

chấp biên độ phá giá của các bị đơn được chọn là 0, de minimis hay dựa trên những chứng cứ

có sẵn là trái với điều 9.4 ADA. Đối với lập luận của Mỹ về tồn tại Lacuna trong điều 9.4, Ban

Hội thẩm viện dẫn tuyên bố của Ban Phúc thẩm trong vụ US-Zeroing (EC) rằng “...sự thiếu

Page 13



vắng chỉ dẫn cụ thể (trong trường hợp lacuna) đối với phương pháp tính toán không hàm ý sự

thiếu vắng nghĩa vụ đối với lãi suất “all other” áp dụng cho các bị đơn không được chọn khi

mà biên độ phá giá của bị đơn được chọn là 0, de minimis hoặc dựa vào chứng cứ có sẵn.”

Đối với lập luận của Mỹ về việc lãi suất “all other” được thiết lập trong lần điều tra thứ

nhất, Ban Hội thẩm có các bằng chứng chứng minh rằng việc lựa chọn lãi suất đó trong các lần

rà soát thứ 2 và 3 đều đã được DOC cân nhắc lựa chọn trước khi đưa ra quyết định cuối cùng,

và vì vậy hành động này được coi như tính toán mức lãi suất cho lần 2 và 3. Vì vậy, Ban Hội

thẩm cho rằng, việc Mỹ sử dụng điều 18.3 để biện minh cho lãi suất “all other” áp dụng trong

lần rà soát thứ 2 và 3 là không thích đáng, và Mỹ đã vi phạm điều khoản WTO.



6. Vấn đề 5: Khiếu nại của việt nam liên quan đến biên độ phá giá áp dụng cho

toàn quốc

Lập luận của Việt Nam: Việt Nam cho rằng việc Mỹ không áp dụng thuế “all others

rate” cho toàn quốc đã vi phạm điều 9.4 Hiệp định chống bán phá giá bởi vì Điều 9.4 quy định

thì cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra xác định thuế suất riêng cho từng bị đơn trong vụ

việc chống bán phá giá; trong trường hợp không thể điều tra hết được (do số lượng bị đơn quá

nhiều và nguồn lực của cơ quan điều tra hạn chế), cơ quan này có thể chỉ điều tra một số lượng

bị đơn nhất định, số bị đơn còn lại (không được điều tra) sẽ được hưởng thuế suất bằng bình

quân gia quyền của các bị đơn được điều tra. Luận điểm của VN chủ yếu dựa vào chữ “any”

(bất kỳ) trong điều 9.4: “When the authorities have limited their examination in accordance

with the second sentence of paragraph 10 of Article 6, any anti-dumping duty applied to

imports from exporters or producers not included in the examination shall not exceed:...”. Như

vậy, với quy định này, sẽ chỉ có 2 loại thuế suất là “thuế suất riêng cho bị đơn bắt buộc”

(individual rates), “thuế suất cho các bị đơn còn lại” (“all other” rate) trong vụ điều tra chống

bán phá giá. Tuy nhiên DOC còn áp dụng thêm loại “thuế suất toàn quốc” (country-wide rate)

cho các trường hợp bị đơn không được lựa chọn điều tra và không thỏa mãn điều kiện “hoạt

động độc lập, không chịu sự kiểm soát của Nhà nước” để được hưởng mức “all others rate”.

Việt Nam lập luận rằng theo Điều 9.4 nói trên thì thuế suất loại “all others” được áp dụng

không kèm theo điều kiện gì, việc DOC đặt thêm điều kiện “doanh nghiệp phải chứng minh

được mình độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà nước” là vi phạm điều khoản hiệp định WTO.

Để đáp lại, phía Mỹ lập luận rằng mức thuế toàn quốc của họ được tính toán dựa trên

các chứng cứ có sẵn (available fact) phù hợp với điều 6.8 chứ không dựa trên cách tính bình

quân gia quyền của các đơn vị bị điều tra. Điều 6.8 quy định rằng, “[T]rong trường hợp bất kỳ

bên nào đó từ chối không cho tiếp cận thông tin hoặc từ chối không cung cấp các thông tin

trong một khoảng thời gian hợp lý hoặc ngăn cản đáng kể công tác điều tra, quyết định sơ bộ

và quyết định cuối cùng, dù khẳng định hay từ chối, đều có thể được đưa ra dựa trên cơ sở các

chứng cứ sẵn có. Các qui định tại Phụ lục II sẽ được tuân thủ khi áp dụng khoản này.” Tuy

nhiên, phía Việt Nam lập luận rằng trong lần rà soát thứ 2, cho rằng Phòng Thương mại Mỹ đã

vi phạm điều 6.8 ADA bởi các công ty bị đơn bên phía Việt Nam đã không hề vi phạm việc

không cung cấp thông tin “cần thiết” cho phía Mỹ. Cụ thể hơn, phía Việt Nam cho rằng việc

Page 14



trả lời các câu hỏi điều tra Q&V của Mỹ là không cần thiết theo điều 6.8 ADA để có thể đưa ra

mức thuế, bởi trong lần rà soát thứ 3 Mỹ đã không yêu cầu phía các doanh nghiệp Việt Nam

cung cấp thông tin này mà thay vào đó lấy dữ liệu từ một cơ quan khác trong chính phủ Mỹ.

Lập luận của Mỹ: Mỹ biện luận rằng điều 9.4 ADA không đề cập đến mức thuế tối đa

áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp còn lại, và điều 9.4 có khiếm khuyết như đã trình bày ở

trên, vì vậy nên USDOC không vi phạm điều 9.4 trong các cuộc rà soát hành chính lần 2 và

lần 3.

Lý do Mỹ áp dụng thuế suất toàn quốc bởi Mỹ cho biết có 35 công ty xuất khẩu tôm

của Việt Nam đã không trả lời câu hỏi điều tra của Mỹ về “trị giá và số lượng”, mà theo Mỹ

thì dữ liệu này là cần thiết để phía Mỹ có thể xác định bị đơn nào sẽ được lựa chọn kiểm tra

riêng lẻ. Vì vậy mà phía Mỹ khẳng định rằng họ được quyền áp thuế “dựa trên những chứng

cứ sẵn có” cho toàn quốc thay vì thuế áp dụng cho “các bị đơn khác”.

Kết luận của Ban Hội thẩm:

Ban Hội thẩm đồng ý với luận điểm cho rằng Điều 9.4 không thừa nhận việc chính

quyền có thể áp một mức thuế “cho tất cả doanh nghiệp còn lại” đi kèm với bất kỳ điều kiện

thêm vào. Như vậy có nghĩa là Ban Hội thẩm xác định việc Mỹ quyết định áp dụng mức thuế

riêng cho các doanh nghiệp trên toàn quốc là vi phạm điều 9.4 ADA.

Ban Hội thẩm cho rằng Phòng Thương mại Mỹ không có lý khi tuyên bố dữ liệu Q&V

là “cần thiết” theo ý hiểu của điều 6.8 ADA bởi nguyên tắc các bị đơn không chứng minh

được sự độc lập với nhà nước sẽ không được chọn đã được xác định từ trước khi tuyên bố đưa

ra câu hỏi Q&V. Điều này được thể hiện trong chương 10 của Cẩm nang Chống bán phá giá

của Phòng Thương mại Mỹ, và trong tuyên bố của PTM Mỹ trước khi lần rà soát thứ 2 diễn ra

rằng “việc áp thuế toàn quốc cho các bị đơn không độc lập với nhà nước là chính sách của

Phòng Thương mại Mỹ”.



Page 15



CHƯƠNG IV.KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO

VIỆT NAM.

1. Kết quả từ chiến thắng của Việt Nam trong vụ tranh chấp DS404-WTO

Từ năm 2004 đến nay, trải qua 7 đợt rà soát cùng với nỗ lực bền bỉ của các doanh

nghiệp tham gia theo đuổi vụ kiện, ngày 10.9.2013, Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) cuối cùng

cũng đã phải thừa nhận thực tế là các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam không bán phá

giá và lần đầu tiên DOC đã ra quyết định mức thuế 0% cho tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu

tôm Việt Nam tham gia xem xét hành chính thuế chống bán phá giá. Cụ thể DOC đã công

nhận toàn bộ 33 doanh nghiệp Việt Nam tham gia đợt xem xét hành chính lần thứ 7(POR7)

giai đoạn 1/2/2011-31/1/2012 đều không bán phá giá tôm trên thị trường Hoa Kỳ và nhận

được mức thuế 0%. Với mức thuế giảm về 0%, hàng thủy sản Việt Nam sẽ xâm nhập nhiều

vào thị trường này và giá trị mặt hàng tăng lên, có sức cạnh tranh cao. Đây là cơ hội lớn cho cả

doanh nghiệp và người nuôi tôm được bán với giá thỏa đáng hơn, mang lợi nhuận nhiều hơn



2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ tranh chấp DS404-WTO

Cần xác định phạm vi và thời điểm khởi kiện hợp lý

Việc xác định phạm vi và thời điểm khởi kiện có nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi

vụ kiện tại WTO. Đây chính là hai nhân tố tạo nên sự thắng lợi chưa trọn vẹn của Việt Nam tại

vụ kiện Tôm.

Trên thực tế, các nội dung mà Việt Nam khiếu kiện liên quan đến các biện pháp của

Hoa Kỳ trong đợt điều tra lần đầu, trong các đợt rà soát hành chính và rà soát cuối kỳ của vụ

kiện chống bán phá giá tôm của Việt Nam tại Hoa Kỳ. Trong khi đó, đợt điều tra lần đầu và

đợt ra soát hành chính thứ nhất đã hoàn toàn diễn ra trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Vậy

nên các biện pháp do Hoa Kỳ thực hiện vào thời điểm đó không thể bị khiếu kiện và xem xét

bởi Panel. Đồng thời đối với đợt rà soát hành chính lần 4 và 5 cũng như đợt rà soát cuối kì vẫ

chưa có kết quả cuối cùng khi Việt Nam khởi kiện ra WTO. Về nguyên tắc, cũng không thuộc

thẩm quyền của Panel. Với những lí do này, phạm vi khiếu kiện cũng như các kết luận của

Panel chỉ liên quan đến các đợt rà soát hành chính lần 2 và 3 của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, việc có được phán quyết của WTO đối với đợt rà soát thứ 4, 5 và đợt rà soát

cuối kỳ mới thực sự có nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Một mặt, vì các quyết định

giải quyết tranh chấp của WTO chỉ có giá trị hiệu lực cho tương lai, việc các doanh nghiệp

Việt Nam được giảm hoặc gỡ bỏ thuế chống bán phá giá trên cơ sở thực thi quyết định giải

Page 16



quyết tranh chấp chỉ có thế được thực hiện từ đợt rà soát lần 4. Mặt khác theo quy định của

pháp luật Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được gỡ bỏ lệnh áp dụng thuế bán phá giá và

thoát khỏi vụ kiện nếu trong ba lần rà soát hành chính liên tiếp biên độ bán phá giá của họ

được xác định bằng không. Điều này chỉ có thể đạt được khi tính cả đợt rà soát hành chính lần

thứ 4.

Xuất phát từ bối cảnh bất lợi trên Việt Nam đã xác đinh “việc tiếp tục sử dụng các biện

pháp bị khiếu kiện” của Hoa Kỳ là một trong những nội dung khiếu kiện, yêu cầu Panel giải

quyết. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ cho rằng Panel không có thẩm quyền giải quyết vì Việt Nam

đã không nêu trong văn bản yêu cầu thành lập Panel “việc tiếp tục sử dụng biện pháp bị khiếu

kiện” là biện pháp mà Việt Nam khiếu kiện và không phù hợp với cơ chế giải quyết tranh chấp

của WTO

Như vậy, liên quan tới nội dung khiếu kiện thứ 7, bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ kiện

Tôm là việc xác định phạm vi vụ kiện và thời điểm vụ kiện. Vụ kiện rất có thể đã có kết quả

trọn vẹn hơn đối với Việt Nam nếu thời điểm khời kiện được thực hiện sau đợt rà soát hành

chính lần 4 của Hoa Kỳ, hoặc đơn yêu cầu thành lập Panel đã nêu rõ “việc tiếp tục sử dụng các

biện pháp bị khiếu khiện” là một trong những nội dung khiếu kiện

Tăng cường tính chủ động của các doanh nghiệp

Vụ kiện tôm đã cung cấp một bài học đắt giá cho doanh nghiệp Việt Nam: sự cần thiết

tăng cường nhận thức và tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc giải quyết các tranh

chấp thương mại quốc tế. Trong vụ kiện này, tại nội dung khiếu kiện thứ 6 của mình, Việt

Nam yêu cầu Panel tuyên bố Hoa Kỳ đã vi phạm điều 6.10.2 của Hiệp định chống bán phá giá

của WTO khi Hoa Kỳ đã giới hạn các doanh nghiệp Việt Nam được lựa chọn điều tra riêng rẽ.

Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành rà soát hành chính, đã không có doanh nghiệp Việt

Nam nào không được lựa chọn nhưng vẫn tự nguyện cung cấp thông tin như theo quy định tại

điều 6.10.2.

Sự thụ động của các doanh nghiệp, vai trò hạn chế của các hiệp hôi doanh ngiệp, các

ngành hàng Việt Nam, nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là vừa

và nhỏ đồng thời chưa có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết về giao thương quốc tế đặc biệt là kinh

nghiệm ứng phó với các tranh chấp quốc tế.

Cần xây dựng cơ chế quốc gia trong việc phòng, xử lí các tranh chấp thương mại quốc tế

Xét về phương diện quản lí nhà nước, sự liên kết giữa các doanh nghiệp, ngành hàng

vẫn chưa có một khung pháp luật phù hợp khiến cho các doanh nghiệp lúng túng khi có tranh

chấp thương mại xảy ra. Trong quá trình diễn ra vụ kiện, mối quan hệ giữa các chủ thể trên với

các cơ quan nhà nước trong giải quyết thương mại quốc tế mới chỉ được đề cập trong một chỉ

thỉ của Thủ tướng Chính phủ năm 2005. Do ban hành trước khi gia nhập WTO nên chỉ thị đã

có những nội dung trở nên lạc hậu. Chỉ thị mới chỉ nhấn mạnh đến các tranh chấp thương mại

Page 17



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

×