Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.18 KB, 65 trang )
Tức là thuật ngữ “nhân vật” được dùng phổ biến ở nhiều mặt, cả ở đời sống
chính trị xã hội lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngày. Song, trong phạm vi nghiên
cứu của khóa luận, chúng tôi chỉ đế cập đến “nhân vật” theo nghĩa thứ nhất mà
bộ Từ điển tiếng Việt đã nêu ra, tức là nhân vật trong tác phẩm văn chương.
1.1.2. Một số quan niệm về nhân vật trong nghiên cứu lí luận văn học
Trong nghiên cứu lí luận văn học có nhiều quan niệm về nhân vật. Trong
Từ điển văn học (tập 2), các tác giả đưa ra quan niệm: “Nhân vật là yếu tố cơ
bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng chủ đề
và đến lượt mình nó lại các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập
trung khắc họa. Nhân vật do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng - nghệ thuật
của tác phẩm văn học” [28;86].
Theo định nghĩa này, các tác giả đã nhìn nhân nhân vật từ khía cạnh vai
trò, chức năng của nó đối với tác phẩm văn học và quan hệ của nó đối với các
yếu tố hình thức tác phẩm văn học. Đây có thể nói là định nghĩa tương đối
hoàn chỉnh về nhân vật văn học.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học tác giả Lại Nguyên Ân xem xét nhân
vật trong mối tương quan chặt chẽ với cá tính sáng tạo, phong cách nhà văn,
trường phái văn học: người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người,
nhân vật văn học có khi còn “Nhân vật văn học là một trong những khái niệm
trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường
phái hoặc dòng phong cách. Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về
con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con là các con
vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm
giống người” [3;241].
Giáo trình Lí luận văn học (Phương Lựu chủ biên) định nghĩa khá kĩ về
nhân vật văn học: “Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu
tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó là những nhân vật
có tên như Tấm, Cám, Thạch Sanh... Đó là những nhân vật không tên như
thằng bán tơ, mụ nào đó trong “Truyện Kiều”... Đó là những con vật trong
10
truyện cổ tích, đồng thoại, thần thoại bao gồm cả thần linh, ma quỷ những con
người mang nội dung và ý nghĩa con người... Khái niệm “nhân vật” có khi
được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ
một hiện tượng cụ thể trong tác phẩm... Nhưng chủ yếu vẫn là hình tượng con
người trong tác phẩm... Nhân vật văn học là một hiện tượng mang tính ước lệ,
có những dấu hiệu để nhận ra” [24;277 - 278].
Cuốn Lí luận văn học (Hà Minh Đức chủ biên) lại đưa ra cách nhìn khác
về nhân vật văn học: “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang
tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp mọi chi tiết biểu hiện của con người
mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử,
nghề nghiệp tính cách... và cần chú ý thêm một điều: Thực ra khái niệm nhân
vật thường được quan niệm có một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là
con người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm
hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể là những sinh
vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng tính cách con người... cũng có khi
đó không phải là những con người hoặc liên quan tới con người, được thể
hiện nổi bật trong tác phẩm [12;126].
Như vậy đã có nhiều quan niệm khác nhau về nhân vật văn học nhưng
các nhà nghiên cứu lí luận văn học vẫn tìm gặp nhau ở nội dung cơ bản của
khái niệm này: Thứ nhất, nhân vật văn học phải là đối tượng mà văn học miêu
tả, thể hiện bằng các phương tiện nghệ thuật. Thứ hai, nhân vật là những con
người, hoặc con vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng mang linh hồn con người, là
hình ảnh ẩn dụ của con người. Thứ ba, đó là đối tượng mang tính ước lệ, là
phương tiện phản ánh hiện thực đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của
nhà văn.
1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật văn học là sản phẩm tinh thần của nhà văn, cốt truyện đôi khi
có thể vay mượn nhưng nhân vật phải là đứa con tinh thần, là sản phẩm vốn
11
sống trực tiếp của nhà văn. Nhà văn Vũ Thị Thường cho rằng: “Truyện ngắn
sống bằng nhân vật”. Bởi vậy, nhân vật có vai trò và vị trí hết sức quan trọng
trong tác phẩm văn học. Nó được thể hiện cụ thể qua những phương diện sau:
Trước hết, nhân vật là phương tiện thiết yếu để nhà văn khái quát hiện
thực. Sự tìm tòi trải nghiệm của nhà văn về bức tranh đời sống rộng lớn được
tái hiện lại qua hệ thống nhân vật trong tác phẩm. Nhân vật là người dẫn dắt
chỉ đường cho bạn đọc khám phá thế giới khác nhau của đời sống.
Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống con
người, thể hiện những hiểu biết những trăn trở của nhà văn về cuộc sống con
người về số phận của những mảnh đời. Nhân vật là nơi nhà văn thể hiện khái
quát được đầy đủ những quan niệm về những cá nhân xã hội nhất định. Thông
qua nhân vật nhà văn khái quát các quy luật mang tính tất yếu của cuộc sống
những trạng huống khác nhau qua đó cho thấy bản chất của xã hội đang sống.
Bên cạnh đó, xét về phương diện nội dung, nhân vật còn là phương tiện
tất yếu và quan trong nhất thể hiện tư tưởng tác phẩm. Qua nhân vật nhà văn
xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật để chuyển tải một nội dung tư
tưởng nào đó. Để hiểu được tư tưởng tác phẩm, cần đi sâu khám phá thế giới
nhân vật. Không chỉ vật nhân vật còn có vai trò gắn kết các yếu tố khác thuộc
về hình thức tác phẩm, qua đó thể hiện sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Văn học bắt rễ từ cuộc sống và trở về phục vụ cuộc sống, văn học phải
từ cuộc đời mà đi, vì cuộc đời mà đến, không ai làm thơ làm văn trong trạng
thái khô cằn, chai sạn xúc cảm. Cảm hứng ấy có thể bắt đầu từ niềm vui
sướng, tự hào hay tin tưởng, phấn khởi. Bởi vì cuộc sống con người trong tính
hiện thực của nó, niềm vui luôn luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn
tại bên cạnh bóng tối, cái xấu luôn luôn xen lẫn bên cạnh cái tốt, hạnh phúc
thường đi liền với khổ đau, bất hạnh…và những khổ đau của con người xưa
nay vốn là nỗi nhức nhối, bức xúc nhất thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút. Tái
hiện lại bức tranh đời sống thông qua nhân vật của mình tác giả đã phần nào
12
giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn cuộc sống này. Như vậy, một lần nữa ta có
thể thấy rằng nhân vật có vai trò hết sức quan trọng trong tác phẩm của mỗi
nhà văn.
1.3. Khái niệm nhân vật bi kịch
Đối tượng của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị
trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên
nhiên, những lời bình luận đều góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng cho
tác phẩm, nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là số
phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện.
Nhưng thế giới tinh thần của con người là một thế giới phức tạp và nhiều tầng
bậc, cảm xúc và tâm trạng .Vì thế nó là những đối tượng rất khó nắm bắt và
phân tích rạch ròi.
Trong cuộc sống con người mỗi chúng ta lại luôn luôn tồn tại một tiềm
thức về cái gọi là: Ở hiền gặp lành, đọc một câu chuyện thì thường thích một
cái kết có hậu, cuộc đời nhân vật sẽ sang một trang mới tốt đẹp hơn, hạnh
phúc hơn. Thế nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng như ta mong muốn,
có những số phận éo le, trắc trở không hạnh phúc.
Nói đến bi kịch trong các tác phẩm văn học hiện đại là nói đến một trạng
huống tâm lí, một đặc điểm số phận của con người, của thời đại. Đó chính là
trạng huống mâu thuẫn đến cùng cực, là sự đau đớn, mất mát, là cảm giác bất
mãn của con người trong cuộc đời đầy biến động và phức tạp.
Vì thế khái niệm nhân vật bi kịch được hiểu là: tổng hoà, phức hợp của
những mâu thuẫn, xung đột, những nỗi đau không thể giải quyết, điều hoà
trước tác động của hiện thực. Nó là một trạng huống tâm lí đầy mâu thuẫn của
một con người cụ thể, số phận đau đớn, bất hạnh của một con người cụ thể
giữa cuộc sống đời thường.
13
CHƯƠNG 2
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM
NHÂN VẬT BI KỊCH TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư
Nghiên cứu văn chương trong bối cảnh lí luận văn học hiện đại từ góc độ
thi pháp học (tức là xem văn chương như một chỉnh thể, một hệ thống và cấu
tạo nên hệ thống đó là một loạt các thành tố tương tác với nhau một cách có
quy luật) là một trong những cách tiếp cận khoa học và hữu hiệu. Trong đó có
một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học chi phối việc đánh giá sự thành
công trong sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ là quan niệm nghệ thuật về
con người.
Sau 1975, đất nước chuyển đổi trên nhiều phương diện trong đó có đời
sống văn hoá, tư tưởng. Chiến tranh kết thúc, văn học cựa mình thay đổi,
chúng ta thấy bên cạnh tiểu thuyết, thơ, kí, kịch… Truyện ngắn trở thành một
thể loại rực rỡ của văn học Việt Nam sau 1975. Nó phát triển mạnh mẽ và khả
quan, với rất nhiều gương mặt tiêu biểu: Vũ Thị Thường, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Y Ban, Võ Thị Hảo, Dạ
Ngân, Tạ Duy Anh, Lê Minh Khuê, Phạm Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh,
Võ Thị Xuân Hà, Phùng Văn Khai, Đỗ Bích Thủy, Đỗ Hoàng Diệu, Bích
Ngân, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Ngọc Tư… Ngòi bút của các nhà văn
thay đổi trên nhiều phương diện, trong đó đặc biệt chú ý nhất là thay đổi quan
niệm nghệ thuật về con người, đây là một bước chuyển quan trọng cho truyện
ngắn. Ứng với mỗi giai đoạn văn học có một cách quan niệm nghệ thuật về con
người khác nhau. Nếu văn học chống Pháp và chống Mỹ gắn với cảm hứng
ngợi ca, con người xã thân vì quê hương đất nước, ý nghĩa cuộc đời gắn bó với
cộng đồng, con người sống với cái “ta” to lớn thì sau 1975, con người bắt đầu
có ý thức nhìn ngắm lại chính mình. Văn học không còn hô hào, nói về cái lớn
14
lao mà đào sâu vào cái “tôi”, cái lẩn khuất bên trong được khui mở. Bằng nhiều
cách tiếp cận khác nhau, các nhà văn đã hướng vào thế giới nội tâm, khám phá
chiều sâu tâm linh, thấy được ở mỗi cá nhân những cung bậc tình cảm. Chính
vì vậy, truyện ngắn đã nhanh nhạy trong cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống
con người dưới cái nhìn đa chiều. Milan Kundra nói rằng: “con người là hiền
minh của lưỡng lự”, con người qủa là đa dạng, phong phú. Vì thế, nhà văn thể
hiện quan niệm nghệ thuật về con người ở nhiều chiều kích khác nhau. Nhà văn
chuyển hướng cách nhìn nhận, cách cảm và cách đánh giá con người, điều đó
đựơc coi tự làm mới mình về mặt nhận thức, tư duy bản thể con người. Con
người luôn phải tự đấu tranh, tự dò dẫm trong muôn ngàn ngả rẽ của xã hội
hiện đại, hậu hiện đại. Nhà văn là người đau đời nhất, vì thiên chức của nhà
văn làm cho con người trở nên người hơn, bởi trong mỗi con người bao giờ
cũng tồn tại hai mặt: đẹp - xấu, thiện - ác, cao cả - thấp hèn, yêu - ghét, vui buồn, hạnh phúc - khổ đau. Văn học nghệ thuật chính là sự phơi trải cái nhìn
về con người. Nhà văn có thể viết một tác phẩm không có hình bóng con
người nhưng suy đến cùng lại nói về con người. Có bao nhiêu nghệ sĩ thì có
bấy nhiêu cách cắt nghĩa lý giải về con người. Mỗi nhà văn khám phá con
người một cách khác nhau và đặt ra những câu hỏi đại loại như: Con người
đến từ đâu? Con người đi về đâu? Con người như thế nào được gọi là chân thiện - mỹ? Con người như thế nào mới xứng danh Con - Người?. Cho nên,
khi nghiên cứu tác giả, tác phẩm, nhân vật, cần soi chiếu và bắt nguồn từ quan
niệm của nhà văn đó về con người.
Đối với Nguyễn Ngọc Tư, chị nhìn con người từ chiều sâu nội tâm. Hiểu
con người từ nội tâm, Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện một cái nhìn sâu sắc, một
tấm lòng khoan dung, độ lượng, một quan niệm nghệ thuật hết sức nhân bản.
Chính từ quan niệm nghệ thuật này, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nhân vật
từ phương diện tâm lí đa diện, tính cách nhân vật có chiều sâu và dễ đi vào
15