Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.18 KB, 65 trang )
lao mà đào sâu vào cái “tôi”, cái lẩn khuất bên trong được khui mở. Bằng nhiều
cách tiếp cận khác nhau, các nhà văn đã hướng vào thế giới nội tâm, khám phá
chiều sâu tâm linh, thấy được ở mỗi cá nhân những cung bậc tình cảm. Chính
vì vậy, truyện ngắn đã nhanh nhạy trong cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống
con người dưới cái nhìn đa chiều. Milan Kundra nói rằng: “con người là hiền
minh của lưỡng lự”, con người qủa là đa dạng, phong phú. Vì thế, nhà văn thể
hiện quan niệm nghệ thuật về con người ở nhiều chiều kích khác nhau. Nhà văn
chuyển hướng cách nhìn nhận, cách cảm và cách đánh giá con người, điều đó
đựơc coi tự làm mới mình về mặt nhận thức, tư duy bản thể con người. Con
người luôn phải tự đấu tranh, tự dò dẫm trong muôn ngàn ngả rẽ của xã hội
hiện đại, hậu hiện đại. Nhà văn là người đau đời nhất, vì thiên chức của nhà
văn làm cho con người trở nên người hơn, bởi trong mỗi con người bao giờ
cũng tồn tại hai mặt: đẹp - xấu, thiện - ác, cao cả - thấp hèn, yêu - ghét, vui buồn, hạnh phúc - khổ đau. Văn học nghệ thuật chính là sự phơi trải cái nhìn
về con người. Nhà văn có thể viết một tác phẩm không có hình bóng con
người nhưng suy đến cùng lại nói về con người. Có bao nhiêu nghệ sĩ thì có
bấy nhiêu cách cắt nghĩa lý giải về con người. Mỗi nhà văn khám phá con
người một cách khác nhau và đặt ra những câu hỏi đại loại như: Con người
đến từ đâu? Con người đi về đâu? Con người như thế nào được gọi là chân thiện - mỹ? Con người như thế nào mới xứng danh Con - Người?. Cho nên,
khi nghiên cứu tác giả, tác phẩm, nhân vật, cần soi chiếu và bắt nguồn từ quan
niệm của nhà văn đó về con người.
Đối với Nguyễn Ngọc Tư, chị nhìn con người từ chiều sâu nội tâm. Hiểu
con người từ nội tâm, Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện một cái nhìn sâu sắc, một
tấm lòng khoan dung, độ lượng, một quan niệm nghệ thuật hết sức nhân bản.
Chính từ quan niệm nghệ thuật này, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nhân vật
từ phương diện tâm lí đa diện, tính cách nhân vật có chiều sâu và dễ đi vào
15
lòng độc giả. Bằng sự trải nghiệp của bản thân và kế thừa truyền thống quan
niệm nghệ thuật về con người của thế hệ đi trước, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa ra
cái nhìn và cách lí giải về con người theo cách riêng của mình.
Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy thông qua
các hình tượng trong tác phẩm, nhà văn đã bộc lộ những quan niệm (cái nhìn)
sâu sắc và nhân bản về con người. Có thể khái quát quan niệm nghệ thuật về
con người của Nguyễn Ngọc Tư thành những biểu hiện cụ thể như sau:
2.1.1. Con người sống để yêu thương
Theo quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, con người sống trên đời phải biết
yêu thương và trân trọng nhau, điều đó với chị đã thành lẽ sống, niềm vui và
hạnh phúc. Chị luôn biết cánh hóa giải những bi kịch bằng tình yêu thương, bằng
thái độ trân trọng con người đặc biệt là sự nâng niu nỗi đau, những khát vọng và
những cảnh ngộ làm con người tha hóa. Bởi thế cho nên, hầu hết các nhân vật
trong truyện ngắn của chị luôn biết yêu thương và khao khát yêu thương.
Đọc Giao thừa ta luôn có cảm giác ấm áp khi cảm nhận được sự nghĩa
tình của người dân lao động Nam Bộ. Dù cuộc sống vất vả, khó nhọc nhưng
họ sống với nhau bằng tình nghĩa. Biết tình cảm Qúi dành cho Đậm nhưng
còn e ngaị, ông Chín đã nhắc nhở Quí: “Ông bà mình có câu: Ra đường thấy
cánh hoa rơi. Hai tay nâng lấy cũ người mới ta. Mạnh dạn lên, cậu thương con
gái người ta mà cà lơ phất phơ thấy rầu quá. Cháu Đậm, thấy vậy mà như trái
dưa, xanh vỏ đỏ lòng” [42;78]. Biết quá khứ lầm lỡ của Đậm nhưng Quí vẫn
yêu thương gắn bó, đó là thứ tình cảm không phải ai cũng có được, nhưng
trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ta lại thấy điều này trong nhiều
nhân vật nam. Ông Chín Vũ trong Cuối mùa nhan sắc luôn dành tình yêu và
sẵn sàng dang rộng vòng tay che chở cho mẹ con đào Hồng dù biết rằng trái
tim bà mãi mãi không đặt nơi ông. Dù khi tuổi đã xế chiều nhưng ông vẫn
“muốn đỡ đần bà một đoạn đời” [43;93]. Bỏ cả cuộc đời đi theo gánh hát theo
16
người mà ông yêu thương ông đã thấy đời mình thật ý nghĩa và lần đầu tiên
ông được đóng vai chính “người ta hỏi vai gì, ông bảo vai con của đào Hồng
phút lâm chung của người đàn bà suốt đời ông yêu thương, ông gọi “Má ơi!”
và thấy bà mỉm cười” [43;97]. Cuộc đời là vậy đơn giản nhưng ý nghĩa cũng
như Lương trong truyện ngắn Lương cưu mang một người con gái lầm lỡ lại
không có khả năng làm vợ là Bông, chỉ vì quá yêu thương. Hay người cha Út
Vũ trong Cánh đồng bất tận cũng vì cưu mang một người con gái để rồi cuộc
đời trôi như con thuyền vô định.
Những người phụ nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư cũng sống
tràn đầy tình nghĩa, nhân hậu, và vị tha. Hiếm có người phụ nữ nào như người
phụ nữ trong truyện Má tôi, trong truyện Dòng nhớ, lăn lội đi tìm lại người vợ cũ
của chồng để cho hai người gặp lại nhau. Hay như Nương trong Cánh đồng bất
tận, dù phải chịu bao cay đắng, nhọc nhằn thế nhưng suy nghĩ của Nương ở đoạn
kết đã gửi đến cho mọi người thông điệp phải suy ngẫm, đó là: Hãy sống bằng
tình yêu thương và tha thứ cho mọi người, Nguyễn Ngọc Tư viết: “Đứa con gái
thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận
việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen). Đứa bé đó nhất
định sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hương... Đứa bé không cha
nhưng chắc chắn sẽ được đến trường, sẽ tươi tỉnh và sống đến hết đời, là trẻ con
đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn” [43;212 - 213].
Những phẩm chất đáng quí của người dân Nam bộ còn được biểu hiện
qua tình nghĩa xóm làng giữa “Má tôi” với gia đình Tứ Hải trong Nhà cổ, hay
trong Biển người mênh mông là tình cảm gắn bó giữa hai người đàn ông cô
đơn trong xóm trọ nghèo.
Với Nguyễn Ngọc Tư tha thứ, và yêu thương nhau là con đường duy
nhất để cứu vớt con người khỏi khổ đau bất hạnh. Nguyễn Ngọc Tư có những
nhân vật đặc biệt như con vịt tên cộc Cái nhìn khắc khoải, con bìm bịp Biển
17
người mênh mông, con chó tên cò trong Gió lẻ, đó là những con vật tri kỉ
nghĩa tình của người, biết nói tiếng người, chia sẻ nỗi cô đơn với người.
Chúng cũng góp phần làm nên đặc sắc văn chương của chị, bên cạnh đó chị
còn nói đến những khiếm khuyết của con người, những tiêu cực xã hội không
phải để phê phán mà để lay động tâm can người đọc. Trên tất cả, văn chương
của chị là để nói đến cái tình, cái tình người sâu thẳm “ai cũng cần được yêu
thương. Mà muốn được vậy, phải biết chia sẻ lòng nhân từ, sự quan tâm từ
chính trái tim mình trước nhất” [45].
2.1.2. Con người sống là luôn hi vọng
Văn học là nghệ thuật, mà nghệ thuật cảnh tỉnh con người, vì nghệ thuật
am hiểu sâu sắc bản chất con người nhất. Do đó, thiên chức cao cả của nghệ
thuật là thanh lọc tâm hồn và hướng thiện con người đến bến bờ tốt đẹp.
Người ta thường nói: “Nơi lạnh nhất trên trái đất không phải là Bắc cực hay
Nam cực mà chính là nơi thiếu vắng tình yêu giữa những con người”. Sở dĩ
con người có thể tồn tại trên thế gian là vì họ biết hi vọng, nhân loại tin rằng
“không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Nguyễn Ngọc Tư đặt cược hết
niềm tin vào con người và biết tìm trong họ những đốm lửa tinh thần để thắp
sáng lên tình yêu.
Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy con người tuy
phải hứng chịu nhiều bất hạnh, oan trái nhưng trong từng lời nói và trong sâu
thẳm suy nghĩ của họ vẫn luôn ánh lên một niềm tin: những khó khăn, vất vả
cùng những đau khổ nhất định rồi sẽ qua đi. Người đọc không khó để nhận ra
âm hưởng này trong rất nhiều truyện như: Cải ơi, Cuối mùa nhan sắc, Làm
má đâu có dễ, Biển người mênh mông, Thương quá rau răm, Nhà cổ, Cánh
đồng bất tận…
Hi vọng giúp con người ta có thêm niềm tin để sống, để có thể vượt qua
những khó khăn thử thách, những đau buồn để hi vọng tương lai sẽ hạnh
18
phúc. Ta thấy rõ quan niệm này của Nguyễn Ngọc Tư thông qua các nhân vật
trong truyện của chị. Đọc Hiu hiu gió bấc ta thấy nhân vật Hảo vẫn “chờ
người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ
mà trong tâm “viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn”, chờ người ta
thôi buồn khi đưa chốt qua sông” [43;36]. Với tấm lòng như vậy ta tin sẽ đến
một ngày Anh Hết mở lòng đón nhận tình cảm của chị. Kết thúc truyện ngắn
Cánh đồng bất tận, không phải là nỗi buồn bất tận mà là sức sống bất tận sẽ
được hồi sinh từ sau tai họa của Nương. Đứa con của Nương khi sinh ra sẽ
không có cuộc đời buồn tủi như mẹ nó sẽ được đến trường trong tình yêu
thương của mọi người.
Dường như chính mảnh đất đầy khó khăn, vất vả đã góp phần tạo nên
tính cách và một nghị lực sống phi thường của người dân Nam Bộ và hi vọng
một ngày mai với tương lai tốt đẹp đã cho những con người nơi đây thêm sức
mạnh để sống.
2.1.3. Con người sống là hết mình với người khác
Nguyễn Ngọc Tư luôn quan niệm con người sống trên đời phải hết mình
vì người khác, chính vì thế khi đi vào tác phẩm chúng ta nhận thấy những
nhân vật của chị đều là những con người sẵn sàng hi sinh hạnh phúc bản thân
mình để vun đắp cho tương lai hạnh phúc của người mình yêu. Trong truyện
ngắn của mình, Nguyễn Ngọc Tư xây dựng những nhân vật sống hết mình vì
người khác, khi thì là những nhân vật nữ, khi thì những nhân vật nam ứng xử
rất cao thượng.
Nhân vật ông Chín Vũ trong Cuối mùa nhan sắc, bởi yêu thương đào Hồng
mà bỏ nhà bỏ phú quí theo gánh hát. Long đong lận đận cả đời, nhưng điều hạnh
phúc của ông là ngày ngày được thấy đào Hồng, yêu và sống vì đào Hồng. Hay
như nhân vật Hết trong Hiu hiu gió bấc, vì yêu Hoài nhưng không muốn cô phải
khổ nên tự biến mình thành một kẻ xấu để Hoài yên tâm ra đi… Trong cuộc
19
sống, vì tình yêu người nọ hi sinh cho người kia suy cho cùng là cách ứng xử
giữa cá nhân với cá nhân, ở truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư “sống hết mình vì
người khác” còn được thể hiện qua cách ứng xử giữa cá nhân với tập thể và cộng
đồng. Tiêu biểu đó là những truyện: Làm mẹ, Mối tình năm cũ...
2.1.4. Con người sống phải thành thật với chính mình và người khác
Theo Nguyễn Ngọc Tư, sống thành thật với chính mình và người khác là
sự ý thức rõ địa vị và thân phận của mình trong đời sống xã hội. Song trong
truyện ngắn của mình, chị lại thể hiện quan niệm qua những con người nhẫn
nhịn và ít khi phản kháng. Điều đó, là niềm hi vọng để cho cuộc sống của
mình êm đềm và không là tổn thương người khác, đồng thời cũng là để cho
tâm hồn mình được thanh thản. Trong hầu hết truyện của Nguyễn Ngọc Tư,
phần nhiều là những người nông dân sống ở nông thôn hay những nghệ sĩ đã
cuối mùa nay đây mai đó. Trình độ học vấn của họ thấp nhưng cách ứng xử
giữa người với người thì không hề thấp họ không muốn làm tổn thương người
khác tránh xa những ganh đua đố kị.
Cô bé Mỹ Ái trong Gió lẻ và 9 câu chuyện khác, đã nhẫn nhịn đến mức
cam chịu để rồi phải nhận lấy bao nhiêu tủi hổ đắng cay. Nguyễn Ngọc Tư đã
lấp vào em bé một vùng của quên lãng, một vùng trắng xóa của những tiếng
con cò, con chó, tiếng của những động vật nuôi sống em. Chứng kiến cái chết
của mẹ năm sáu tuổi, một bí mật của người cha trước cái chết của mẹ và lí do
ông đưa ra để trốn tránh trách nhiệm. Kể từ đấy cô bé đã không thể chấp nhận
những điều gian dối cơn gió lẻ chính là em, chính là sự nhức nhối khi em cứ
tha phương, lay lắt như cọng cỏ dại giữa trời, dặm dằn cuốn vào đời của
những mảnh cong số phận khác, hay chủ xe tải em đặt tên là buồn, họ cũng
đâu ngờ cuốn theo những cơn gió lẻ lạnh rát tê tái.
Tương tự như vậy, ý thức được thân phận mình nên hai chị em Nương và
Điền trong Cánh đồng bất tận, cũng đã nhẫn nhịn lặng lẽ sống không muốn ai
phải vì mình. Để rồi, cuộc đời các em cũng toàn đau khổ bất hạnh.
20
Khác với những biểu hiện nghệ thuật như: con người cơ hội bịp bợp, con
người tha hóa... Trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao... Trước 1945. Nếu trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp làm chuyện gì cũng chỉ với suy nghĩ và và mục đích có lợi hay không
có lợi cho bản thân mình thì những con người trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư làm chuyện gì cũng đắn đo suy nghĩ “cân nhắc xem chuyện ấy tốt
hay xấu, là đúng hay sai, có gây tổn hại đến người khác hay không để từ đó
quyết định nên làm hay không nên làm” [6]. Đây chính là cái nhìn và cách lí
giải về con người theo cách riêng của chị tạo nên một Nguyễn Ngọc Tư
không lẫn với bất cứ nhà văn nào.
2.2. Đặc điểm nhân vật bi kịch trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Không mang đến những cảm giác choáng ngợp, kịch tính hay những ấn
tượng khó phai, nhưng truyện ngắn của Nguyễn ngọc Tư lại mang đến cho
người đọc cảm giác nhẹ nhàng, gần gũi mà sâu sắc ở cái tình. Người ta không
thấy những mối tình, những hình tượng đẹp như phim Hàn Quốc mà đó chỉ là
chuyện ông Chín Vũ trong Cuối mùa nhan sắc lỡ dở một đời vì thầm thương
cô đào Hồng, mà không hề than thở một lời. Tiếng gọi Cải ơi da diết khắc sâu
vào mỗi trái tim người đọc, đó là nỗi đau thầm lặng của một người cha mất
con của một kẻ mắc tiếng oan khó giải. Có khi là tiếng nức nở của những
Duyên phận so le, hay Cái nhìn khắc khoải, những đợi chờ, những nỗi đau
lặng ngắt trong Một trái tim khô, chảy thành Dòng nhớ, giữa Biển người mênh
mông, giữa Cánh đồng bất tận… Yêu thương và tình nghĩa. Chỗ lắng sâu của
những trang văn này là dòng cảm xúc tuôn chảy từ trái tim nhân hậu, trăn trở
với cuộc đời và con người của nhà văn, là những giọt nước mắt trong trẻo và
đẹp đẽ gợi dậy nơi người đọc sau mỗi truyện ngắn.
2.2.1. Những con người chung thủy nhưng bị bội tình
Trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư có những con người họ vốn là
những người tốt bụng, chân thành và thủy chung nhưng lại bị phản bội.
21
Những dối trá mất mát ấy, đã gặm nhấm hủy hoại cuộc sống của họ để rồi họ
không thể tiếp nhận tình yêu thương từ bất cứ ai. Có những người còn trả thù
bằng cách hủy hoại chính cuộc sống của mình, để rồi những người xung
quanh họ phải chịu bao bất hạnh.
Tình yêu muôn đời là điều khó nhận biết, trái tim bao giờ cũng có lí lẽ
riêng mà lí trí không thể giải thích được, đôi khi có những nụ cười phải đánh
đổi bằng nước mắt, có những hạnh phúc phải trả giá bằng niềm đau nhưng
con người ta lại luôn tin vào tình yêu.
Một trái tim khô là câu chuyện của Hậu, chị ôm trong mình một vết
thương không bao giờ có thể lành. Khi hai người đàn ông đến với cuộc đời
chị đều khắc vào trái tim chị những nỗi đau, những tổn thương không bao giờ
vơi. Chồng Hậu đang tâm thuê người giết Hậu để cướp tài sản và cũng bởi
bên anh ta có người đàn bà khác trẻ đẹp. Trái tim là để yêu vậy mà giờ trái
tim Hậu “vỡ bục ra giãy đành đạch” và “tan hoang, lạnh lẽo như đồng sau
bão” [43]. Đó là khi vệt dao loé lên sắc nhọn ở cua Bún Bò với câu nói nát
lòng: “Đừng oán giận tôi nghen, có oán thì oán chồng bà”. Sau câu nói của kẻ
giết người Hậu thấy trái tim mình chết ngắc và khi “vết thương lành nhưng
Hậu mắc chứng trầm uất, hoang tưởng, rối loạn tinh thần… thức dậy đã thấy
nước mắt chảy thành hàng” [43;145]. Hôm mới giải phẫu xong, cảnh đời mới
buồn ác liệt khi tỉnh dậy, Hậu chỉ biết tê tái hỏi một câu “sao anh đành đoạ
giết em”. Trái tim giờ khô lại muốn nó bò lồm cồm ngồi dậy nhói đau, Hậu
giờ đã không còn quan tâm Nhâm cũng không đón nhận tình cảm của Thường
bởi “nghĩ đời thiệt mắc cười, sao biết nhau ở đây, để thương nhau đến mức
nầy, để rồi nhận ra lúc trước đã gặp nhau một lần…” [43;135].
Không đau đớn mất mát quá nhiều như Hậu, nhưng Xuyến trong Duyên
phận so le cũng mang một trái tim đau luôn thổn thức mà không thể nào đón
nhận tình yêu của ai. Khi mới mười bảy tuổi Xuyến yêu một người, yêu đến
22
nỗi bỏ cả gia đình cha mẹ theo tiếng gọi của tình yêu. Nhưng chỉ đến mười tám
tuổi tình yêu ấy cũng vứt bỏ cô lại bơ vơ giữa chợ đời, với hình hài bé bỏng của
đứa con trong bụng. Cô quá đau khổ khi phải dứt lòng đem cho đứa con chỉ vì
không thể nuôi nổi bé. Dù phải làm tiếp viên phục vụ khách đến khách đi, bị
khách say khách tán tỉnh hôn hít, nhưng Xuyến vẫn gắn bó với khu du lịch So
Le hoang vắng này, bởi vì đứa con thơ dại của mình đang ở đây. Xuyến cũng
như bao nhiêu người nơi đây, họ chua chát nghĩ cho cuộc đời mình khi mà
đáng ra đôi má ấy, đôi tay ấy phải để cho người mình yêu thương ôm ấp”
[43;137]. Xuyến không đón nhận tình cảm của ai dù thâm tâm cô thổn thức
muốn được yêu thương, như con đò nhầm bến đỗ, một lần dở dang để cả đời
mang nỗi đau của kẻ bị phụ tình, nỗi đau của người mẹ mất con.
Nguyễn Ngọc Tư cho rằng, trong cuộc sống, trong tình yêu cũng có
không chỉ có người đàn ông phụ bạc, mà cũng không ít người phụ nữ phụ bạc,
và chính họ cũng là nguyên nhân gây nên bi kịch tình yêu hoặc gia đình tan
vỡ chứ không phải riêng gì người đàn ông. Vì thế, trong rất nhiều truyện
ngắn, Nguyễn Ngọc Tư đã tỏ thái độ không đồng tình với những người phụ
nữ như thế và qua đó cất lên tiếng nói cảm thông và chia sẻ với những người
đàn ông sâu sắc, một lòng một dạ, khi yêu.
Trọng trong Một mối tình, là một điển hình của kiểu nhân vật bị phụ bạc.
Từ khi Ái bỏ đi, trái tim anh đã không còn có thể đón nhận thêm ai dù biết
người em vợ thích mình. Dường như, nỗi đau mà người vợ phản bội gây ra đã
không thể nào nguôi ngoai trong tâm hồn anh. Anh vẫn tin vẫn hi vọng Ái sẽ
quay trở về bởi thế cho nên những gì thuộc về Ái anh vẫn giữ nguyên: “Mười
năm kể từ ngày chị Ái tôi bỏ Trọng đi, Trong vẫn giữ nguyên cái khăn choàng
tắm treo đầu sào, chiếc nón lá quai nhung đã ngả màu thâm sì, cũ mèm, giữ
cây lược sừng đã gãy mất mấy cái răng...” [42;126 - 127]. Để ngày ngày ngó
ra khoảng sân vắng gìn giữ mọi thứ để “má con nhớ được đường, nhớ đựoc
nhà mà về” [42;132].
23
Trong Cánh đồng bất tận, nhân vật người cha Út Vũ cũng là một kiểu
người bị phụ bạc. Khác với Trọng trong Một mối tình, khi vợ bỏ nhà theo trai
Út Vũ căm hận vợ mình nhưng lại không đi tìm vợ mà lại trút căm hận vào
hai đứa con, và những người đàn bà yêu quyết theo anh ta. Út Vũ chỉ vì thù
hận của mình, đã khiến những người xung quanh anh ta đau khổ. Anh ta đã bỏ
lại người đàn bà khi vừa đi một đoạn đường, để người ta có thể nhận thấy sự
phản bội, điều đó cũng đủ để người đàn bà không còn con đường trở về nữa.
Nương đã nói: “Với những người đàn bà sau này cha tôi tính toán rất vừa vặn,
sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi đúng lúc... Cha
mang họ đi một quãng đường vừa đủ người ở lại nhìn rõ chân dung của sự
phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ, con đường quay trở về bị bịt kín.
Sẽ còn bao nhiêu người nữa được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia...”
[43;189 - 190]. Đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngời đó, là một hố sâu đen
thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi dễ hụt chân. Trả thù đời để lấp đi những vết
thương người vợ để lại để xoa dịu những nỗi đau nhức nhối theo anh suốt
cuộc đời, nhưng vết thương lòng ấy mãi không thể liền. Người cha ấy tựa như
đi trong đêm tối, mang theo hai đứa con trong một hành trình vô định. Chính
do sự mê muội, nên khi những tình yêu thương quay trở lại thì cũng chính là
lúc ông khiến hai đứa con mình chịu bao thua thiệt bao vất vả đớn đau.
Nguyễn Ngọc Tư không bi quan, nhưng chị luôn biết nhìn thẳng vào sự
thật vào những mảnh đời thua thiệt, bởi vì trong cuộc đời còn nhiều những bất
hạnh, những đau thương. Nhưng nhân vật của chị không vì thế mà sống gian
ác lọc lừa sảo trá mà trong sâu thẳm trái tim họ ngoài nỗi đau là tình yêu
thương là lòng nhân hậu.
2.2.2. Những con người ở hiền nhưng không gặp lành
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không ai trong mỗi chúng ta khi
gấp cuốn sách lại mà không thở dài một tiếng, không thốt lên một câu xót xa
24
“Sao mà lại buồn đến thế!”. Phải rồi, trong con người mỗi chúng ta luôn luôn
tồn tại một tiềm thức về cái gọi là: “Ở hiền gặp lành”, đọc một câu chuyện
thì bao giờ cũng thích một cái kết có hậu, cuộc đời nhân vật sẽ sang một trang
mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Thế nhưng chúng ta lại quên đi mất một
điều, rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng như ta mong muốn, có những
con người “Ở hiền mà chẳng gặp lành”, có những số phận không phải sống
trong một cái kết may mắn, hạnh phúc mà là một cái kết trong những bi kịch.
Nguyễn Ngọc Tư đã từng nói rằng chị không tin người tốt sẽ được đền đáp, vì
như thế người ta rủ nhau sống tốt hết rồi, ai thèm xấu mà chi. Nhưng chị vẫn
tin có báo ứng có quy luật nhân quả. Bởi thế cho nên các nhân vật của chị có
nhiều người tốt tử tế, nhưng lại chịu nhiều mất mát thua thiệt ở hiền mà không
gặp lành.
Khởi nguồn của hạnh phúc bắt đầu từ mái ấm gia đình, nhưng trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư gia đình kết dính bằng sự quá giang trong
một khúc đường đời. Vì vậy từ em bé đến người già không một ai có được
niền hạnh phúc trọn vẹn trong Cải ơi, người vợ nghi ngờ chồng giết cô con
gái riêng, tin này như “sét đánh ngang tai” khi cái miệng của vợ thốt ra điều
đó. Ông tím tái mặt mày, đau đớn quằn quại như ai lấy muối xát vào ruột.
Dân làng “đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào đó”. “Cái cảnh
bà con hàng xóm xầm xì, chỉ trỏ, người ở xa còn thuê đò dọc lại nhà ngó
nghiêng, đâu, thằng cha giết con đâu? Đâu, con nhỏ bị chôn chổ nào? Đã quá
chừng đau, khi ông nhìn sâu vào ánh mắt của vợ…chỉ tối tăm những ngờ vực,
hoài nghi...” [43;9]. Khuôn mặt yêu thương của vợ nay chuyển sang “khủng
bố”, ông đành chọn giải pháp ra đi tìm cho được con Cải về, mười hai năm
rong ruổi khắp hang cùng ngõ hẻm nhưng không thấy Cải ở đâu. Bất lực,
Năm Nhỏ muốn nhắn Cải một lời nhưng không có cách nào lên được truyền
hình. Tận cùng đau khổ, ông giả đi ăn trộm trâu để được lên ti vi, ngoài tội bị
25