Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.23 KB, 39 trang )
11
Kỹ thuật nhuộm band G (G-band): nhuộm band NST bằng thuốc
nhuộm Giemsa sau khi đã xử lý NST bằng Trypsin. Đây là phương pháp
nhuộm được sử dụng rộng rãi để đánh giá các bất thường của NST về số
lượng và cấu trúc.
Kỹ thuật nhuộm band Q (Q-band): nhuộm NST bằng thuốc nhuộm
huỳnh quang. Kỹ thuật cho hiển thị band tương tự như nhuộm band G.
Kỹ thuật nhuộm band R (reverse band, R-band): đòi hỏi phải xử lí NST
bằng nhiệt trước khi nhuộm. Kỹ thuật này cho phép hiển thị các band sáng tối
ngược với phương pháp nhuộm band Q và G tạo thuận lợi cho việc đánh giá
các bất thường ở các đầu cùng của NST.
Kỹ thuật nhuộm band C (C-band): cho phép nhuộm và đánh giá các
vùng dị nhiễm sắc (heterochromatin) của tâm động.
Kỹ thuật nhuộm NOR (nucleolar organizing region): vùng cấu tạo nên
hạch nhân) (NOR stain): cho phép nhuộm các vệ tinh và các cuống ở các NST
tâm đầu.
Kỹ thuật nhuộm band G với độ phân giải cao (high resolution
banding): NST được nhuộm khi đang ở kỳ đầu (prophase) hoặc vào giai đoạn
sớm của kỳ giữa (prometaphase) sau khi xử lí bằng các hóa chất thích hợp, do
đó tổng số band của NST có thể tăng lên đến 800 band cho phép phát hiện các
bất thường nhỏ trong cấu trúc của các NST.
Kỹ thuật FISH (fluorescence insitu hybridization): lai tại chỗ bằng kỹ
thuật huỳnh quang): Một đoạn DNA được đánh dấu bằng thuốc nhuộm huỳnh
quang đặc hiệu với một vị trí trên NST đóng vai trò của một đoạn dò (probe)
đem lai với các NST ở kỳ giữa, giai đoạn sớm của kỳ giữa, kỳ đầu hoặc gian
kỳ rồi sau đó quan sát bằng kính hiển vi huỳnh quang. Kỹ thuật này thường
được sử dụng để phát hiện các trường hợp xảy ra tình trạng mất đoạn NST,
12
thừa NST hoặc tái sắp xếp NST như chuyển đoạn. Kỹ thuật đòi hỏi tính đặc
hiệu cao của các DNA dò và định định hướng trong chẩn đoán lâm sàng.
Kỹ thuật lập karyotype quang phổ (SKY: spectral karytotype): Đây là
kỹ thuật nhuộm sử dụng sự phối hợp của 5 loại màu huỳnh quang khác nhau.
với 5 màu khác nhau sẽ có thể tạo ra nhiều màu khác nhau cho phép tạo nên
đủ số probe cho 22 NST thường và 2 NST giới tính X và Y. Với kỹ thuật này
mỗi NST sẽ có một dải màu đặc hiệu sau khi sử dụng hệ thống chụp ảnh và
phần mềm xử lí ảnh đặc hiệu sẽ làm cho việc đánh giá các bất thường về số
lượng và một số loại bất thường cấu trúc của NST một cách hiệu quả [7].
2
Danh pháp
Dưới đây là các danh pháp được sử dụng phổ biến trong việc mô tả
NST trong karyotype:
A-G : Các nhóm NST
1-22: Số của các NST
X, Y: Các NST giới tính
/ : Ký hiệu để minh họa trạng thái khảm (vd: 46/47 mô tả cơ thể ở trạng
thái khảm với 2 dòng tế bào 46 và 47 NST.
p : Nhánh ngắn của NST
q : Nhánh dài của NST
del : Mất đoạn (deletion)
dup : Nhân đoạn (duplication)
i : NST đều (isochromosome)
ins : chèn đoạn (insertion)
inv: : Đảo đoạn (inversion)
r : NST hình vòng (ring chromosome)
13
t : Chuyển đoạn (translocation)
ter : Đầu tận cùng (cũng có thể được viết pter hoặc qter để mô tả đầu
tận cùng của nhánh ngắn hoặc nhánh dài).
Dấu (+) hoặc (-) đứng trước số của NST để minh họa hiện tượng thừa
hoặc thiếu NST đó.
1.2. Các dạng rối loạn NST
1.2.1. Bất thường số lượng NST
1
Đa bội
Trong các tế bào sinh dưỡng dưỡng của thể đa bội, bộ NST lớn hơn 2n
do bộ NST được tang một số chẵn hoặc lẻ lần, ví dụ 3n, 4n…
Có 3 cơ chế có thể dẫn đến hiện tượng đa bội:
- Thụ tinh của các giao tử bất thường.
- Sự phân chia bất thường của hợp tử.
- Sự thụ tinh kép hoặc sự xâm nhập của tế bào cực.
2
Lệch bội
Lệch bội là hiện tượng số lượng NST của tế bào tăng lên hoặc giảm đi
một hoặc vài NST so với bộ NST lưỡng bội [8], [9].
Các dạng lệch bội gồm:
- Thể không 2n-2: thiếu cả hai NST của một loại NST nào đó.
- Thể đơn 2n-1: thiếu 1 NST của 1 loại NST nào đó, ví dụ: 45, X.
- Thể ba 2n+1: có thêm một NST thuộc 1 loại NST nào đó.
- Thể đa 2n+2 hoặc 2n+3… có thêm hai hoặc ba NST của cùng 1 loại
NST.
- Thể khảm: trong cùng 1 cơ thể có hai hoặc ba dòng tế bào chứa hai
14
hoặc ba loại karotyoe khác nhau.
1.2.2. Bất thường về cấu trúc
Một số dạng đột biến cấu trúc NST
- Mất đoạn
- Đảo đoạn
- Chuyển đoạn (chuyển đoạn tương hỗ, chuyển đoạn không tương hỗ
và chuyển đoạn hòa hợp tâm)
- Nhân đoạn nhiễm sắc thể
1.3. Vùng dị nhiễm sắc và vùng nhiễm sắc thực
1.3.1. Nhiễm sắc thực
Nhiễm sắc thực là vùng có chất nhiễm sắc đóng gói lỏng lẻo. Khi
nhuộm băng, vùng này bắt màu nhạt. Đây là vùng thường xảy ra hoạt động
phiên mã.
Mặc dù trên vùng này có thể có một số đoạn ADN không hoạt động
phiên mã song tất cả đoạn ADN trên NST có phiên mã thì đều phải ở trạng
thái nhiễm sắc thực [5].
Hình 1.3. Cấu trúc vùng dị nhiễm sắc và vùng nhiễm sắc thực
Nguồn http://www.nature.com/nrm/journal
15
1.3.2. Dị nhiễm sắc
Dị nhiễm sắc là vùng chất nhiễm sắc đóng xoắn chặt chẽ, bởi nó không
được tiếp cận với polymerase nên không được sao chép trong quá trình phiên
mã.
Khi nhuộm băng, dị nhiễm sắc tương ứng với vùng bắt màu đậm,
thường nằm ở gần tâm động hoặc đầu mút của các NST.
Dị nhiễm sắc bao gồm vùng dị nhiễm sắc cố định (constitutive
heterochromatin)
và
vùng
dị
nhiễm
sắc
tạm
thời
(facultative
heterochromatin).
Dị nhiễm sắc cố định là những đoạn NST được đóng gói chặt chẽ ở mọi
tế bào trong cơ thể. Phần lớn những đoạn này gồm ADN có chuỗi nucleotid
lặp đi lặp lại một cách đơn giản. Chúng tạo nên tâm của NST [9].
Dị nhiễm sắc tạm thời là những đoạn NST chỉ đóng gói chặt chẽ ở một
số tế bào trong cơ thể, hoặc ở những giai đoạn nào đó của sự biệt hóa tế bào.
Chúng cũng không được phiên mã, mặc dù ADN ở đây không phải là những
chuỗi lặp lại đơn giản mà có thể chứa các gen thực sự. Tế bào càng biệt hóa
thì tỉ lệ dị nhiễm sắc tạm thời càng lớn, hay nói cách khác càng có nhiều gen
bị khóa lại, không được biểu hiện nữa [10], [11].
1.4. Hiện tượng dị hình nhiễm sắc thể
1.4.1. Những khái niệm cơ bản về dị hình NST
Sau khi NST được xử lý và nhuộm băng, số lượng, vị trí, kích thước
của các băng đặc trưng cho từng NST. Tuy nhiên, người ta quan sát thấy một
số trường hợp có sự thay đổi về độ lớn, độ bắt màu ở vùng dị nhiễm sắc, tính
chất này có thể di truyền từ bố mẹ sang con theo kiểu di truyền Mendel. Đó là
hiện tượng dị hình của NST (heteromorphism) và đôi khi được dùng như một
“marker” đặc trưng cá thể [1].
16
Hình 1.4. Một số dạng NST dị hình
Nguồn http://www.nbs.csudh.edu/chemistry/faculty
Các biến đổi tạo nên tính dị hình NST bao gồm biến đổi về chiều dài,
biến đổi về số lượng hay về vị trí của các khối dị nhiễm sắc [1]. Các biến đổi
này có thể được phát hiện qua soi kính hiển vi khi sử dụng kỹ thuật nhuộm
băng NST. Được nhận định là có biến đổi khi vùng dị nhiễm sắc quan tâm có
sự thay đổi khác biệt so với vùng dị nhiễm sắc tương ứng trên NST tương
đồng. Trong bộ NST người, người ta thường quan sát được sự thay đổi về
kích thước tạo nên các vùng dị hình nổi bật dễ quan sát nhất ở nhánh dài các
NST 1, 9, 16, nhánh ngắn các NST nhóm D và nhóm G, và NST Y. Tăng
chiều dài của vùng dị nhiễm sắc trên nhánh dài NST gồm 1qh+, 9qh+, 16qh+,
Yqh+. Đôi khi các chất dị nhiễm sắc cũng có thể mất đi ở các NST này [12],
[13], [14].
Theo phân loại được đề xuất bởi Patil và Lubs 119.771. Với NST 1, 9
và 16, một NST được định nghĩa là có tang kích thước vùng dị nhiễm sắc
nhánh dài (qh+) khi kích thước vung đó lớn hơn hoặc bằng 2 lần kích thước
cánh ngắn NST 16. NST có giảm kích thước vùng dị nhiễm nhánh dài khi
17
vùng dị nhiễm sắc rất nhỏ hoặc thiếu ở cánh dài. Với NST Y, Yqh+ được định
nghĩa là khi NST Y lớn hơn nhiễm sắc thể 18 và Yqh- khi nhiễm sắc thể Y
nhỏ hơn so với một NST thuộc nhóm G [12].
Nguyên nhân của tính đa hình NST chưa hoàn toàn rõ ràng nhưng được
cho là do sự lặp lại của các đoạn DNA mà không mã hóa gen.
1.4.2. Đặc điểm dị hình của NST ở quần thể người
Những nghiên cứu trước đây cho thấy, tỉ lệ cá thể mang NST dị hình
chung được cho là rơi vào khoảng 2-3% dân số trong quần thể, trong đó
chiếm cao nhất là các 9qh+, 16qh+ và Yqh+/-. Các dạng dị hình 1qh+, nhóm
D và G có tỉ lệ thấp hơn. Tuy nhiên tỉ lệ cá thể mang NST dị hình ở những
quần thể khác nhau là khác nhau [15], [16], [17].
Trong một nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1/2005 đến tháng
1/2007 của Khoa Y đại học Baskent Thổ Nhĩ Kì, các nhà khoa học đã tiến
hành xác định tính dị hình ở 1130 mẫu chọc ối. Tiêu chuẩn được chọn là tất
cả các sản phụ đến bệnh viện khu vực được chỉ định chọc ối theo hướng dẫn
của chẩn đoán tiền sản, ví dụ mẹ cao tuổi, có tiền sử bất thường về di
truyền…. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 20 bào thai trong số trên có NST dị
hình tương ứng với 1,77%, trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất là nhóm D (0,53%),
nhóm G ( 0,18%) các dạng còn lại chỉ chiếm 0,36% [18], [19].
Cũng trong nghiên cứu này chỉ ra có sự khác biệt về tỉ lệ NST dị hình
giữa các bào thai nam và nữ. Tỉ lệ NST dị hình ở nam cao hơn ở nữ. Số bào
thai nữ được phát hiện có NST đa hình là 9 (1,65%) với của nam là 11
(1,87%).
Năm 1971, Lubs và Ruddle lần đầu tiên báo cáo một tỷ lệ cao hơn
đáng kể của đảo đoạn gồm tâm của nhiễm sắc thể 9 ở người Mỹ da đen so với
người Mỹ da trắng [10].
18
Trên cơ sở đó, năm 1987 khoa Y đại học New York đã phối hợp với
trung tâm chẩn đoán trước sinh của thành phố để thực hiện một nghiên cứu
lớn về tỉ lệ NST dị hình của NST 1, 9, 16 và Y ở 6250 mẫu ối bao gồm 2334
trường hợp là người da trắng gốc châu Âu, 1737 người gốc Tây Ban Nha,
1795 trường hợp người Mỹ gốc da đen và 384 trường hợp là gốc châu Á. Kết
quả thu được, tỉ lệ cá thể mang NST dị hình là 3,72% song ở nhóm người da
trắng gốc âu tỉ lệ này là 2,18% người gốc châu Á là 3,14% , người gốc Phi
4,79% và người gốc Tây Ban Nha là 4,83%. Kết quả còn cho thấy sự khác
biệt rất quan trọng về tần số của inv (9) trong các nhóm dân tộc khác nhau (p
<0,001, kiểm định Khi bình phương). Inv (9) có tỉ lệ cao hơn ở người da đen
(3,57%), tiếp theo là Tây Ban Nha (2,42%), người da trắng (0,73%), và ở
người châu Á (0,26%) . Cũng trong nghiên cứu này, tỉ lệ Yqh+ có vẻ phổ biến
hơn trong nhóm châu Á mặc dù không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm
dân tộc (0,1