1. Trang chủ >
  2. Cao đẳng - Đại học >
  3. Chuyên ngành kinh tế >

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 108 trang )


7



tất cả những ai có thu nhập bình quân đầu người dưới một đô la mỗi ngày cho mỗi

người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại.”

Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith cho rằng: Con người bị coi là nghèo

khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi

xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi họ không có những gì mà đa

số trong cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mức.

Trong Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004, Ngân hàng Thế Giới cho rằng:

“Nghèo là tình trạng thiếu thốn nhiều phương tiện, thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ

hội tạo ra thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, dễ

bị tổn thương trước những hoàn cảnh bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu đến

những người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định,…”

Theo Abapia Sen, chuyên gia thuộc Tổ chức lao động Quốc tế, cho rằng

“Nghèo là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng”.

Còn nhóm nghiên cứu của Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc, Quỹ hoạt

động dân số Liên Hiệp Quốc, Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc trong công trình “XĐGN

ở Việt Nam -1995” đã đưa ra định nghĩa: “Nghèo là tình trạng thiếu khả năng trong

việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào lĩnh vực kinh tế.”

Liên Hiệp Quốc đã định nghĩa nghèo như sau: Đặc trưng bởi tình trạng thiếu

thốn nghiêm trọng các nhu cầu cơ bản của con người, bao gồm thực phẩm, nước uống

an toàn, công trình vệ sinh, y tế, chỗ ở, giáo dục và thông tin. Nó phụ thuộc không

chỉ vào thu nhập mà còn tiếp cận với các dịch vụ” (Liên Hiệp Quốc, 1995).

Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối

thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Tình trạng con người ăn

không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày

do đó không đủ sức để lao động và tái sản xuất sức lao động (Nguyễn Thị Hoa, 2009).

Tóm lại, các quan niệm về nghèo đói nêu trên phản ảnh 3 khía cạnh: Thứ

nhất, không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu cho con

người. Thứ hai, có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân

cư. Thứ ba, thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia trong quá trình phát triển cộng đồng.



8



Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới

ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm

cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh

tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.

2.1.1.2. Chuẩn nghèo

-



Tính đến nay trên thế giới có hai phương pháp cơ bản để xác định chuẩn nghèo,



đó là phương pháp dựa trên nhu cầu chi tiêu của con người để bảo đảm mức sống tối

thiểu của một con người và phương pháp dựa vào thu nhập để bảo đảm mức sống tối

thiểu. Tuy nhiên, chuẩn nghèo không phải là một đại lượng cố định mà nó luôn biến

động theo thời gian và không gian, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội

và phong tục tập quán của từng quốc gia. Từ năm 1985, Ngân hàng Thế giới xem thu

nhập 1 USD/ngày/người để thỏa mãn nhu cầu sống tối thiểu như là chuẩn tổng quát

cho nghèo đói toàn cầu (WB, 2004). Mỗi quốc gia cũng xác định mức thu nhập tối

thiểu riêng của nước mình dựa vào điều kiện cụ thể về kinh tế của từng giai đoạn

phát triển nhất định, do đó mức thu nhập tối thiểu được thay đổi và nâng dần lên.

-



Theo báo cáo về tình hình nghèo đói của Ngân hàng thế giới, với chuẩn



nghèo trên, số người sống dưới mức nghèo khổ trên thế giới đã giảm rõ rệt trong

vòng 15 năm qua (1981 – 2005), song tốc độ giảm nghèo vẫn chậm và số người

nghèo vẫn còn rất lớn. Đến năm 2008, Ngân hàng thế giới đã nâng từ

1USD/người/ngày lên 1,25 USD/người/ngày theo chỉ số giá cả năm 2005. Theo

tiêu chuẩn này, số người nghèo trên thế giới đã giảm từ 1,9 tỷ người xuống còn

1,4 tỷ người trong vòng ¼ thế kỷ. Chuẩn nghèo mới duy trì cùng một tiêu chuẩn

nghèo tuyệt đối điển hình của các nước nghèo nhất trên thế giới, những cập nhật sử

dụng mới nhất thông tin về chi phí sinh hoạt ở các nước đang phát triển.

-



Tuy nhiên, hầu hết những người đã thoát khỏi đói nghèo vẫn còn rất nghèo



theo các tiêu chuẩn của nền kinh tế có thu nhập trung bình. Chuẩn nghèo trung bình

cho các nước đang phát triển trong năm 2005 là 2,00 USD/người/ngày (WB, 2008).

Các nước Châu Âu là 4,00 USD/người/ngày, các nước công nghiệp phát triển là 14,4

USD/người/ngày (Báo cáo Chính phủ và chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010, 2005).



9



-



Ở Việt Nam, tiêu chí xác định hộ nghèo để được hưởng các chính sách ưu đãi,



hỗ trợ của Nhà nước dành cho người nghèo phải căn cứ vào chuẩn nghèo mà Bộ Lao

động Thương binh và Xã hội ban hành trong từng giai đoạn. Cứ năm năm một lần

Chính phủ lại ban hành chuẩn nghèo thu nhập mới để tiến hành tổng rà soát hộ nghèo

trên toàn quốc, làm căn cứ để thực hiện các chính sách an sinh xã hội phù hợp với

mức sống dân cư và diễn biến giá cả trong từng thời kỳ. Theo quy định mỗi tỉnh,

thành phố có thể đề ra chuẩn nghèo thu nhập riêng của mình căn cứ vào mức sống

dân cư ở từng địa phương, miễn là không thấp hơn chuẩn nghèo thu nhập chung của

Chính phủ.

* Giai đoạn 2001-2005:

Giai đoạn này chuẩn hộ nghèo được xác định theo Quyết định

số 143/2000/QĐ – BLĐTBXH ngày 1/11/2000 như sau:

+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/tháng, tương

đương 960.000 đồng/năm.

+ Vùng nông thôn cho đồng bằng: 100.000 đồng/tháng hay 1.200.000

đồng/năm.

+ Vùng thành thị: 150.000 đồng/tháng hay 1.800.000 đồng/năm.

Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định

trên được xác định là hộ nghèo.

* Giai đoạn 2006 – 2010:

Giai đoạn này chuẩn nghèo được xác định theo Quyết định

170/2005/QĐ– TTg ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ như sau:

+ Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000

đồng/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.

+ Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000

đồng/tháng (3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.

* Giai đoạn từ năm 2011-2015:

Chuẩn nghèo được áp dụng theo Quyết định 09/2011/QĐ-TTg ngày

1/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ:



10



+ Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000

đồng/tháng (4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo; hộ có mức thu

nhập bình quân từ 401.000 đồng – 520.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.

+ Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000

đồng/tháng (6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo; hộ có mức thu

nhập bình quân từ 501.000 đồng – 650.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.

-



Riêng đối với Long An mức chuẩn hộ nghèo là: hộ nghèo ở nông thôn là hộ



có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000

đồng/người/năm) trở xuống, hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân

từ 540.000 đồng/người/tháng (từ 6.480.000 đồng/người/năm) trở xuống.

2.1.2. Tín dụng vi mô

Tín dụng vi mô là những khoản vay nhỏ, rất nhỏ do các ngân hàng hoặc một

tổ chức nào đó cung cấp cho người nghèo. Mục đích là giúp họ có thể tham gia hoạt

động sản xuất hay tiến hành kinh doanh. Mở rộng ra là toàn bộ những hình thức tín

dụng ưu đãi cho người nghèo (Ledgerwood,1991).

Tín dụng vi mô thường dùng cho cá nhân vay và hộ gia đình vay không cần

tài sản thế chấp hoặc thông qua việc cho vay theo nhóm. Người nghèo cũng như tất

cả mọi người cần vốn vay để sản xuất, tích lũy tài sản, bình ổn tiêu dùng, và tự bảo

vệ mình trước các rủi ro dựa trên nhóm vay. Chính vì vậy, tín dụng vi mô đặc biệt

quan trọng trong công tác xoá đói giảm nghèo (Nguyễn Thị Hải Yến, 2008).

Theo Ledgerwood (1991), “Tín dụng dành cho người nghèo là một phương

pháp phát triển kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho dân cư có thu nhập thấp”.

Theo Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về tín dụng vi mô tại Washington tháng

2/1997: “Tín dụng vi mô là việc cung cấp các khoản vay quy mô nhỏ đến đối tượng

người nghèo, với mục đích giúp những người thụ hưởng thực hiện các dự án SXKD

để tạo lợi nhuận từ đó nâng cao chất lượng đời sống cho con người vay vốn và gia

đình của họ”

2.1.3. Các tổ chức cấp Tài chính vi mô (TCVM)

Tổ chức Tài chính vi mô (TCVM) là tổ chức cung cấp vốn vay nhỏ cho những



11



người có thu nhập thấp. Đa số các tổ chức cấp tín dụng vi mô là tổ chức tài chính.

Một số Ngân hàng thương mại (NHTM) cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô cũng được

gọi là tổ chức TCVM ngay cả khi chỉ một phần rất nhỏ trong tài sản của họ được huy

động cho mục đích cung cấp dịch vụ tín dụng vi mô (Nguyễn Thị Hải Yến, 2008).

Mặc dù các nguồn tín dụng vi mô được cung cấp từ các NHTM với ưu thế về

thời gian vay dài hạn, lãi suất thấp, nhưng thực tế hiện nay việc tiếp cận với tín dụng

chính thức từ tổ chức này gặp nhiều rào cản bởi thủ tục hành chính, tài sản thế chấp,…

điều này làm cho các hộ nghèo ở nông thôn khó có khả năng vay được nguồn tín dụng

ưu đãi này. Chính vì thế, làm nảy sinh và phát triển các loại hình tín dụng phi chính

thức với ưu điểm nhanh gọn, thủ tục đơn giản nhưng hộ gia đình phải đánh đổi với

mức lãi suất vay khá cao và thời gian đáo hạn các khoản vay ngắn hơn. Theo Nhóm

nghiên cứu phát triển – Đại học Copenhagen - Đan Mạch (DERP) (2012), thị trường

tín dụng vi mô tồn tại ở ba khu vực chính gồm khu vực tín dụng chính thức, khu vực

tín dụng bán chính thức và khu vực tín dụng phi chính thức.

2.1.3.1. Khu vực chính thức

Các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động

theo Luật Ngân Hàng và Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNT), NHCSXH, Quỹ tín dụng nhân

dân (QTDND), các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước và các ngân hàng thuộc sở hữu tư

nhân.

Các QTDND nhằm mục tiêu là để khôi phục lại niềm tin của công chúng trong

hệ thống tài chính chính thức ở nông thôn, thực hiện huy động tiết kiệm và cho vay

đối với các thành viên của quỹ. Tuy nhiên, sự hiện diện của mạng lưới QTDND chủ

yếu ở các khu vực có nhiều hoạt động kinh tế và kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.

Vì vậy, QTDND đóng một vai trò hạn chế trong việc cung cấp tín dụng vi mô đến các

khu vực khó khăn ở nông thôn. Do đó, hầu hết các khoản tín dụng cho khu vực nông

thôn được thực hiện bởi hai hệ thống ngân hàng chính là NHNN&PTNT và NHCSXH

dưới sự ủy quyền của Nhà nước nhằm hỗ trợ các hộ gia đình, các đối tượng chính

sách được tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi để phát triển sản xuất nông nghiệp, đầu tư



12



vốn nhân lực.

Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước các chính sách

tín dụng của hai ngân hàng này đã phát huy được hiệu quả hoạt động của mình thông

qua các hoạt động cho vay cho sản xuất nông nghiệp và hỗ trợ vốn cho các đối tượng

chính sách như đối tượng Học sinh - Sinh viên (HSSV), các hộ nghèo ở vùng sâu,

vùng xa.

Là ngân hàng dẫn đầu trong các tổ chức tín dụng nông thôn, các hoạt động tín

dụng của NHNN&PTNT đã có những bước chuyển biến tích cực trong cơ cấu tín

dụng. Các khoản vay chủ yếu tập trung vào đối tượng là nông nghiệp, nông thôn,

SXKD và các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ và NHNN. Tính đến ngày 30/06/2015,

NHNN&PTNT có tổng nguồn vốn 742.473 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế

566.716 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng 75,2%

tổng dư nợ và đạt 426.170 tỷ đồng tăng so với thời điểm 30/06/2010 là 184.979 tỷ

đồng, tiếp tục là NHTM Nhà nước giữ vai trò chủ lực trong đầu tư cho nông nghiệp,

nông thôn và các chương trình trọng điểm của Đảng, Nhà nước, tiên phong trong triển

khai tín dụng chính sách, dẫn đầu về cho vay xây dựng nông thôn mới,…

Về phía NHCSXH là ngân hàng được thành lập với mục tiêu hoạt động không

lợi nhuận và thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ trong công tác hỗ trợ những hộ

nghèo có điều kiện tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp thông qua hình thức các chương

trình tín dụng vi mô nhằm cải thiện sản xuất nông nghiệp, nâng cao mức sống và

XĐGN. Chính vì thế mà đối tượng của NHCSXH là các đối tượng chính sách trong

xã hội như hộ gia đình nghèo, HSSV,… trong đó chủ yếu tập trung vào cho vay hộ

nghèo thông qua hợp tác chặt chẽ với các tổ chức địa phương trong thủ tục cho vay.

Cụ thể, UBND xã giúp NHCSXH xác minh nhóm người nghèo, có hoàn cảnh khó

khăn. Các tổ chức Chính trị - Xã hội (CT-XH) khác ở cấp xã như Hội Liên hiệp Phụ

nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh giúp NHCSXH thành lập

và giám sát các khoản vay. Để đảm bảo khả năng thu hồi vốn, các tổ chức CT-XH tổ

chức thành lập các tổ tiết kiệm và vay vốn. Trách nhiệm trả nợ gốc và lãi vay được

quy cho các tổ. Sau đó, phương thức cho vay này được thay thế bằng phương thức



13



linh hoạt hơn. Kể từ khi hình thành và phát triển, NHCSXH đã chứng tỏ được các

hoạt động của mình là đúng đắn. Tính đến ngày 30/06/2015, tổng dư nợ của

NHCSXH đạt gần 136.000 tỷ đồng, tăng 6.229 tỷ đồng so với 31/12/2014, với gần 7

triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác đang còn dư nợ. Doanh

số cho vay 6 tháng đầu năm 2015 đạt 23.800 tỷ đồng, tạo điều kiện cho 1,1 triệu lượt

khách hàng được vay vốn, thu hút và tạo việc làm cho trên 86.000 lao động, trong đó

có trên 1.200 lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài, giúp trên 215.000 lượt

HSSV có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập, xây dựng 751.000 công trình cung

cấp nước sạch, trên 1.500 căn nhà vượt lũ cho hộ gia đình vùng đồng bằng sông Cửu

Long…

2.1.3.2. Khu vực bán chính thức

Thị trường bán chính thức bao gồm hoạt động của các tổ chức không thuộc

đối tượng cấp phép hoạt động của NHNN. Việc cấp phép, quản lý hoạt động của khu

vực này do các cơ quan quản lý khác nhau thực hiện, tùy thuộc vào loại hình tổ chức

tham gia cung cấp dịch vụ TCVM. Ở Việt Nam, các tổ chức tham gia thị trường

TCVM bán chính thức là các Quỹ xã hội, hoạt động của các tổ chức phi chính phủ

(NGOs)... Các tổ chức đoàn thể, NGOs nước ngoài cũng là những đối tác tham gia

cung cấp TCVM bán chính thức. Các tổ chức bán chính thức thực chất là sự liên kết

giữa các tổ chức đoàn thể, là cơ quan đại diện hợp pháp của Chính phủ trong quản lý,

tài trợ và phối hợp với NGOs nước ngoài triển khai các chương trình TCVM. Hội

Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân là ba tổ

chức đang quản lý nhiều chương trình tiết kiệm và vay vốn theo nhóm, triển khai các

dự án TCVM do các tổ chức NGOs tài trợ. Nguồn vốn này có ưu điểm là đến được

tận tay các hộ gia đình nghèo trong vùng và đúng đối tượng vay tín dụng.

2.1.3.3. Khu vực phi chính thức

Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc cung cấp tín dụng, các định chế tài chính

chính thức không thể đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng của các hộ gia đình, tạo nên một

thị trường ngỏ cho các dịch vụ tài chính phi chính thức và chiếm ưu thế trong thị

trường tài chính ở nông thôn. Các dịch vụ tài chính phi chính thức rất đa dạng: cho



14



vay bằng tiền, bằng hiện vật, các khoản vay nóng... Đặc trưng của các dịch vụ tài

chính phi chính thức đáp ứng tức thời cho các hộ gia đình trong việc bổ sung vốn cho

các hoạt động sản xuất và chi tiêu dùng, với ưu điểm là nhanh, thời gian vay ngắn,

không cần tài sản thế chấp và không có các thủ tục hành chính phức tạp như tín dụng

ngân hàng, hoạt động chủ yếu dựa trên niềm tin giữa con người với nhau.

Khu vực tín dụng phi chính thức truyền thống bao gồm người thân, bạn bè và

hàng xóm, tín dụng xoay vòng “hụi”, và người cho vay. Một hình thức tín dụng phi

chính thức được hình thành gần đây trong đó tín dụng được cấp bởi thương nhân địa

phương hoặc các nhà cung cấp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Hình thức tín dạng

này dần trở thành một bộ phận quan trọng của tín dụng phi chính thức.

2.1.4. Vai trò của tín dụng vi mô đối với hộ nghèo

-



Về khía cạnh kinh tế, thông qua quá trình cung cấp các tín dụng vi mô thực



hiện các chức năng quan trọng là (i) huy động tiết kiệm, (ii) tái phân bổ tiết kiệm cho

đầu tư, và (iii) tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ,

trở thành một công cụ đắc lực để giảm nghèo đói và tăng thu nhập. Về khía cạnh xã

hội, TCVM tạo ra cơ hội cho người nghèo tiếp cận được với dịch vụ tài chính, tăng

cường sự tham gia của họ vào cuộc sống cộng đồng nói chung, tăng cường năng lực

xã hội của họ (Nghiêm Hồng Sơn, 2006).

Thứ nhất, tín dụng vi mô đối với người nghèo góp phần cải thiện đời sống,

gia tăng thu nhập cho người nghèo. Với quan điểm hỗ trợ vốn để người nghèo tự

vươn lên bằng chính sức lao động của mình để thoát nghèo, tín dụng vi mô giúp cho

người nghèo có vốn để mua sắm vật tư, cây giống, con giống để canh tác tạo ra sản

phẩm hàng hóa, tăng thu nhập cải thiện đời sống. Tín dụng vi mô dành cho người

nghèo ra đời chấm dứt tình trạng một bộ phận người nghèo thiếu vốn sản xuất phải

đi vay nặng lãi, khiến họ không thể thoát ra cảnh nghèo mà lâm vào tình trạng túng

thiếu hơn, nợ nần nhiều hơn do không đủ khả năng trả nợ. Tín dụng vi mô góp phần

giúp cho người dân tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tận dụng lao

động của gia đình, tìm ra phương thức làm ăn có hiệu quả hơn. Thông qua kênh tín

dụng vi mô, hộ vay vốn buộc phải tính toán trồng cây gì, nuôi con gì và làm như thế



15



nào có hiệu quả cao để hoàn vốn và có lợi. Quá trình đó làm cho người nghèo phải

chủ động học hỏi, tìm hiểu kỹ thuật sản xuất, cải tiến công cụ lao động từ đó tạo cho

họ tính năng động và sáng tạo trong lao động sản xuất. Ở tỉ lệ nào đó việc cho vay

như vậy là tích cực nhưng nếu chi tiêu cao quá tức là hộ gia đình đã tăng chi tiêu hiện

tại và cắt giảm chi tiêu tương lai, thậm chí cụt vốn kinh doanh. Trong một số trường

hợp khác, vay nợ tín dụng lại được dùng để làm gối đầu hoặc trả nhanh cho các khoản

vay khác giống như chơi hụi hay cầm đồ. Chính vì vậy, nhà cung cấp tín dụng vi mô

cần đảm bảo hộ gia đình không sử dụng sai mục đích khoản được vay (Nguyễn Thị

Hoa và cộng sự, 2009).

Thứ hai, tín dụng vi mô còn có tác động tích cực đến việc kích thích năng

khiếu kinh doanh nhỏ của người vay, đặc biệt là phụ nữ. Để sử dụng vốn vay thành

công, tự thân người vay phải tìm tòi cách tính toán đồng tiền cho hiệu quả, nâng cao

các kỹ năng quản lý sản xuất hộ gia đình (chăn nuôi, làm hàng thủ công, gia công),

các kỹ năng bán hàng (tiếp thị, mở rộng quan hệ ra vùng xung quanh hoặc vùng xa).

Tuy nhiên cho đến nay các tác động này cũng rất giới hạn bởi năng suất và công nghệ

của các hộ kinh doanh chỉ ở mức thấp do họ chỉ chăn nuôi và làm thủ công (Zeller,

2001).

Thứ ba, tín dụng vi mô không chỉ giúp thoát nghèo mà còn giúp người nghèo

tự chủ được cuộc sống của mình mà không sợ rơi vào ngưỡng đói và cũng là động

lực để người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo chịu khó học hỏi và phát huy các khả

năng tiềm ẩn của mình và kết quả của nó là tạo ra bình đẳng giới trong nông thôn

(Nguyễn Thị Hải Yến, 2008).

-



Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tiếp cận tín dụng là điều kiện quan trọng để người



nghèo tăng cường đầu tư cho sản xuất, trang trải chi phí học hành cho con cái... Nhờ

đó, nâng cao thu nhập và có cơ hội thoát nghèo bền vững. Ngân hàng thế giới (1995)

đã khuyến cáo rằng cải thiện thị trường tín dụng là một chính sách quan trọng để giảm

nghèo đói ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, tín dụng ở nông thôn Việt Nam vẫn

rất kém phát triển. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tín dụng và giảm nghèo ở một số

quốc gia Châu Phi, các tác giả Nader (2007), Khandker (2005), Morduch và Haley



16



(2002) đã khẳng định vai trò quan trọng của việc cấp tín dụng với những điều kiện

ưu đãi cho người nghèo, đó là phương tiện để giúp họ thoát nghèo.

-



Fukui và Llanto (2003) cho rằng vai trò của hoạt động tín dụng cho người



nghèo thể hiện qua sự đóng góp của nó vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm tác

động của sự bất ổn kinh tế và tăng tính tự chủ cho các hộ nghèo. Madajewicz (1999),

Copestake và Blalotra (2000) nhận thấy việc cho người nghèo vay vốn sẽ giúp họ tự

làm việc cho chính mình, và có vốn để thực hiện những hoạt động kinh doanh nhỏ,

đó chính là cơ hội để họ thoát nghèo. Một số nghiên cứu khác ở Việt Nam như Phạm

Vũ Lửa Hạ (2003), Nguyễn Trọng Hoài (2005) cũng khẳng định rằng tín dụng và tiếp

cận tín dụng là điều kiện quan trọng quyết định đến khả năng nâng cao mức sống và

thoát khỏi đói nghèo của các hộ nghèo. Tín dụng vi mô cũng được nhiều nghiên cứu

khẳng định có vai trò tích cực trong việc giảm nghèo, đặc biệt ở nông thôn.

-



Jhonson và Rogaly (1997), Gulli và Hege (1998), Aghion và Morduch (2005)



khẳng định rằng TCVM giúp giảm nghèo, đặc biệt là những người nghèo nhất và dễ

tổn thương nhất thông qua việc cung cấp tín dụng dễ dàng kết hợp với những hướng

dẫn về cách thức sử dụng vốn vay có hiệu quả căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng

hộ gia đình. Nhờ đó giúp người nghèo tăng cường được vị thế của mình trong xã hội,

phát triển các hoạt động SXKD nhỏ, kể cả sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập và

giảm khả năng dễ tổn thương. Nhìn chung, tín dụng cho người nghèo được ủng hộ

bởi các chuyên gia kinh tế vì nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong dài hạn ở các

vùng khó khăn.

-



Tín dụng được các nhà kinh tế công nhận là có vai trò trong phát triển nông



nghiệp. Tín dụng có mối quan hệ mật thiết với phát triển, đặc biệt là phát triển nông

nghiệp và giảm tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn. Tín dụng trong nông nghiệp hay tín dụng

nông thôn là nguồn vốn quan trọng cho sản xuất nông nghiệp. Đinh Phi Hổ (2008)

cho rằng vốn trong khu vực nông nghiệp được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau:

 Nguồn vốn tích lũy là nguồn vốn từ bản thân khu vực nông nghiệp, đây

là nguồn vốn tự có, do nông dân tiết kiệm được và sử dụng đầu tư vào tái mở rộng

sản xuất.



17



 Nguồn vốn đầu tư của ngân sách là nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp

từ nguồn Ngân Sách Nhà nước. Nguồn vốn này được dùng vào việc xây dựng vùng

kinh tế mới, thủy lợi, trung tâm nghiên cứu kỹ thuật nông nghiệp.

 Nguồn vốn từ tín dụng nông thôn là vốn vay từ các hệ thống ngân hàng,

các định chế tài chính thuộc khu vực chính thức, bán chính thức và phi chính thức

nhằm đầu tư cho sản xuất nông nghiệp của nông hộ, trang trại và các doanh nghiệp

nông nghiệp.

 Nguồn vốn nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn

đầu tư gián tiếp nước ngoài.

-



Tín dụng từ khu vực chính thức là cần thiết cho sản xuất nông nghiệp của hộ



nghèo ở nông thôn, điều này được tìm thấy trong nghiên cứu Barslund và Tap (2008)

về thị trường tín dụng nông thôn của Việt Nam được khảo sát ở bốn tỉnh thành (Long

An, Quảng Nam, Hà Tây và Phú Thọ). Bên cạnh đó tín dụng vi mô còn có những tác

động tích cực đến việc nâng cao mức sống của hộ gia đình, giảm bất bình đẳng thu

nhập giữa thành thị và nông thôn. Không chỉ dừng lại ở đó, tín dụng cho khu vực

nông thôn làm gia tăng phúc lợi hộ gia đình, các nguồn tín dụng đến từ khu vực chính

thức, phi chính thức hay bán chính thức mà hộ gia đình tiếp cận, ngoài việc dùng cho

sản xuất trong nông nghiệp, hộ có xu hướng sử dụng một phần vốn vay này để chi

tiêu cho dịch vụ y tế (Barslund và Tap, 2008).

2.1.5. Vai trò của ngân hàng trong tín dụng khu vực nông thôn

Tín dụng cho khu vực nông thôn được cung cấp bởi các định chế tài chính

thuộc khu vực chính thức - hệ thống ngân hàng – đóng vai trò quan trọng trong việc

tài trợ nguồn vốn cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Thông qua chức năng huy

động và tài trợ vốn, các tổ chức tài chính thuộc hệ thống ngân hàng ở nông thôn cung

cấp các khoản vay tín dụng với mức lãi suất ưu đãi cho các hộ gia đình ở nông thôn.

Chính các khoản vay này trở thành nguồn vốn bổ sung thiết yếu để các hộ này có

thêm điều kiện tiếp cận với thị trường các yếu tố đầu vào trong sản xuất như thuê

thêm nhân công, nguyên vật liệu, máy móc,….nhằm mở rộng quy mô và phát triển

sản xuất nông nghiệp. Có thể thấy, tín dụng ngân hàng dành cho khu vực nông thôn



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

×