1. Trang chủ >
  2. Giáo Dục - Đào Tạo >
  3. Cao đẳng - Đại học >

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 65 trang )


4



đôi vú ngực phát triển, có tử cung đơn hoặc hai sừng. Nhau của Linh trưởng

thuộc loại nhau tán, không rụng ở nhóm Leiur và rụng ở các loài khác. Thời

gian mang thai dài, thường đẻ một con. Con non đẻ ra yếu, thời gian bú sữa dài.

1.1.2. Phân loại thú Linh trưởng ở Việt Nam

Đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về khu hệ thú Linh trưởng ở Việt

Nam và đưa ra nhiều quan điểm phân loại thú Linh trưởng khác nhau, các quan

điểm này thay đổi theo thời gian và rất khác nhau giữa các tác giả (Bảng 1.1).

Chẳng hạn, Phạm Nhật (2002) cho rằng thú Linh trưởng Việt Nam bao gồm 25

loài và phân loài thuộc 3 họ; Roos (2004) cho rằng thú Linh trưởng Việt Nam

bao gồm 24 loài và phân loài thuộc 3 họ. Trong khi đó Groves (2004) chỉ ra

rằng Việt Nam có 24 loài và phân loài. Tuy có sự khác nhau về số lượng loài,

nhìn chung các tác giả đều thống nhất rằng khu hệ thú Linh trưởng ở Việt Nam

có 3 họ chính: Họ Cu li (Loridae), họ Khỉ (Cercopithecidae) và họ Vượn

(Hylobatidae).

Bảng 1.1. Phân loại thú Linh trƣởng ở Việt Nam theo thời gian

Năm



Họ



Số loài và phân loài



Nguồn thông tin



2001



3



24



Groves (2001)



2002



3



25



Phạm Nhật (2002)



2004



3



24



Roos (2004)



2004



3



24



Groves (2004)



Trong đề tài này, việc sử dụng hệ thống phân loại thú Linh trưởng sẽ

theo hệ thống phân loại của Groves (2004) vì đây là hệ thống phân loại phản

ánh đầy đủ phân loại học của thú Linh trưởng Việt Nam và được các nhà khoa

học đang sử dụng rộng rãi.



5



Bảng 1.2. Phân loại khu hệ thú Linh trƣởng Việt Nam theo Groves (2004)

TT



Tên loài

Phổ thông



Khoa học



1



Cu li lớn



Nycticebus coucang (Boddaert, 1785)



2



Cu li nhỏ



Nycticebus pygmaeus Bonhote, 1907



3



Khỉ cộc



Macaca arctoides (Geoffroy, 1831)



4



Khỉ mốc



5



Khỉ đuôi lợn



Macaca nemestrina (Linnaeus, 1766)



6



Khỉ vàng



Macaca mulatta



7



Khỉ đuôi dài



Macaca fascicularis



8



Voọc xám



9



Voọc bạc



Trachypithecus obscurus



10



Voọc géc manh



Trachypithecus germaini



11



Voọc đen má trắng



12



Voọc đầu trắng



13



Voọc gáy trắng



Trachypithecus hatinhensis



14



Voọc đen tuyền



Trachypithecus ebenus



15



Voọc mông trắng



16



Chà vá chân nâu



Pygathrix nemaeus



17



Chà vá chân đen



Pygathrix nigripes



18



Chà vá chân xám



Pygathrix cinerea



Macaca assamensis (M’Clelland,

1839)



Trachypithecus phayrei

crepusculus (Elliot, 1909)



Trachypithecus francoisi

francoisi (Pousargues, 1898)

Trachypithecus francoisi

poliocephalus (Trouessart, 1911)



Trachypithecus francoisi

delacouri (Osgood, 1932)



6



Tên loài



TT



Phổ thông



Khoa học

Rhinopithecus avunculus Dollman,



19



Voọc mũi hếch



20



Vượn đen tuyền



21



Vượn đen Hải Nam



Nomascus nasutus



22



Vượn đen má trắng



Nomascus leucogenys



23



Vượn siki



Nomascus siki



24



Vượn má hung



Nomascus gabriellae



1912

Hylobates concolor concolor (Harlan,

1826)



(Nguồn: Grove, 2004)

1.1.3. Phân bố Linh trưởng Việt Nam

Ở Việt Nam, thú Linh trưởng phân bố hầu khắp các tỉnh có rừng trong

cả nước, một số loài có vùng phân bố rộng như: Cu li nhỏ, Khỉ cộc, Khỉ đuôi

lợn, Khỉ vàng... Trong khi đó, một số loài có phân bố rất hẹp như Voọc Hà

Tĩnh, Voọc Cúc Phương, Voọc Cát Bà và Voọc mũi hếch...

Phân bố thú Linh trưởng theo Sách Đỏ Việt Nam năm 2007 được tổng

hợp trong bảng sau:

Bảng 1.3. Phân bố thú Linh trƣởng theo sách đỏ Việt Nam năm 2007

TT



Tên loài



1



Cu li lớn



Phân bố

Cao Bằng (Ba Bể), Thái Nguyên (Chợ Đồn, Đình Cả, Chợ Rả),

Lạng Sơn, Hòa Bình, Quảng Trị (Lao Bảo) Thừa Thiên Huế

Có nhiều nơi: Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La, Hòa



2



Cu li nhỏ



Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Quảng Trị, Gia Lai, Kontum , Đắc

Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Phú Yên.



3



Khỉ đuôi dài



Loài này phân bố từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào các tỉnh

phía Nam



7



TT



Phân bố



Tên loài



Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Bắc Thái, Sơn La,

4



Khỉ đuôi lợn



Hòa Bình, Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thên Huế, Gia Lai, Kontum , Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây

Ninh.

Hà Giang (Quảng Bạ), Cao Bằng (Trùng Khánh, Quảng Hòa),

Lai Châu (Mường Tè, Tuần Giáo, Sình Hồ), Yên Bái (Văn

Chấn), Sơn La (Sông Mã, Mai Sơn, Quỳnh Nhai, Mộc châu),



5



Khỉ mặt đỏ



Hòa Bình (Đà Bắc, Kim Bôi, Mai Châu), Thanh Hóa (Hồi

Xuân, Như Xuân), Hà Tĩnh (Hương Khuê, Hương Sơn), Quảng

Bình (Tuyên Hóa), Thừa Thiên Huế (đảo Hải Vân, Huế),

Kontum (Sa Thầy), Gia Lai (Kon Hà Nừng), Đắc Lắc (Easúp,

Krông Nô, Đắc Min).



6



Khỉ mốc



7



Khỉ vàng



8



9



Chà vá chân

nâu

Chà vá chân



Bắc Thái, Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Hà Tây, Quảng Ninh, Ninh

Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.

khỉ vàng phân bố khắp các tỉnh có rừng từ Gia Lai trở ra Bắc kể

cả các đảo gần bờ.

Từ Thanh Hóa (19030 độ vĩ bắc) dọc dãy Trường Sơn tới Gia

Lai, Kontum , Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Sông Bé, Tây

Ninh.

Phía Tây tỉnh Quảng Nam và Tỉnh Kon Tum



xám

Kontum (Sa Thầy), Đắc Lắc (Nam Ca), Lâm Đồng (Di Linh),



10



Chà vá chân



thành phố Hồ Chí Minh, Vườn quốc gia Núi Chúa, Ninh Thuận



đen



và mới phát hiện một quần thể khá lớn ở núi Chứa Chan thuộc

tỉnh Đồng Nai



11

12



Vượn đen má

trắng

Vượn đen



Tuyên Quang (Nà Hang, Chiêm Hóa), Cao Bằng, Lạng Sơn,

Quảng Ninh.

Mường La (Sơn La), Mù Căng Chải, Văn Bàn (Yên Bái)



8



TT



Phân bố



Tên loài

tuyền



13



Vượn đen Hải



Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn



Nam

Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình



14



Vượn má hung



15



Vượn siki



Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế



16



Voọc bạc



Tây Nguyên, Đông Nam Bộ



17



Voọc Hà Tĩnh



18



19



Voọc mông

trắng

Voọc mũi hếch



Thuận, Đồng Nai, Bình Phước



Hà Tĩnh, Quảng Bình (Tuyên Hóa, Lệ Thủy, Bố Trạch).

Yên Bái (Văn Chấn), Hòa Bình (Chi Nê), Ninh Bình (Cúc

Phương, Vân Long), Nghệ An (Quỳ Châu, Con Cuông), Hà

Tĩnh (Hương Sơn).

Tuyên Quang (Chiêm Hóa, Nà Hang), Yên Bái (Trấn Yên).

Yên Bái (Trấn Yên, Nghĩa Lộ), Lai Châu, Hà Tây, Hòa Bình



20



Voọc xám



Vĩnh Phú, (Thanh Sơn), Ninh Bình (Hoàng Long), Thanh Hóa

(Lang Chánh, Hồi Xuân), Nghệ An (Quế Phong, Quỳ Châu, Kỳ

Sơn, Tương Dương, Anh Sơn).



21

22



Voọc đầu trắng Hải Phòng (đảo Cát Bà).

Voọc bạc géc



Kon Tum, Gia Lai vào đến Tây Ninh và Đồng Nai, phía Nam



manh



đồng bằng sông Cửu Long ở Kiên Giang và trên đảo Phú Quốc



23



Voọc gáy trắng Hà Tĩnh, Quảng Bình



24



Voọc đen tuyền Mường La (Sơn La), Mù Căng Chải, Văn Bàn (Yên Bái)



(Nguồn sách Đỏ Việt Nam 2007[1])

Vùng phân bố của các loài thú Linh trưởng Việt Nam đại đa số đang

ngày càng thu hẹp chẳng hạn như Voọc mũi hếch trước kia từng phân bố ở Ba

Bể - Bắc Kạn nhưng đến năm 2007 ở đây không còn sự phân bố của chúng.

Đối với Voọc má trắng trước kia phân bố ở hầu hết các tỉnh vùng Đông Bắc



9



Việt Nam, tuy nhiên cho đến nay quần thể loài này chỉ giới hạn ở một số tỉnh

như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên với số lượng quần thể

nhỏ và bị chia cắt (Nadler và cs, 2003).

1.1.4. Tình trạng các loài Linh trưởng Việt Nam

Việt Nam có thể nói là trung tâm đa dạng thú Linh trưởng của thế giới

song hầu hết các loài ở đây đều đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, thể

hiện bằng số lượng các loài có mặt trong Sách đỏ các năm.

Bảng 1.4. Tình trạng các loài Linh trƣởng Việt Nam

STT



Phân theo cấp



Sách đỏ năm

LR



Cấp V



CR



Cấp VU Cấp EN



1



1992



9



5



2



2000



9



7



3



2007



3



4



6



7



Qua bảng 1.4 ta thấy tình trạng của các loài thú Linh trưởng Việt Nam

dường như có xu hướng tăng về bậc xếp hạng trong Sách Đỏ Việt Nam. Cụ

thể, năm 1992 có 14 loài, đến năm 2007 tăng lên đến 20 loài. Một số loài ở

cấp đe doạ ngày càng tăng như Voọc Hà Tĩnh (Trachypithecus hatinhensis),

từ cấp V năm 1992 lên cấp EN năm 2000, Voọc mông trắng (Trachypithecus

delacouri) Chà vá chân đen từ cấp V năm 1992, 2000 lên cấp EN năm 2007,

Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus) từ cấp EN năm 1992, 2000 lên cấp

CR năm 2007, Voọc đầu trắng (Trachypithecus francoisi poliocephalus) từ

cấp EN năm 1992, 2000 lên cấp CR năm 2007

1.1.5. Các mối đe dọa đối với khu hệ thú Linh trưởng

Mất nơi sống và săn bắt là hai mối đe dọa chính đối với khu hệ thú

Linh trưởng ở Việt Nam hiện nay (Phạm Nhật, 2002; Nadler và cộng sự,

2003; Đồng Thanh Hải 2009; Boonratana và Lê Xuân Cảnh, 2006). Khác với



10



các nhóm động vật khác, thú Linh trưởng sống chủ yếu ở rừng tự nhiên, chỉ

một số loài vãng lai đi kiếm ăn trên các nương rẫy hoặc ven khe suối gần

rừng. Vì vậy, mất rừng tự nhiên là mất hết tất cả các điều kiện sống cơ bản

của chúng. Theo Viện điều tra quy hoạch rừng (FIPI), thì diện tích rừng tự

nhiên của Việt Nam năm 1943 có 14.3 triệu ha, so với năm 1990 chỉ có 8,43

triệu ha. Đến năm 2000 diện tích rừng tự nhiên có tăng lên 9.444 triệu ha,

nhưng phần lớn là rừng phục hồi. Những diện tích rừng này chỉ có thể giúp

các loài Cu li, Khỉ mở rộng vùng sống, nhưng các loài Voọc, Vượn vẫn chưa

có cơ hội có thêm sinh cảnh vì diện tích rừng giàu, rừng trung bình và rừng

núi đá, nơi sống chính của các loài Linh trưởng không tăng lên.

Mất nơi sống, các quần thể Linh trưởng giảm khả năng tăng trưởng và

phát triển. Mặt khác, mất rừng buộc các quần thể thú Linh trưởng phải co cụm

lại và chính điều này tạo thuận lợi cho các thợ săn tiêu diệt chúng một cách dễ

dàng và nhanh chóng hơn.

Săn bắt bừa bãi là mối đe dọa quan trọng thứ hai. Săn bắt thú Linh

Trưởng có từ khi loài người xuất hiện và càng ngày càng phát triển. Cùng với

sự phát triển khoa học kỹ thuật và trí thông minh của con người là sự phát triển

các hình thức và kỹ thuật săn bắt thú Linh trưởng. Các loài Khỉ, Voọc, Vượn

đều là những loài có kích thước và trọng lượng cơ thể lớn, cung cấp một lượng

thực phẩm đáng kể, là nguồn nguyên liệu, dược liệu có giá trị nên chúng là đối

tượng săn bắn hấp dẫn của nhiều người. Thợ săn ở các địa phương đã dùng đủ

mọi phương tiện thô sơ như nỏ, bẫy cần giật, bẫy lồng sập, bẫy kẹp, súng kíp

đến các phương tiện hiện đại như súng săn hai nòng bắn đạn ghép, súng liên

thanh quân dụng để săn bắt các loài thú Linh Trưởng. Các thợ săn không chỉ đi

đơn mà còn tổ chức thành nhóm lớn, dùng cả chó xua đuổi dồn thú Linh trưởng

lại để bắn. Một số địa phương còn dùng lửa đốt xung quanh rừng có Voọc mũi

hếch và đánh trống chiêng inh ỏi suốt ngày đêm làm cả đàn thú không ngủ



11



được, sau cùng phần vì đói, phần vì sợ hãi, chúng lần lượt bị rơi xuống đất và

bị trói đem về làm thịt (Đào Văn Tiến, 1983).

Nhiều thợ săn ở Cát Bà còn dùng bẫy lồng để săn bắt Khỉ. Từ những bẫy

lồng chỉ bắt được một vài con, họ đã cải tiến thiết kế các bẫy lồng lớn hơn để

bẫy bắt cả đàn. Cũng theo Phạm Nhật (2002), năm 1985 ở địa bàn 3 xã của

huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), có ít nhất 35 cá thể Chà vá và cá thể 70 Khỉ cộc

bị bắn chết. Hai tháng cuối năm 1991 và 3 tháng đầu năm 1992, ít nhất có 16 cá

thể Voọc mũi hếch bị bắn chết ở Na Hang. Trong những năm 1980 - 1991,

vùng Phong Nha Kẻ Bàng đã rất phát triển nghề "khỉ ép". Sau khi Khỉ, Voọc bị

bắn, thợ săn mổ bỏ nội quan, sấy và ép con vật và mang về bán cho lái buôn.

Thời kỳ đó hàng năm ít nhất không dưới 10 tấn thú Linh trưởng khô (tương

đương với khoảng 1.500 con Khỉ ,Voọc) bị khai thác. Từ năm 1991 đến nay

hoạt động săn bắt thú Linh trưởng ở vùng Phong Nha Kẻ Bàng tuy cường độ

giảm vì súng quân dụng đã bị Ban Chỉ huy quân sự tỉnh thu hồi (1991) nhưng

vẫn còn tiếp tục và hàng năm không dưới 1 tấn Khỉ ép được khai thác.

Những năm gần đây thú Linh trưởng là nguồn hàng có giá trị thương

mại cao. Chính vì vậy, các loại mẫu nhồi, da lông, cao Linh trưởng được buôn

bán, thúc đẩy hoạt động săn bắn thú Linh trưởng gia tăng.

Tóm lại, rừng bị mất và săn bắn bừa bãi là những minh chứng về sự yếu

kém trong công tác quản lý rừng nói chung và tài nguyên thú Linh trưởng nói

riêng. Những yếu kém này vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan.

Lý do phổ biến và bao trùm trước hết có lẽ do sự chi phối bởi đời sống kinh tế

khó khăn của cộng đồng, đồng bào dân tộc trên mọi miền của đất nước sau

nhiều năm chiến tranh khốc liệt và phương thức canh tác lạc hậu. Việt Nam là

một nước nông nghiệp, cuộc sống của phần lớn dân cư, đặc biệt là các cộng

đồng miền núi hiện còn phụ thuộc rất nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ở

các vùng sâu, vùng xa, 90% dân địa phương sống dựa vào nông nghiệp và khai



12



thác lâm sản (kể cả thú Linh trưởng) và có khoảng 50% hộ gia đình thuộc diện

nghèo đói.

Lý do quan trọng thứ hai, công tác pháp chế, bảo tồn trong quản lý tài

nguyên rừng còn yếu, một phần do trình độ dân trí chưa cao, nhận thức về giá

trị bảo tồn tài nguyên rừng cũng như hiểu biết của cộng đồng về pháp luật còn

hạn chế. Nhưng phần lớn là do hạn chế về ý thức và trách nhiệm của những cán

bộ công tác trong lĩnh vực quản lý và bảo tồn tài nguyên rừng và các cấp ngành

liên quan.

1.2. Nghiên cứu đa dạng sinh học và khu hệ thú Linh trƣởng ở Khu

BTTN Bắc Mê, Hà Giang

Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Mê được thành lập theo Quyết định số

143/QĐ-UB ngày 22/04/1994 của UBND tỉnh Hà Giang; Ban quản lý rừng

Đặc dụng Căng Bắc Mê tại Quyết định số 648/QĐ-UB ngày 24/11/ 1994 của

UBND tỉnh Hà Giang. Ban quản lý rừng Đặc dụng Căng Bắc Mê là đơn vị sự

nghiệp công lập trực thuộc UBND tỉnh, cơ quan quản lý chuyên ngành là Sở

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trực tiếp là Chi cục Kiểm lâm tỉnh Hà

Giang. Theo quyết định thành lập thì tổng diện tích 27.800 ha. Trong đó chia

ra các phân khu chức năng: Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 9.450 ha; Phân khu

phục hồi sinh thái 17.125 ha; Phân khu dịch vụ hành chính 1.225 ha, nằm trên

5 xã Lạc Nông; Minh Ngọc; Yên Cường; Phiêng Luông và Thượng Tân.

Kết quả rà soát, quy hoạch 3 loại rừng theo theo Chỉ thị 38/2005/CTTTg ngày 15/12/ 2005 của Thủ tướng Chính phủ, về việc rà soát quy hoạch 3

loại rừng (Được UBND tỉnh Hà Giang phê duyệt tại Quyết định 2104/QĐUBND ngày 01/08/2008). Tổng diện tích KBT thiên nhiên Bắc Mê có 9.042,5

ha. Trong đó chia ra các phân khu chức năng: Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt

8.298,9 ha; Phân khu phục hồi sinh thái 743,6 ha; không có phân khu dịch vụ

hành chính. KBT thiên nhiên Bắc Mê nằm trên diện tích của 3 xã Thượng

Tân, Minh Ngọc và Lạc Nông, nằm ở vùng lõm của cánh cung Sông Gâm, địa



13



hình chia cắt mạnh có đỉnh Thải Giàng Phìn cao nhất 1.465 m; thấp nhất là hồ

Thuỷ điện Na Hang có độ cao trung bình 120 m.

KBT thiên nhiên Bắc Mê được đặc trưng bởi hệ sinh thái rừng kín

thường xanh núi cao (đá vôi) vùng Đông - Bắc Việt Nam và có giá trị bảo tồn

đa dạng sinh học cao, đã được Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật điều tra

đánh giá tháng 2/2009. Theo kết quả điều tra này, có tổng số 44 loài thú,

thuộc 18 họ và 7 bộ đã được ghi nhận. Trong đó, Khu hệ thú Linh trưởng

được xác định với 6 loài bao gồm: Cu li lớn (Nycticebus bengalensis), Cu li

nhỏ (Nycticebus pygmaeus), Khỉ mặt đỏ (Macaca arctoides), Khỉ vàng

(Macaca mulatta), Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus), Voọc đen má

trắng (Trachypithecus francoisi). Đây đều là các loài Linh trưởng quý hiếm ở

Việt Nam, trong đó có loài Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus) là loài

đặc biệt quý hiếm và là loài đặc hữu hẹp của khu vực Đông Bắc.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu về khu hệ thú Linh trưởng chưa

nhiều, các thông tin công bố mang tính bước đầu. Đặc biệt, các công trình đã

công bố chủ yếu xác định danh sách các loài chứ chưa đề cập đến phân bố,

tình trạng của các loài thú Linh trưởng trong khu vực. Do đó, cần có những

công trình điều tra một cách tỉ mỉ, quy mô hơn nhằm xác định rõ hiện trạng,

phân bố cũng như những yếu tố đe dọa đến khu hệ thú Linh trưởng tại đây.

Đây sẽ là những cơ sở khoa học quan trọng cho các nhà quản lý, các nhà bảo

tồn định hướng xây dựng các kế hoạch bảo tồn phù hợp nhằm bảo tồn đa dạng

sinh học cũng như các loài Linh trưởng cực kỳ quý hiếm có mặt tại Khu

BTTN Bắc Mê, tỉnh Hà Giang.



14



Chƣơng 2

MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI,

NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

2.1.1. Mục tiêu chung

Góp phần bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học nói chung, tài nguyên thú

Linh trưởng nói riêng tại Khu BTTN Bắc Mê, Hà Giang.

2.1.2. Mục tiêu cụ thể

- Xác định được thành phần, hiện trạng và phân bố của các loài linh

trưởng tại Khu bảo tồn.

- Đề xuất được một số giải pháp quản lý và bảo tồn lâu dài khu hệ thú

linh trưởng tại Khu bảo tồn.

2.2. Đối tƣợng, phạm vi và thời gian nghiên cứu

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loài thú Linh trưởng (Primates)

tại Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Mê, Hà Giang.

2.2.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tại Khu bảo tồn thiên nhiênBắc mê, Hà Giang.

2.2.3. Thời gian nghiên cứu

Đề tài được tiến hành từ ngày 15 tháng 3 đến 15 tháng 9 năm 2014.

2.3. Nội dung

(1) Nghiên cứu thành phần loài thú Linh trưởng tại Khu bảo tồn

(2) Nghiên cứu tình trạng và đặc điểm phân bố của thú Linh trưởng

(3) Đánh giá giá trị của thú Linh trưởng tại khu vực nghiên cứu

(4) Đánh giá các mối đe dọa đến khu hệ thú Linh trưởng và sinh cảnh

của chúng tại khu vực nghiên cứu



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

×