1. Trang chủ >
  2. Giáo Dục - Đào Tạo >
  3. Cao đẳng - Đại học >

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.6 MB, 65 trang )


31



Về mặt phân loại học, 7 loài và phân loài Linh trưởng được xác định tại

Khu BTTN Bắc Mê, Hà Giang thuộc 4 giống, 2 họ; chiếm 29,2% tổng số loài;

66,7% tổng số giống và 66,7% số họ Linh trưởng ở Việt Nam. Kết quả này đã

bổ sung thêm loài Khỉ mốc (Macaca assamensis) cho danh lục thú Linh

trưởng của khu bảo tồn.

Trong số các loài Linh trưởng ghi nhận được, Họ khỉ có nhiều loài nhất

(5 loài, chiếm 71,4% tổng số loài), tiếp đến là Họ Cu li (2 loài, chiếm 28,6%

tổng số loài).

Các thông tin phỏng vấn, các dấu vết để lại của Linh trưởng trên các

tuyến nghiên cứu về các loài này là dấu vết trước thời kỳ động dục, như ngồi

trên nhũ đá thâm đen lại ( người dân thường gọi Huyết Lình). Dấu vết như bẻ

cành lá hoa quả và chồi non cây rừng một nửa, có vết răng bỏ lại, vỏ quả hạt

vương vãi dơi trên đường đi của Linh trưởng.

Để đánh giá tính đa dạng khu hệ thú Linh trưởng của Khu BTTN Bắc

Mê, chúng tôi so sánh kết quả thu được với một số khu vực khác.

Bảng 4.2. So sánh tài nguyên thú Linh trƣởng Khu BTTN Bắc Mê với

một số khu vực khác

VQG/KBTTN



Diện tích

(ha)



Số họ



Số loài



Khu BTTN Na Hang



27.520



3



8



Khu BTTN Du Già



24.293



3



8



Khu BTTN Phong Quang



8.355,6



3



8



Khu BTTN Bắc Mê



9.042,5



2



7



Kết quả trên cho thấy, mặc dù có diện tích khá nhỏ, song tính da dạng

khu hệ thú Linh trưởng của Khu BTTN Bắc Mê là khá cao.



32



4.2. Tình trạng quần thể các loài thú Linh trƣởng tại Khu BTTN Bắc Mê

Kết quả điều tra thực địa, phỏng vấn khẳng định rằng số lượng các loài

thú Linh trưởng tại khu vực đã giảm nhiều so với trước đây. Có 3 loài chắc

chắn do được ghi nhận qua quan sát gồm Cu li nhỏ, Khỉ vàng, Vọoc đen má

trắng; các loài còn lại chủ yếu được ghi nhận thông qua tài liệu đã công bố,

phỏng vấn và mẫu vật.

* Cu li nhỏ (Nycticebus pygmaeus)

Cu li nhỏ là loài Linh trưởng hoạt động ban đêm, khó quan sát. Tuy

nhiên, so với các loài Linh trưởng khác thì loài này còn phổ biến hơn. Tại khu

vực nghiên cứu, chúng tôi đã bắt gặp loài Cu li nhỏ tại khu vực ven bờ sông

Gâm thuộc tiểu khu 162B (Tọa độ địa lý 474032/2509155, hệ tọa độ VN

2000). Hầu hết số người được phỏng vấn đều khẳng định sự có mặt của loài

này trong khu bảo tồn. Một số thợ săn gần đây vẫn gặp Cu li nhỏ khi đi soi

thú vào ban đêm.

* Cu li lớn (Nycticebus bengalensis)

Cu li lớn cũng là loài Linh trưởng có tập tính hoạt động vào ban đêm

giống như Cu li nhỏ nhưng kích thước lớn hơn. Tại khu vực nghiên cứu,

chúng tôi không quan sát được loài này mà chỉ ghi nhận thông qua phỏng vấn.

Các thợ săn có kinh nghiệm trong khu vực cũng khẳng định sự có mặt của

loài này trong khu vực với phân bố tương tự như loài Cu li nhỏ. Kết quả

phỏng vấn cũng khẳng định rằng Cu li lớn có số lượng ít hơn và hiếm gặp hơn

so với loài Cu li nhỏ.

* Khỉ mặt đỏ (Macaca arctoides)

Khỉ mặt đỏ là loài có kích thước khá lớn với đặc điểm dễ phân biệt với

các loài khác.

Kết quả phỏng vấn cho thấy loài này vẫn có mặt trong khu bảo tồn

nhưng số lượng rất ít và hiếm gặp. Loài này ít khi xuất hiện tại những khu vực



33



bị tác động, chủ yếu tại những khu vực rừng còn tốt. Năm 2006, thợ săn

Giàng A Nay đã nhìn thấy Khỉ mặt đỏ; Tháng 8/2013, Thợ săn Nguyễn Văn

Ngà đã bắt gặp Khỉ mặt đỏ tại tiểu khu 142. Theo thời gian, số lượng loài Khỉ

mặt đỏ đã giảm đi đáng kể bởi các hoạt động săn bắn và các hoạt động khác

của con người trong khu bảo tồn.

* Khỉ vàng (Macaca mulatta)

Kết quả điều tra thực địa và phỏng vấn người dân đã khẳng định chắc

chắn sự có mặt của loài Khỉ vàng tại Khu BTTN Bắc Mê. Trong quá trình

điều tra, chúng tôi đã 2 lần gặp Khỉ vàng: lần thứ nhất tại khu vực rừng gỗ tự

nhiên lá rộng thường xanh trên núi đá thuộc khu vực tiểu khu 142, gần Bản

Khén (Tọa độ địa lý 473336/2516271) với số lượng 12 cá thể; lần thứ 2 tại

khu vực có tọa độ địa lý 473856/2515645. Người dân và thợ săn được phỏng

vấn cũng khẳng định đã nhiều lần gặp Khỉ vàng khi đi rừng. Cũng theo lời thợ

săn Nguyễn Văn Ngà cho biết đã gặp loài này tại khu vực tiểu khu 142 vào

tháng 8/2013. Từ tháng 5 đến tháng 6/2014, hai thợ săn Dương Văn Khoan và

Lã Văn Cấp đã nhìn thấy Khỉ vàng ở Khu vực Thác đổ…

Nhìn chung, loài Khỉ vàng chắc chắn có phân bố trong khu bảo tồn

nhưng số lượng hạn chế.

* Khỉ mốc (Macaca assamensis)

Khỉ mốc là loài thú chúng tôi bổ sung thêm cho danh lục thú Linh

trưởng của Khu BTTN Mắc Mê. Trong quá trinh điều tra, chúng tôi đã quan

sát thấy loài này tại tiểu khu 162. Nhiều thợ săn trong khu vực cũng cho biết

loài này vẫn xuất hiện trong khu bảo tồn nhưng rất hiếm. Loài này thường chỉ

xuất hiện những khu vực rừng còn tốt, nhiều cây gỗ lớn, địa hình hiểm trở. Để

khẳng định chắc chắn tình trạng của loài Khỉ mốc tại khu vực thì cần có

những chương trình điều tra tiếp theo một cách tỷ mỷ và quy mô.



34



* Voọc đen má trắng (Trachypithecus francoisi)

Voọc đen má trắng là loài Linh trưởng quý hiếm, dễ nhận biết do có

nhiều đặc điểm khác biệt với các loài Linh trưởng khác tại khu vực.

Chúng tôi đã quan sát và nghe được tiếng kêu của loài này 2 lần trong

quá trình điều tra thực địa tại khu vực tiểu khu 142, thuộc Bản Khén với số

lượng 2 cá thể (Tọa độ địa lý 472183/2514528). Thợ săn Lã Văn Cấp cũng

khẳng định đã bắt gặp loài này vào tháng 6/2014 cũng tại khu vực này. Trước

đó tháng 5/2014 thợ săn Dương Văn Khoan cũng đã gặp loài này tại khu vực

gần Thác Đổ. Mặc dù loài Voọc đen má trắng ghi nhận được tại khu vực

nhưng kích thước quần thể rất nhỏ, nguy cơ tuyệt chủng cục bộ cao.

* Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus)

Khu BTTN Bắc Mê có một phần tiếp giáp với Khu BTTN Khau Ca –

khu vực có quần thể Voọc mũi hếch phân bố. Cũng với các đặc điểm tương

đồng về mặt địa hình và thảm thực vật nên việc loài Voọc mũi hếch phân bố

tại đây cũng hoàn toàn phù hợp. Kết quả điều tra năm 2009 của Viện Sinh thái

và tài nguyên sinh vật cũng đã ghi nhận loài này tại đây. Tuy nhiên, trong đợt

điều tra này chúng tôi không ghi nhận trực tiếp loài Voọc mũi hếch ngoài thực

địa mà chỉ căn cứ và kết quả phỏng vấn người dân. Những người được phỏng

vấn đều khẳng định sự có mặt của loài này tại khu vực nhưng rất ít gặp.

Như vậy có thể khẳng định loài Voọc mũi hếch vẫn có mặt tại Khu

BTTN Bắc Mê nhưng số lượng rất ít, có thể chỉ vài cá thể. Để khẳng định

chắc chắn hơn về sự có mặt cũng như tình trạng của loài này tại Khu BTTN

Bắc Mê thì nhất thiết phải có những công trình điều tra tiếp theo.

4.3. Đặc điểm phân bố của các loài Linh trƣởng tại Khu BTTN Bắc Mê

4.3.1. Các dạng sinh cảnh chính tại khu vực

Căn cứ vào bản đồ hiện trạng rừng của khu vực và kết quả điều tra thực

địa chúng tôi xác định Khu BTTN Bắc Mê gồm 5 sinh cảnh chính: Rừng



35



nguyên sinh trên núi đá vôi; rừng thứ sinh trên núi đá vôi; rừng nguyên sinh

trên núi đất; rừng thứ sinh trên núi đất; rừng phục hồi sau nương rẫy.

* Rừng nguyên sinh trên núi đá vôi

Sinh cảnh này chiếm phần lớn diện tích của khu bảo tồn. Địa hình dốc,

hiểm trở, nhiều vách đá, độ cao bình quân từ 700 – 1000m so với mực nước biển.

Trạng thái rừng gồm nhiều cây gỗ lớn, hầu như chưa bị tác động bởi

con người. Dạng sinh cảnh này được đặc trưng bởi một số loài thực vật chỉ thị

như Trai lý (Garnicia fagraeoides), Giổi (Tsoongiodenron sp), Nghiến

(Burretiondendron hsienmu)…



Hình 4.1. Trạng thái rừng nguyên sinh trên núi đá vôi

* Rừng thứ sinh trên núi đá vôi

Dạng sinh cảnh này có diện tích không đáng kể, chủ yếu tập trung ở

một số khu vực vùng đệm của khu bảo tồn. Đây là kiểu rừng đã chịu tác động

của con người trước đây, nay được phục hồi lại. Do đó, dạng sinh cảnh này

được đặc trưng bởi các loài cây gỗ nhỏ đến nhỡ, độ tàn che và trữ lượng thấp.

Rừng thường có 2 tầng tán chính: tầng trên có chiều cao từ 12-14m với

các loài phổ biến như: Giổi xanh, Nghiến, Kháo xanh… tầng dưới chủ yếu là

các loài: Chòi mòi, Nhò vàng,…



36



Hình 4.2. Trạng thái rừng thứ sinh trên núi đá vôi

* Rừng nguyên sinh trên núi đất

Kiểu rừng này chiếm diện tích nhỏ trong khu bảo tồn. Địa hình đơn

giản hơn rừng trên núi đá vôi, độ dốc không đáng kể, độ cao trung bình từ 500

– 700m so với mực nước biển. Thảm thực vật còn khá nguyên vẹn, nhiều cây

gỗ lớn, độ tàn che cao.

Kiểu rừng này đặc trưng bởi một số loài thực vật như Dẻ, Kháo, Giổi…



Hình 4.3. Trạng thái rừng nguyên sinh trên núi đất



37



* Rừng thứ sinh trên núi đất

Đây cũng là dạng sinh cảnh đã chịu tác động của con người trong quá

khứ, nay phục hồi lại với các loài cây ưa sáng. Đặc trưng của kiểu rừng này là

độ tàn che thấp, thành phần thực vật chủ yếu là các loài cây ưa sáng đang trong

giai đoạn phục hồi, trữ lượng thấp, ít giá trị. Dạng sinh cảnh này thường nằm

liền kề với khu dân cư, đặc biệt là tiếp giáp với các nương rẫy của người dân.

* Rừng phục hồi sau nƣơng rẫy

Sinh cảnh này thường gặp gần nơi dân cư sinh sống, được hình thành

do phá rừng làm nương rẫy, độ tàn che thấp. Do vậy, mức độ tác động của

người dân tới dạng sinh cảnh này rất lớn.

Thực vật đặc trưng là các loài cây ưa sáng, sinh trưởng nhanh, ít giá trị

như Sau sau, Trâm, Ngát…

4.3.2. Đặc điểm phân bố của các loài thú Linh trưởng theo sinh cảnh

Kết quả điều tra thực địa và kết quả phỏng vấn người dân cho thấy các

loài thú Linh trưởng phân bố chủ yếu ở 3 trạng thái rừng: Rừng nguyên sinh

trên núi đá vôi; rừng thứ sinh trên núi đá vôi và rừng nguyên sinh trên núi đất.

Bảng 4.3. Phân bố của các loài thú Linh trƣởng theo sinh cảnh

Các dạng sinh cảnh

STT

1

2

3

4

5

6

7



Tên loài

Cu li nhỏ

Cu li lớn

Khỉ vàng

Khỉ cộc

Khỉ mốc

Vọoc đen má trắng

Voọc mũi hếch



Tổng



Rừng nguyên

sinh trên núi

đá vôi



Rừng thứ

sinh trên

núi đá vôi



Rừng

nguyên sinh

trên núi đất



Rừng thứ Rừng phục

sinh trên

hồi sau

núi đất

nương rẫy



+

+

+

+

+

+

+

7



+

+

+

+

+



+

+

+

+

+



+

+



5



5



2



0



Kết quả cho thấy cả 7 loài thú Linh trưởng tại khu vực đều phân bố tại

sinh cảnh rừng nguyên sinh trên núi đá vôi. Đây là dạng sinh cảnh đặc trưng



38



với hầu hết các loài Linh trưởng, đặc biệt là các loài nhạy cảm với sự tác động

của con người và môi trường như Vọoc đen má trắng, Voọc mũi hếch.

Dạng sinh cảnh rừng thứ sinh trên núi đá vôi và rừng nguyên sinh trên

núi đất đều có 5 loài Linh trưởng phân bố. Đây là những loài ít nhạy cảm hơn

với tác động của con người so với hai loài nói trên.

Rừng thứ sinh trên núi đất có 4 loài phân bố là Cu li lớn, Cu li nhỏ, Khỉ

vàng và Khỉ cộc. Đây là những loài đã được người dân và thợ săn bắt gặp ở

các dạng sinh cảnh này.

Dạng sinh cảnh rừng phục hồi sau nương rẫy không có loài nào phân

bố. Người dân và thợ săn được phỏng vấn đều cho biết chưa bắt gặp loài Linh

trưởng nào tại dạng sinh cảnh này.



Hình 4.4. Vị trí bắt gặp các loài thú Linh trƣởng ngoài thực địa



39



Với những tác động của con người vào rừng như hiện nay, sinh cảnh

sống của các loài Linh trưởng dần bị thu hẹp lại khiến các loài Linh trưởng tại

khu vực chuyển dần vùng phân bố vào những khu vực ít bị tác động như rừng

nguyên sinh trên núi đá vôi, rừng thứ sinh trên núi đá vôi hay rừng nguyên

sinh trên núi đất.

4.4. Giá trị của các loài thú Linh trƣởng tại khu vực nghiên cứu

Các loài thú Linh trưởng nói chung và các loài thú Linh trưởng tại Khu

BTTN Bắc Mê nói riêng đều có những giá trị to lớn, được thể hiện trên 2 khía

cạnh chính: giá trị sinh thái; giá trị khoa học, bảo tồn.

4.4.1. Giá trị sinh thái

Cũng như các sinh vật khác trong hệ sinh thái rừng, các loài thú Linh

trưởng có những giá trị sinh thái đặc biệt, được thể hiện trên nhiều khía cạnh.

Các loài thú Linh trưởng là những sinh vật nhạy cảm với những tác động

của con người và môi trường, đồng thời có môi trường sống đặc trưng; do vậy

chúng là những sinh vật chỉ thị tốt cho sự biến đổi của môi trường sống. Khi sự

vắng mặt của một hay nhiều loài thú Linh trưởng tại một khu vực nào đó đồng

nghĩa với việc môi trường sống tại khu vực đó đã bị suy giảm về chất lượng.

Căn cứ vào đó, các nhà quản lý sẽ có những giải pháp để cải thiện môi trường

sống cũng như nâng cao chất lượng của các hệ sinh thái rừng.

4.4.2. Giá trị khoa học, bảo tồn

Các loài thú Linh trưởng là những sinh vật được ưu tiên hàng đầu được

các nhà nghiên cứu khoa học quan tâm. Hàng năm có rất nhiều các chương

trình của các cơ quan trong nước và các tổ chức quốc tế được thực hiện nhằm

nghiên cứu về các loài Linh trưởng. Mục đích của các đợt nghiên cứu này

khác nhau, nhưng phần lớn nhằm đưa ra các giải pháp, chiến lược bảo tồn

nhóm loài đặc biệt quý hiếm này.

Để đánh giá giá trị bảo tồn loài này một cách cụ thể, chi tiết, chúng tôi

căn cứ vào ba nguồn tài liệu cơ bản: Sách Đỏ Việt Nam (2007); Danh lục Đỏ

IUCN (2014) và Nghị Định 32/2006/NĐ-CP.



40



Bảng 4.4. Tình trạng bảo tồn các loài thú Linh trƣởng tại

Khu BTTN Bắc Mê, Hà Giang

Giá trị bảo tồn



TT



Tên phổ thông



loài



Tên khoa học



IUCN



SĐVN







2014



2007



32



Họ Culi



1. Loridae Gray, 1821



1



Cu li lớn



Nycticebus bengalensis



EN



VU



IB



2



Cu li nhỏ



Nycticebus pygmaeus



EN



VU



IB



Họ Khỉ



2. Cercopithecidae Gray, 1821



3



Khỉ mặt đỏ



Macaca arctoides



VU



VU



IIB



4



Khỉ vàng



Macaca mulatta



5



Khỉ mốc



Macaca assamensis



NT



VU



IIB



6



Voọc đen má trắng



Trachypithecus francoisi



EN



EN



IB



7



Voọc mũi hếch



Rhinopithecus avunculus



CR



CR



IB



IIB



Ghi chú:

Sách đỏ Việt Nam(2007): CR - Rất nguy cấp; EN - Nguy cấp; VU - Sắp nguy cấp: NT –

Sắp bị đe dọa; LR -Ít lo ngại.

Sách đỏ IUCN(2010): EX -Tuyệt chủng; EW - Tuyệt chủng ngoài tự nhiên; CR - Cực kỳ

nguy cấp; EN - Nguy cấp;VU - Sắp nguy cấp; LC - Ít lo ngại.

Nghị định 32/2006:IB – Thuộc phụ lục IB; IIB – Thuộc phụ lục IIB



Hầu hết các loài Linh trưởng ghi nhận được tại khu vực đều là các loài

quý hiếm, có giá trị bảo tồn cao. Cụ thể, trong số 7 loài Linh trưởng đã xác

định, có 6 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và Danh lục Đỏ IUCN từ cấp

VU trở lên (chiếm 85,7 tổng số loài), trong đó có 01 loài ở cấp sắp bị đe dọa

(NT), 01 loài ở cấp sẽ nguy cấp (VU), 03 loài ở cấp nguy cấp (EN) và 01 loài

ở cấp cực kỳ nguy cấp (CR).



41



Về mặt pháp lý, cả 7 loài Linh trưởng tại khu vực đều được pháp luật

Việt Nam bảo vệ ở các mức độ khác nhau. Trong đó, 04 loài Linh trưởng

thuộc phụ lục IB của Nghị định 32/2006 (nghiêm cấm hoàn toàn việc săn bắt,

buôn bán vì mục đích thương mại) là Cu li lớn, Cu li nhỏ, Voọc đen má trắng

và Voọc mũi hếch. Ba loài còn lại thuộc phụ lục IIB của Nghị định 32/2006

(hạn chế việc săn bắt, buôn bán vì mục đích thương mại) gồm Khỉ mặt đỏ,

Khỉ vàng, Khỉ mốc.

Nhìn chung, cả 7 loài Linh trưởng được ghi nhận tại Khu BTTN Bắc

Mê, Hà Giang đều là những loài thú Linh trưởng cần được ưu tiên bảo tồn,

đặc biệt là các loài có số lượng cá thể ít, kích thước quần thể nhỏ. Nếu không

có những chiến lược và giải pháp hữu ích trong việc bảo tồn các loài này thì

trong một tương lai không xa, sự vắng mặt vĩnh viễn của các loài này tại khu

vực là không thể tránh khỏi.

4.5. Các mối đe dọa đến khu hệ thú Linh trƣởng tại khu vực nghiên cứu

4.5.1. Các mối đe dọa chính

Các loài thú Linh trưởng đang phải đối mặt với nhiều mối đe dọa,

nhưng có sự khác nhau giữa các khu vực. Tại Khu BTTN Bắc Mê, qua quá

trình điều tra thực tế kết hợp với việc phỏng vấn cán bộ quản lý khu bảo tồn

và cán bộ quản lý địa phương, chúng tôi đã xác định được 5 mối đe dọa chính

đến khu hệ Linh trưởng: Săn bắt động vật trái phép, khai thác gỗ trái phép,

phá rừng làm nương rẫy, thu hái lâm sản ngoài gỗ, chăn thả gia súc.

* Săn bắn động vật trái phép

Săn bắt là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại của các loài

Linh trưởng trong khu vực. Hoạt động này được thực hiện chủ yếu bởi nam

giới, những người sống phụ thuộc vào rừng hoặc vì mục đích thương mại. Đối

tượng săn bắt chủ yếu là các loài thuộc Bộ Gà, các loài thú nhỏ như Lợn rừng,

Cầy, Sóc....Các loài Linh trưởng mặc dù không phải là đối tượng chính của



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

×