Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 165 trang )
giải về những vấn đề đã phản ánh theo tính chất, mức độ, ý nghĩa. Kết quả của việc thống kê số liệu
góp phần tăng thêm tính chính xác và thuyết phục cho luận văn.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh lịch đại và đồng
đại để tiến hành so sánh ba tác phẩm với nhau, và ba tác phẩm này với các tác phẩm khác trước
hoặc sau nó hoặc cùng thời với nó. Để từ đó thấy được những đóng góp của ba tác phẩm này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phương pháp trên đây không phải được sử dụng
một cách độc lập mà trong quá trình thực hiện công trình người viết đã sử dụng phối hợp các
phương pháp để có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam – quá trình hình thành và phát triển:
1.1.1.Khái niệm truyền kì:
Khái niệm truyền kì có thể hiểu bằng nhiều cách. Đó là: có khi được giải thích theo tính chất
câu chuyện, khi thì dựa vào đặc điểm thể loại ở một thời kỳ nhất định, khi lại dựa vào lịch sử hoàn
thành của truyện truyền kì, khi lại coi truyền kì là loại văn xuôi tự sự nhưng đã để mất yếu tố kì lạ,
tất cả những điều này đều được đề cập đến trong một số giáo trình, tài liệu. Điển hình như trong “Từ
điển tiếng Việt” có viết về truyền kì: “có tính chất những truyện kì lạ lưu truyền lại” (1087). Trong
“Từ điển văn học” giải thích: “Truyền kì là một thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc
thịnh hành ở đời Đường” (447); hoặc “truyện ngắn đời Đường”; hoặc ký khúc đời Minh Thanh,
hoặc truyện thần kì”. (141).
1.1.2.Khái niệm truyện truyền kì trung đại Việt Nam:
-
Truyện truyền kì trung đại Việt Nam ảnh hưởng nhiều từ truyện truyền kì Trung Quốc đời
Đường. Và theo các nhà nghiên cứu đây cũng là thời kỳ đánh dấu sự chín muồi của thể loại tự sự.
Theo đó, hai chữ truyền kì bao hàm mấy nghĩa sau: Một là: có ý chuộng lạ; hai là: đặc điểm của
truyền kì là chứa đựng nhiểu thể, có thể nhận thấy tài viết sử, tài làm thơ, tài nghị luận trong tác
phẩm truyền kì.
-
Truyện truyền kì trung đại Việt Nam ngay từ khi ra đời cho đến khi phát triển đến đỉnh điểm,
đã trải qua một quá trình dài học tập để có thể tự hoàn thiện mình. Từ những tác phẩm đầu tiên còn
âm hưởng của văn học dân gian, cho đến lúc thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của nó, thể loại
này đã làm nên những thành công nhất định.
1.1.3.Mối quan hệ giữa truyện truyền kì Việt Nam với truyện truyền kì ở vùng văn hóa
Đông Á:
Chúng ta không thể phủ nhận một điều rằng: truyện truyền kì Việt Nam vốn có nguồn gốc từ
truyện truyền kì Trung Quốc và có mối quan hệ với các nước khu vực chữ Hán. Tuy vậy, truyện
truyền kì Việt Nam cũng có một quá trình hình thành và phát triển nội sinh gắn với nền văn hóa dân
gian và văn xuôi lịch sử. Đồng thời trong suốt quá trình hoàn thiện mình, thể loại này vẫn tiếp tục
chịu ảnh hưởng giao lưu với các nước trong khu vực, với Trung Quốc và các nước vùng văn hóa
Đông Á. Dưới đây người viết xin đi vào trình bày sơ lược về đặc điểm của thể loại truyền kì ở các
nước lân cận. Trên cơ sở đó để thấy được mối quan hệ giữa truyện truyền kì Việt Nam với truyện
truyền kì các nước trong khu vực văn hóa Đông Á.
1.1.3.1.Truyện truyền kì ở Trung Quốc:
-
Theo các nhà nghiên cứu, truyền kì là thể loại văn xuôi nghệ thuật xuất hiện khá sớm trong
văn học cổ điển Trung Quốc. Và theo quan điểm hiện nay, truyện truyền kì được xem là hình thức
đầu tiên của truyện ngắn. Hiện nay có ba quan điểm khác nhau tranh luận về nguồn gốc của thể loại
truyền kì ở Trung Quốc:
+ Loại quan điểm thứ nhất: Một số học giả cho rằng nguồn gốc của truyền kì là các sự tích lịch
sử và truyện ngắn thế kỉ VIII – IX trong văn học Trung Quốc. Như vậy quan điểm này đã dựa vào
tính chất văn - sử - triết bất phân thời trung đại.
+ Loại quan điểm thứ hai: Loại quan điểm này cho rằng nguồn gốc của truyện truyền kì là xuất
phát từ truyện kể đời Đường.
+Loại quan điểm thứ ba: Những nhà nghiên cứu theo quan điểm thứ ba đã khẳng định: nguồn
gốc truyền kì có từ văn xuôi Trung Quốc cổ đại thế kỉ III – VI.
- Đa số các nhà nghiên cứu đồng tình với ý kiến thứ hai. Đó là ở Trung Quốc, truyện truyền kì
đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, mà cụ thể là hình thành ở đầu đời Đường.
Có thể thấy truyện truyền kì đời Đường phát triển qua ba giai đoạn:
+ Thời sơ Đường (618 – 741): Đây là giai đoạn hình thành truyện truyền kì. Nội dung khá đa
dạng: có tác phẩm viết về đề tài tình yêu ma quái, quái dị; có truyện viết về thần tiên, có truyện viết
về động vật được nhân cách hóa. Về bút pháp truyện truyền kì thời này thiên về ghi chép, ít sáng
tạo.
+ Thời trung Đường (742 – 820): Có thể thấy đây là thời kì phát triển rực rỡ của truyền kì. Nội
dung truyện truyền kì thời kỳ này thì có nhiều biến chuyển lớn. Đó là chủ đề về chốn quan trường,
về khát vọng tình yêu và về lịch sử. Loại truyện này chủ yếu phản ánh tính hoang dâm vô độ của
tầng lớp thống trị. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện sự bất mãn của các tác giả đối với đường lối
chính sách đương thời.
+ Thời vãn Đường: (821 – 907): Ở thời kỳ này, thể loại truyền kì đã đi vào chặng suy thoái.
Ngoài ra, cũng cần nói đến truyện truyền kì các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh: Đời Tống Nguyên truyện truyền kì tiếp tục rơi vào tình trạng suy thoái dần. Sang đến đời Minh, thể loại truyền
kì hưng thịnh trở lại. Nổi tiếng có tập Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Tiễn đăng dư thoại của Lý
Xương Kỳ….Về hình thức những tác phẩm trên đều bao gồm những truyện ngắn, tương tự như
truyền kì đời Đường. Nó được xem là những tác phẩm mở lối cho sự ra đời của những kiệt tác đời
sau đó.
- Đặc điểm của truyện truyền kì Trung Quốc: căn cứ vào quá trình phát triển của truyện truyền
kì, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra một số đặc trưng của thể loại này:
+ Truyện truyền kì Trung Quốc ở thời Tống đã cho thấy yếu tố ma quỷ thần quái là đặc điểm cơ
bản của truyền kì.
+ Đi sâu khắc họa hình tượng nhân vật ở cả hai phương diện nội dung và hình thức là đặc trưng
cơ bản cho thể loại truyền kì khi nói về nghệ thuật của nó.
1.1.3.2.Truyện truyền kì Triều Tiên:
Như chúng ta đã biết Triều Tiên thời trung cổ thuộc khối đồng văn. Đây cũng là đất nước có sự
tương đồng về văn hóa với Việt Nam và các nước khu vực Viễn Đông.
- Thời gian và hình thức ra đời của truyện truyền kì Triều Tiên: theo một số nhà nghiên cứu thì
từ thế kỷ XV, trong đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội Triều Tiên có những biến đổi đáng kể do sự
cải cách của triều đại phong kiến đương thời. Và văn học Triều Tiên thế kỷ XV cũng đánh dấu bước
chuyển đáng chú ý.
- Hình thức ra đời: Ngay từ khi ra đời văn xuôi tự sự Triều Tiên chia làm hai dạng rõ rệt. Một
dựa trên truyện tiếu lâm trong văn học dân gian, một dựa vào nguồn thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết. Nguồn thứ hai này tạo nên thể loại truyền kì. Nói đến thể loại này, các nhà nghiên cứu nhắc
ngay đến Kim Ngao tân thoại của Kim Si Seup (Kim Thời Tập), tác phẩm truyền kì xuất hiện khá
sớm vào thế kỷ XV và chịu ảnh hưởng sâu sắc Tiễn đăng tân thoại.
1.1.3.3.Truyện truyền kì Nhật Bản:
- Ở Nhật Bản, từ cuối thế kỷ XII đã xuất hiện thể loại truyền kể được kể bởi những nghệ sĩ lãng
tử dưới hình thức trường ca sử thi. Từ đầu thế kỷ XIV và đến thế kỷ XVI văn học Nhật Bản đã thực
sự tồn tại một loại văn xuôi nghệ thuật khác rất xa với dòng chảy tư tưởng chung của thời đại này.
Đó là truyện ngắn, trong đó một số có nguồn gốc phônclo với những cốt truyện cổ tích, một số khác
lấy các cốt truyện từ văn học cổ điển Nhật Bản, từ những Phật thoại và cuối cùng là từ văn học
Trung Quốc. Tới thế kỷ XVI nhiều truyện trong số đó – khoảng gần ba trăm truyện – được ghi chép
và được xuất bản bằng các văn bản khắc ván. Đó là hình thức ban đầu của truyện ngắn Nhật Bản.
- Con đường hình thành truyện truyền kì Nhật Bản theo ba bước. Điểm này không giống với
Việt Nam và Triều Tiên. Nó mang đặc thù của văn học xứ sở hoa anh đào. Tức cuồi thế kỷ XVI,
truyền kì Cù Hựu đã được biết đến ở Nhật Bản. Trước hết các tác giả người Nhật làm quen với Cù
Hựu trong nguyên bản chữ Hán, kế tiếp là dịch những truyện tiêu biểu rồi phóng tác theo Cù Hựu và
cuối cùng là ứng dụng, sáng tạo ra truyện truyền kì người Nhật. Kết cấu truyện chủ yếu vẫn theo lối
tuyến tính nhưng được triển khai trong sự đa dạng của chủ đề, đề tài, nhân vật. Đặc biệt là truyện
thường ngắn gọn, có ý nghĩa vừa là giai thoại vừa là ngụ ngôn. Đỉnh cao của truyện truyền kì Nhật
Bản là Vũ nguyệt vật ngữ của Ueda Akinari (thế kỉ XVIII).
1.1.4.Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyện truyền kì Việt Nam:
Có thể thấy rằng truyện truyền kì Việt Nam phát triển từ những ảnh hưởng thụ động đến
việc tiếp thu một cách có ý thức văn học dân gian.
1.1.4.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng thụ động từ văn học dân gian
( từ cuối thế kỷ XIV trở về trước):
Trên cơ sở những tư liệu mà chúng ta có được, có thể nói, truyện truyền kì Việt Nam đã bắt đầu
manh nha từ thế kỷ XIII, với tác phẩm Ứng Minh trì dị sự của Vũ Cao, được ghi lại trong Đại Việt
sử lược. Tác phẩm này tuy tình tiết, cốt truyện đơn giản, sơ lược nhưng bố cục chặt chẽ. Điều đáng
chú ý nữa là màu sắc dân gian thuần phác được thể hiện khá rõ nét. Và văn học dân gian đã tác động
đến suốt quá trình hình thành, phát triển của thể loại truyền kì cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
- Về cốt truyện: một số cốt truyện trong các tác phẩm của thể loại truyền kì chủ yếu lấy từ những
câu chuyện lưu truyền trong dân gian, từ truyện cổ tích cho đến thần thoại, truyền thuyết về các vị
thần. Không những vậy, các nhà văn luôn trung thành trong sự việc sử dụng những cốt truyện này
mà chưa có sự đổi mới, sáng tạo.
- Về nhân vật: các nhân vật của truyện truyền kì đều có nguyên mẫu từ văn học dân gian. Những
hình tượng gần gũi và quen thuộc nhất của các nhà văn trong thời kỳ đầu chính là từ các truyện thần
thoại, truyền thuyết, cổ tích, thần kì,….Điều này được thể hiện rõ trong Việt điện u linh tập, Lĩnh
Nam chích quái.
- Về giọng điệu: chủ yếu là cách kể, giọng điệu của tác giả dân gian trong văn học dân gian.
1.1.4.2.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam tiếp thu một cách có ý thức văn học dân gian (
từ thế kỷ XV trở về sau):
Từ việc ảnh hưởng một cách thụ động văn học dân gian, các tác giả truyền kì đã dần dần từng
bước một không chỉ đưa những “đứa con” tinh thần của mình thoát ra khỏi những ảnh hưởng máy
móc ấy, mà còn có ý thức sáng tạo chúng.
* Nội dung phản ánh:
-
Tiếp xúc trực tiếp với những tác phẩm truyền kì giai đoạn sau, chúng tôi thấy một số tác
phẩm đã đạt đến một trình độ nhất định. Nếu ở giai đoạn trước, các tác phẩm truyền kì lấy các vị
thần, nhà sư làm đối tượng phản ánh chủ yếu thì ở giai đoạn sau, các tác phẩm lại chủ yếu đề cập
đến con người đời thường, đặc biệt là những con người dưới đáy xã hội. Con người có đủ sức mạnh
và trí tuệ để làm chủ hoàn cảnh, cuộc sống. Không chỉ vậy, thể loại truyền kì giai đoạn này còn đề
cập đến những nội dung rất thực tế. Nó gắn liền với hiện thực cuộc sống đương thời. Không phải chỉ
là chuyện của ma quái, thần linh mà đó còn là câu chuyện về một mối tình, một thoáng nhớ người
yêu, một khát khao hạnh phúc ở đời và hơn hết còn là mong ước được gắn bó với mảnh đất quê
hương, với xứ sở thân thương nhất. Tất cả những điều ấy rất thực tế, xuất phát từ chính cuộc sống
hằng ngày. Điều này cho thấy sự cách tân trong tư duy nghệ thuật của các nhà văn.
*Phương thức phản ánh: để phù hợp với những nội dung ấy, các tác giả truyền kì cũng làm
mới nghệ thuật cho đứa con tinh thần của mình.
-
Cốt truyện: mượn cốt truyện từ văn học dân gian nhưng được viết với một tư tưởng và mục
đích khác hẳn. Những cốt truyện từ trong những tác phẩm của Lí Tế Xuyên và Trần Thế Pháp đã
được thay đổi khi đến tay Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ. Ở đây cốt truyện cũ chỉ là một biện pháp
để nhà văn vin vào đó thể hiện những điều mình muốn gửi gắm. Lúc này tất cả đã được khoác lên
mình những sáng tạo mới. Điều này thể hiện những bước tiến quan trọng của thể loại truyện truyền
kì Việt Nam thời trung đại cũng như những biến đổi rõ nét trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.
-
Nhân vật: Càng về sau, truyện truyền kì càng có những cách thể hiện mới, đặc biệt là nhân
vật người kể chuyện. Lúc này người kể chuyện đã mang tính cá thể, đồng thời còn có sự tham gia
của nhà văn như một nhân vật trong tác phẩm. Ở giai đoạn của Lý Tế Xuyên nhân vật còn là nguyên
mẫu trong văn học dân gian. Qua thời Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, kiểu nhân vật mới bắt đầu xuất
hiện. Nhà văn đồng nhất với nhân vật. Điểm này được thể nghiệm thành công ở tác giả của Thánh
Tông di thảo. Đó là sự xuất hiện của nhân vật thứ ba, hiện thân của nhà văn. Đó cũng chính là bước
tiến mới của thể loại, chấm dứt lối ảnh hưởng thụ động, một chiều từ văn học dân gian. Lúc này
nhân vật không đơn giản chỉ được miêu tả ở bên ngoài nữa mà đã được bước sâu vào lãnh địa bên
trong của tâm hồn, được khai thác đời sống nội tâm, khắc họa tính cách. Khi nói về đóng góp này,
các nhà nghiên cứu thường gắn nó với tên tuổi của Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ: “Chú trọng
đến việc phản ánh những xung đột bình thường trong đời sống gia đình, cũng như việc đi sâu khắc
họa nội tâm nhân vật đã xác định được vị trí người mở đường cho loại truyện ngắn thế sự trong lịch
sử văn học dân tộc của Nguyễn Dữ và khiến cho truyện của ông trở nên gần gũi với văn xuôi hiện
đại”. [131, tr. 754].
-
Ngôn ngữ: Ngôn ngữ đối thoại là chủ yếu. Khác hẳn với lối kể chuyện đơn tuyến của văn học
dân gian, các nhà văn truyền kì đã bắt đầu quan tâm đến lối kể chuyện đa tuyến và nó được thể hiện
dày hơn, nhiều hơn trong tác phẩm. Từ ngôn ngữ đối thoại sẽ kéo theo hệ quả là ngôn ngữ mang
tính cá thể. Mỗi nhân vật gắn liền với ngôn ngữ của riêng mình. Và chính điều này đã góp phần làm
nên những thành công rực rỡ cho thể loại truyền kì.
1.1.4.3. Mối quan hệ giữa truyện truyền kì trung đại Việt Nam với văn xuôi lịch sử:
*Từ tính chân thực của sử học đến những hình tượng văn học chân thực:
- Cũng như văn học dân gian, văn xuôi lịch sử cũng là một trong những nguồn gốc quan trọng
hình thành nên truyện truyền kì trung đại trong giai đoạn đầu phát triển. Trong con mắt của các nhà
nho thời trung đại thì văn học hư cấu như truyện truyền kì, chí quái là thể loại không được xem
trọng, thậm chí bị coi khinh. Vì vậy mà ở những thử nghiệm đầu tiên, thể loại này đã cố gắng đưa
những sự kiện sử học vào tác phẩm, thậm chí là càng gần sử càng tốt. Do đó, các nhà văn truyền kì
ở thời kì đầu đóng vai trò như một nhà sử học. Họ cố gắng tạo cho tác phẩm của mình tính chân
thực và nghiêm túc của sử học bằng cách trích dẫn hoặc lấy tư liệu cho tác phẩm của mình như một
sự bổ sung thiết yếu cho các tác phẩm sử học. Nhận vật trong những tác phẩm này là những nhân
vật có thật trong lịch sử, đây là phần kể chuyện người. Bên cạnh đó còn phần kể chuyện thần, được
các tác giả ghi chép thêm phần phong tặng của các triều đại.
- Tuy nhiên trong những tác phẩm sử học này đã chứa đựng những câu chuyện, hình ảnh, mô típ
giàu tính nghệ thuật đóng vai trò như những hình mẫu dễ bắt chước của các nhà viết truyện. Có thể
thấy các giá trị văn chương chứa đựng trong các tác phẩm sử học. Và đây cũng là một trong những
nguồn gốc và động lực thúc đẩy sự phát triển của truyện truyền kì trung đại.
*Sự phát triển của mối quan hệ giữa truyện truyền kì trung đại và văn xuôi lịch sử: Truyện
truyền kì dần thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn xuôi lịch sử.
- Có thể nói, càng về giai đoạn sau, trong các tập truyện truyền kì không còn các trích đoạn sử
liệu và cũng không còn những đoạn ghi chép về tước hiệu của các vị thần như trong tác phẩm của
các tác giả trước đó. Không chỉ vậy, thể loại truyền kì giai đoạn sau không còn mang chức năng
hành chính và chức năng tôn giáo như các tập truyện trước nữa
- Cùng với thời gian, truyện truyện kì đã tách ra khỏi mối quan hệ văn - sử - triết bất phân trong
thời trung đại, nhằm hướng đến khẳng định mình trong thế độc lập. Lúc này các nhân vật lịch sử đã
có thêm những yếu tố mới, những khía cạnh mới về nhân cách, về cuộc sống. Ngoài ra không khí
lịch sử trong tác phẩm cũng mang tư tưởng của tác giả. Đặc biệt là ở phần cuối tác phẩm, tác giả
hoặc một ai đó đã viết lời bình cho tác phẩm. Đây là một bước tiến quan trọng của thể loại, giúp thể
loại dần thoát khỏi những ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử.
- Giải phóng khỏi những ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử, các tác giả truyền kì đã đạt được
những thành công nhất định.
+ Một là: truyện truyền kì với những câu chuyện thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn
học dân gian, đã làm xuất hiện trong văn xuôi dân tộc những tác phẩm thuần túy văn học.
+ Hai là: giải phóng khỏi ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử chính là để tạo không gian cho nhà văn
sáng tạo cốt truyện và để tìm kiếm kết cấu mới cho tác phẩm của mình.
1.1.4.4. Mối quan hệ giữa hai yếu tố kì và thực trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam
*Sự thể hiện yếu tố thực trong thể loại truyền kì Việt Nam:
- Một khi yếu tố thực được gia tăng thì đồng thời với nó cái “kì” bắt đầu bộc lộ
cái thế yếu và có thể bị thất thế. Nhờ vào đó mà con người trần tục đã khẳng định được tài trí và
uy quyền của mình trước những thế lực siêu nhiên. Nếu các tác phẩm của giai đoạn trước sức mạnh
siêu phàm của thần linh luôn giúp đỡ con người trong việc chiến thắng kẻ thù, thì đến lúc này cái kì
lạ được diễn ra chính là nhờ vào kết quả những hành động bình thường của người trần tục.
- Một trong những nguyên nhân giúp thấy rõ yếu tố thực trong các tác phẩm truyền kì là các tác
giả đã lấy đề tài, cảm hứng từ những sự kiện có thật trong lịch sử, có thật trong thực tế đời sống. Và
khi đề cập đến sự thật lịch sử, các tác giả cũng đi sâu vào khai thác những mặt hạn chế của chế độ
phong kiến đương thời, cũng như những hình ảnh con người bình thường trong xã hội với những
khát vọng rất đỗi bình dị. Chính điểm này đã giúp cho thể loại truyền kì sản sinh ra những tác phẩm
mang hơi thở của cuộc sống.
*Sự thể hiện yếu tố “kì” trong thể loại truyền kì trung đại Việt Nam:
٭Khái niệm “kì”: “kì” ở đây có nghĩa là kì lạ, kì ảo. Yếu tố kì ảo được sử dụng rộng rãi trong
nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự trung đại. Và “yếu tố kì ảo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc
tổ chức cũng như tạo cho tác phẩm cái vẻ riêng, hấp dẫn, có một sức mê hoặc kì lạ” [14,tr. 449].
٭Yếu tố “kì” trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam phát triển từ thụ động đến ý thức:
- Có thể thấy trong thời kì đầu, cái “kì” trong truyện truyền kì thô phác, mộc mạc, mang tính tự
phát, gần gũi với yếu tố siêu nhiên, cái kì vĩ của thần thoại và cổ tích. Đây là giai đoạn của Việt điện
u linh, Lĩnh Nam chích quái. Ở đây người đọc dễ dàng nhận ra nguồn gốc và mối quan hệ của tác
phẩm với tín ngưỡng dân gian, với niềm tin trong dân chúng về chuyện linh hồn con người tiếp tục
tồn tại sau khi chết và có thể trở về giúp đỡ những người còn sống Cái thần kì trong giai đoạn này
có nhiều nguồn gốc: từ tôn giáo, tín ngưỡng, từ sử ký, truyền thuyết và truyện cổ tích thần
kì….Nhìn chung sự sáng tạo độc đáo ở giai đoạn này còn yếu.
- Từ việc học tập một cách thụ động văn học dân gian, các tác giả của truyện truyền kì đã có ý
thức trong việc sáng tác yếu tố thần kì trong truyện truyền kì. Giai đoạn sau truyện truyền kì với các
nhân vật thường có hành vi và cuộc đời bí hiểm, cùng với điều đó là nội dung nửa đời thường nửa kì
ảo. Tất cả đã tạo nên những điểm hấp dẫn mới ở truyện truyền kì. Và đây là một trong những điểm
làm nên cái tồn tại lâu dài cho chính thể loại này.
٭Vai trò của yếu tố “kì” trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam:
- Có thể nói trong thể loại truyền kì, yếu tố “kì” giữ một vai trò rất đặc biệt: “Truyền kì là truyện
truyền đi một sự lạ, vì vậy hạt nhân cơ bản của loại tiểu thuyết này là “kì” (……). Truyền kì không
từ chối miêu tả những câu chuyện lạ, những sự việc lạ bởi nếu không lạ thì không truyền”. [123, tr.
48].
- Cái kì trong thể loại truyền kì còn có những vai trò khác. Đó cũng là cách nhận định của Vũ
Thanh: “Trong truyện truyền kì các tác giả sử dụng yếu tố kì không chỉ với chức năng vỏ bọc che
giấu dụng ý sâu xa của nhà văn mà còn với tư cách một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng
của thể loại.” [ 15,tr.25]. Đồng thời cũng trong bài viết của mình, tác giả Vũ Thanh còn giải thích
sự xuất hiện của yếu tố kì trong truyện truyền kì theo hướng kiến giải riêng: “Truyền kì là một thể
loại văn xuôi độc đáo. Cái kì là một phạm trù của mỹ học Trung Hoa cổ, là đặc thù tư duy của một
giai đoạn lịch sử (…..). Cái kì lạ đầy rẫy trong huyền thoại, tôn giáo, trong sử kí và là một đặc điểm
của tư duy dân gian được phản ánh trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích. Do chưa giải
thích được nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội, đối với con người thời trung cổ. Bên cạnh đời sống
hiện thực còn có một đời sống tâm linh phong phú với các vị thần, với những điều kì lạ, siêu nhiên
và một quan niệm sâu xa về thế giới bên kia. Vì vậy việc phản ánh mặt kì lạ đó chẳng phải là cái gì
đó xa lạ, phi hiện thực; trái lại nó càng giúp ta hiểu rõ hơn chiều sâu tâm hồn của con người trung
cổ.” [15,tr. 25). Chính vì vậy cái “kì” có một vai trò rất quan trọng trong truyện truyền kì. Nó góp
phần tạo nên thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Như vậy có thể thấy rằng truyện truyền kì Việt Nam đã có mối quan hệ thân thiết với truyền kì
các nước trong khu vực. Tuy có sự ảnh hưởng ít nhiều từ những tác phẩm của các nước lân cận
song nhìn chung cũng mang những đặc trưng rất riêng của Việt Nam. Điều này được tạo nên bởi
nguồn văn học dân gian phong phú và tinh thần, lý tưởng của con người Việt. Chính vì vậy với kho
tàng truyện truyền kì mà văn học để lại, chúng ta có thể viết vào lịch sử văn học nước nhà những
tinh thần mới của dân tộc Việt Nam bên cạnh tinh thần chung của thời đại.
1.2. Bối cảnh thời đại của Đại Việt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII:
1.2.1.Bối cảnh Đại Việt thế kỷ XV:
1.2.1.1.Sự suy vong của nhà Trần, sự xâm lược của giặc Minh và cuộc kháng chiến chống
quân Minh:
- Đến cuối thế kỉ XIV, nhà nước phong kiến trải qua một cuộc khủng hoảng lớn. Hồ Quý
Li có những cải cách táo bạo nhưng thực chất vẫn duy trì đặc quyền của quý tộc quan liêu mà
không mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Vì vậy đến năm 1400, khi Hồ Quý Li cướp ngôi nhà
Trần thì việc ấy lại thiếu cơ sở xã hội vững chắc, do đó Hồ Quý Li vừa có kẻ thù nguy hiểm là các
tầng lớp quý tộc nhà Trần vừa không được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân. Nhân cơ hội ấy,
giặc Minh đã giả danh “diệt Hồ phục Trần” để đánh lừa nhân dân mà cướp nước ta, đặt ách đô hộ
lên dân tộc ta.
- Ách đô hộ của giặc Minh rất tàn khốc nếu xét về phương diện đời sống của nhân dân và rất
phản động nếu xét về phương diện sự phát triển của lịch sử, cụ thể là: thuế má, phu phen nặng nề,
đốt phá, cướp bóc liên tục xảy ra; nền kinh tế và đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, liên tiếp xảy ra
vỡ đê, lụt lội, mất mùa, đói kém; giặc Minh cố duy trì chế độ đại điền trang và phát triển chế độ
nông nô. Sự thống trị ấy đã gây nhiều cản trở cho sự phát triển của xã hội Đại Việt ở thế kỉ XV.
- Trước ách đô hộ tàn bạo của giặc Minh, nhân dân đã nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi, trong đó có
cuộc kháng chiến mười năm của Lê Lợi là cuộc chiến đấu gian khổ vào bậc nhất trong lịch sử giữ
nước của dân tộc. Lê Lợi phải vừa đánh giặc vừa xây dựng quân đội, xây dựng chính quyền, cuộc
kháng chiến tuy rất gian khổ nhưng cuối cùng cũng đi đến thắng lợi vì những người lãnh đạo đã biết
dựa vào lực lượng của toàn thể nhân dân. Cuộc kháng chiến do Lê Lợi lãnh đạo giải phóng ách
thống trị của giặc Minh, mở đường tiến lên cho lịch sử dân tộc, triều đại nhà Lê được hình thành từ
trong cuộc đấu tranh trên đà thắng lợi đã bắt tay vào việc phục hồi và xây dựng đất nước, quan tâm
giải quyết những vấn đề thuộc đời sống nhân dân.
1.2.1.2.Sự khôi phục và xây dựng đất nước sau thắng lợi:
-Hòa bình lập lại, Lê Thái Tổ xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền trên một cơ sở khác
hẳn với cơ sở thời Trần, sự nghiệp đó được Lê Thánh Tông kế tục và hoàn thành.
- Về khôi phục và phát triển kinh tế, nhà nước phong kiến đã biết sử dụng những điều kiện thuận
lợi của một đất nước vừa giành được độc lập để thúc đẩy việc phục hồi và phát triển kinh tế trong
nước. Đó là chú trọng đổi mới đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp
- Về xây dựng và củng cố chính quyền, nhà nước phong kiến đã thiết lập bộ máy phong kiến tập
quyền. Triều đình thời Lê Thánh Tông là một triều đình quân chủ tập trung cao độ. Hoàng đế toàn
quyền nắm bộ máy quan liêu được tổ chức có hệ thống từ trung ương đến cấp làng xã ở các địa
phương. Thời Lê Thánh Tông quan chế được đặt ra với sự phân chia ngôi thứ rõ rệt, với sự phân
công phụ trách tỉ mỉ, với sự quy định trách nhiệm liên đới và hỗ tương kiểm soát chặt chẽ….
- Về tình hình xã hội, cấu tạo giai cấp trong xã hội có ít nhiều thay đổi, hai giai cấp chính là
nông dân và địa chủ, cùng với thợ thủ công và thương nhân ngày càng đông. Còn nô tỳ ngày càng ít
đi. Cuộc sống của nhân dân nói chung ổn định và thanh bình.
+Về tình hình văn hóa: Giáo dục, khoa cử rất được coi trọng để tuyển chọn nhân tài phục vụ cho
công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước.
+Về tôn giáo, tín ngưỡng: thời này Nho giáo chiếm địa vị độc tôn. Mặc dù bị hạn chế và không
còn được coi trọng như trong đời Lý, Trần nhưng Phật giáo và Đạo giáo vẫn có những ảnh hưởng
nhất định trong xã hội, trong đời sống nhân dân.
+ Về văn học: văn học chữ Hán tiếp tục phát triển, chiếm ưu thế. Bên cạnh đó, văn học chữ Nôm
cũng đã giữ một vị trí quan trọng. Không chỉ vậy, đây là thời gian mà chữ Nôm được ưa chuộng để
nho sĩ, quan lại và cả nhà vua dùng sáng tác thơ văn thể hiện những tư tưởng, tình cảm của mình.
1.2.2.Bối cảnh Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII:
1.2.2.1.Sự suy sụp của nhà Lê và tình trạng chia cắt đất nước:
- Sự suy sụp của nhà Lê: Đầu thế kỉ XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất, xã hội Đại Việt mất
dần cảnh thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống cực khổ, các thế lực phong kiến tranh chấp lẫn
nhau, mở đầu cho một giai đoạn mới của chế độ phong kiến Việt Nam. Chiến tranh tiếp tục cho đến
năm 1552 mới tạm yên. Nhưng bấy giờ mọi quyền hành đã thuộc về tay Mạc Đăng Dung. Cuộc
khủng hoảng chính trị đã chứng tỏ sự suy nhược của dòng họ Lê và chính quyền của họ.
- Tình trạng chia cắt đất nước: Sau một thời gian dài nội chiến, năm 1672 hai họ Trịnh - Nguyễn
lấy sông Gianh làm giới hạn, chia cắt đất nước: Đàng Ngoài, Đàng Trong. Và tất nhiên tình hình
chính trị xã hội ở hai miền hoàn toàn khác nhau.
+ Chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài: Năm 1556, sau khi Lê Trung Tông chết, Lê Duy Bang
lên làm vua, song trên thực tế đã hình thành chế độ vua Lê – chúa Trịnh với quyền bính thực sự nằm
trong tay Trịnh Tùng.
+ Chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Cho đến giữa thế kỉ XVIII họ Nguyễn đã làm chủ
một vùng đất rộng lớn từ nam dải Hoành Sơn cho đến mũi Cà Mau. Năm 1614,
Nguyễn Phúc Nguyên thải hồi các quan lại do nhà Lê cử và cải tổ lại bộ máy chính quyền.
Nhìn chung từ Đàng Ngoài cho đến Đàng Trong đời sống nhân dân khốn khổ, kinh tế sa sút.
Đồng thời đây cũng là giai đoạn mà ở Đàng Trong thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển
mạnh.
1.2.1.2. Giai đoạn khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại Việt:
Vào đầu những năm 50 của thế kỷ XVIII, cuộc đấu tranh cùa nông dân tạm thời lắng xuống ở
vùng đồng bằng. Mặc dù chúa Trịnh đã tiến hành sửa đổi một số chính sách về ruộng đất cho dân
song mất mùa, đói kém vẫn xảy ra. Và vì vậy, các cuộc khởi nghĩa của nông dân lại tiếp tục. Bên
cạnh đó, nội bộ chính quyền Lê – Trịnh ngày càng mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa phe Đặng Thị
Huệ - Trịnh Cán và phe Trịnh Khải sau khi chúa Trịnh Sâm qua đời. Mâu thuẫn này dẫn đến xung
đột gay gắt làm cho tình hình chính trị - xã hội càng lúc càng thêm rối ren, đời sống dân chúng càng