Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 165 trang )
gặp bóng dáng nhà văn, hiểu được nỗi lòng, tâm sự của chính người tạo ra nó. Loại hình các nhân
vật này đã góp phần đưa chúng tôi đến nhận định: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì
kiến văn lục xứng đáng là những đại biểu ưu tú của thể loại truyền kì trong văn học trung đại. Với
những cách tân, đổi mới này truyện ngắn trung đại nước nhà ngày một tiến gần hơn đến văn chương
hiện đại.
2.3.2. Ý nghĩa của loại hình nhân vật – hiện thân của nhà văn - trong tác phẩm.
Như đã nói ở trên, loại hình nhân vật này là một trong những thành công bước đầu của thể loại
truyền kì nói riêng và thể loại truyện ngắn nói chung. Cho đến khi Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục và Lan Trì kiến văn lục trình diện trên thi đàn, người đọc mới nhận ra: văn học trung đại
cũng mang đậm màu sắc cá nhân. Tất nhiên với màu sắc ấy, các tác giả trung đại không thể làm
riêng thành phong cách cá nhân cho mình. Song ở một mức độ nhất định, đây là một trong những
đóng góp quan trọng của truyện truyền kì. Nhờ kiểu nhân vật này, nhà văn thông qua đó đã thể hiện
tư tưởng, tâm sự của riêng mình. Đồng thời điều này cũng giúp cho đứa con tinh thần của nhà văn
vượt qua được những tác phẩm tự sự cùng thời khác. Bởi lẽ những tác phẩm tự sự trước đó phần
nhiều chỉ đơn giản là chép lại các tích cũ. Dấu cá nhân vẫn còn mờ nhạt, thậm chí là thiếu vắng. Về
phương diện này, có thể khẳng định Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục là
những tác phẩm gần với truyện ngắn hiện đại nhất.
2.3.2.1. Đề cao vai trò cá nhân và ngôi vị chí tôn nhà vua Lê Thánh Tông:
Một trong những nội dung được đề cập đến nhiều nhất trong Thánh Tông di thảo là nhà vua tự
đề cao ngôi vị của chính mình. Có thể thấy với những đóng góp cho sự hưng thịnh của triều đại, của
đất nước, Lê Thánh Tông thật sự xứng đáng với việc tự khẳng định. Trước hết đó là niềm tự hào của
nhà vua về sự cai trị sáng suốt của mình đã đem lại những thành quả tốt đẹp. Trong Nhị nữ thần
truyện, tác giả đã viết: “Sau khi đại định, khách bộ hành sung sướng đi trên đường sá của ta, người
ta buôn bán vui mừng được bày hàng hóa ở chợ của ta”.[117,tr23, 24]. Đây không chỉ là niềm vui
của nhân dân về cuộc sống no đủ mà còn về một đất nước hòa bình tự chủ, không còn bóng giặc
ngoại xâm. Trên đất nước độc lập, con người cũng tự do du lãm những cảnh đẹp của non sông: “Ta
yêu gương nước phía tây thành tám cảnh thanh quang, tìm dấu thiêng của hồ tinh, ngắm đường bay
của sông Cầm. Đêm thanh trăng sáng, thường cởi thuyền nhỏ đi chơi”. [117,tr. 130]. Cuộc sống có
thanh bình, có ấm no, nhà vua mới có được tâm trạng vui vẻ, thoải mái để dạo chơi như vậy.
Xuất phát từ chính vai trò nhà vua, Lê Thánh Tông đã đề cao ngôi vị chí tôn của mình. Có thể
thấy quan điểm chính thống của Nho gia ấy trong Ngọc nữ về tay chân chủ: “Tài trí trong thiên hạ
đều là tài trí của một người (....) Bước lên núi cao tỏ lòng trung với trời, oai trùm biển rộng, nào ai
dám chống. Thiên tử trị bên ngoài, hoàng hậu trị bên trong; hải vật sơn hào, hưởng những vị quý
ngon trong thiên hạ, so với bọn một gáo nước đã khoe nhiều, một nắm đá đã khoe lơn, khác nhau
biết là chừng nào?” [117,tr. 87,88]. Ở đây con người đứng đầu đất nước hiện lên thật hiên ngang,
oai nghiêm. Và người đó không ai xa lạ chính là Hoàng đế Lê Thánh Tông.
Bên cạnh đó tác giả còn tuyệt đối hóa vai trò nhà vua với khả năng giải quyết mọi công việc của
đất nước. Khả năng ấy nói lên tài trị vị đất nước của Lê Thánh Tông: “Khi còn ở Đông cung, một
hôm đi xem phong tục thôn quê, thấy anh điếc anh mù cãi nhau tranh vị thứ trên dưới, từ khi mặt
trời mới mọc đến lúc đứng bóng mà chưa ai chịu ai cả. Ta sai người bắt cả hai anh lại hỏi rằng:
- Các ngươi đều là người tàn tật, còn đáng kể gì vị thứ cao với thấp. Sao cứ chê kém
khoe hơn, đã lâu không quyết định được như thế? Bây giờ mỗi người bày tỏ ý mình, ta sẽ phán xử
cho” [117,tr78]. Nhà vua đã tạo ra cơ hội để phô bày tài năng của mình. Khi cuộc cuộc tranh cãi
đang diễn ra đến cao trào thì Lê Thánh Tông đứng ra phán xử: “Ngạn ngữ có câu “Trăm nghe
không bằng một thấy:
Thư nói nhĩ mục, Dịch chép khảm ly
Thánh nhân đặt chữ, trước sau tinh vi
Giác quan giữ lửa, quan coi một ty
Liêm lại đời Hán, tai điếc hại gì.
Còn như chú mù, thành nghề nhưng vẫn là bậc dưới, chỉ là tiểu đạo, có chút khả quan, nhưng
người quân tử không làm” [117,tr.81]. Đấy không chỉ là lời phán xét, mà còn là lời giáo huấn. Khi
xem xét một sự vật, hiện tượng, con người không thể nhìn nhận ở bề ngoài mà phải đi sâu khám phá
bản chất bên trong. Tác giả nhắc lại kinh nghiệm mà cha ông ta đã để lại: “Trăm nghe không bằng
một thấy”. Những phán quyết, đánh giá, kết luận chỉ đúng đắn và có giá trị khi con người tận mắt
chứng kiến, nhìn thấy vấn đề, hiện tượng. Sẽ cực đoan, phiến diện nếu chỉ nghe kể lại mà không
nhìn thấy, không xem xét tận gốc rễ của nó. Bài học này cần thiết và có ý nghĩa đầu tiên với chính
bản thân tác giả. Bởi lẽ những quyết định của nhà vua sẽ liên quan đến sự sống còn của Tổ quốc. Do
vậy hơn ai hết, trước mọi việc người làm vua phải xem xét tận nơi chứ không nên và không thể tin
vào bọn cận thần. Quan niệm này cho thấy sự anh minh sáng suốt của người đứng đầu thần dân như
Lê Thánh Tông.
Không chỉ biết cách phán xét sự việc đúng đắn, nhà vua còn tự khẳng định khả năng trừ gian
diệt ác của chính bản thân. Điều này cũng cho thấy quan niệm của tác giả: Một vị vua anh minh có
khả năng nhìn thấu suốt mọi vật trong trời đất này. Quan niệm này được thấy rõ nhất là Thử tinh
truyện. Trong lúc cả triều đình đang loạn lên vì không tìm ra cách xử lý để phân biệt đâu là người
chồng thật sự của cô gái, thì Lê Thánh Tông đã nghĩ đến trách nhiệm đứng đầu đất nước của mình:
“Mình là người đứng đầu thần dân, nếu không xét cho ra cái vụ án này, thì bố mẹ người thêm một
đứa con ma. Vợ người thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là ma không khỏi sau này sinh ra tai vạ”
[117,tr.165]. Trách nhiệm, bổn phận ấy là của nhà vua song dù sao vua cũng là một người trần mắt
thịt sao có thể một mình dễ dàng chống lại ma. Chính vì vậy vua đã nhờ sự giúp đỡ từ phía các lực
lượng siêu nhiên thần thánh: “Thế rồi ta thắp hương cầu khấn nhờ Đổng Thiên Vương giúp sức. Hơi
nước bốc lên, thiên vương nhập vào con đồng bảo ta rằng: “Ma này là giống tinh chuột đấy. Chuột
già lâu năm ăn tinh khí của các vật , thành giống quỷ quái này. Lửa không hại được, phù chú không
trừ được (.....). Bèn lấy hương thư phù vào hai đạo bùa, sai dán vào sau lưng hai người ấy. Dẫu ma
muốn chạy thoát cũng không được nữa” [117,tr.165,166]. Cùng nội dung với Thử tinh truyện, Mai
Châu yêu nữ truyện là chuyện kể về việc tiêu diệt một yêu nữ: “Khi còn ở tiềm để, ta biết việc ấy,
bèn viết thư sai người đến đền Phù Đổng mượn gươm của Thiên Vương để trừ nó. Nữ yêu kinh sợ,
ẩn trong cỏ rậm ven sông đầm, không dám tác quái như trước nữa” [117,tr.10]. Lại một lần nữa,
nhà vua đã nhận được sữ giúp đỡ của các thế lực thần linh. Thông qua hai truyện trên nhà vua cũng
muốn khẳng định uy quyền của bậc “chân chủ” trước muôn vật, thiên nhiên và trước cả ma quỷ,
thánh thần. Uy quyền ấy một lần nữa được thể hiện trong Mộng ký. Ở đây những oan hồn tự tìm đến
để bày tỏ nỗi oan khuất với nhà vua: “Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua
yêu dấu. Không may vận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lực bắt trộm, định bán chị em thiếp cho
người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng, nên đem chị em
thiếp giam ở địa phương này. Tới nay đã hơn hai trăm năm. May sao nhà vua đi tuần qua đây, có
lòng thương xót mọi người nên chị em thiếp liều chết đến dâng thư, mong được ra ngoài hang tối,
thấy bóng mặt trời” [117,tr.147]. Trong truyện này, nhà vua nhận được sự giúp đỡ của một vị tiên
thổi địch để giải được oan khiên đó.
Như vậy có thể thấy rằng thần tiên đã đóng vai trò mang phép màu đến cho nhà vua. Nhờ đó vua
mới có khả năng giải quyết mọi công việc, mọi nỗi oan khiên ở đời. Điều này ngầm nói lên đức độ
của nhà vua. Nhờ vua trị nước hợp lòng dân ý trời nên mới được trời giúp đỡ. Từ chỗ đề cao vai trò,
ngôi vị chí tôn của nhà vua, Lê Thánh Tông đã gián tiếp khẳng định uy quyền tuyệt đối của người
đứng đầu nhà nước phong kiến.
Thánh Tông di thảo đã mở đầu cho sự cách tân của thể loại truyền kì. Sự xuất hiện của nhân vật
thứ ba – nhân vật hiện thân của nhà văn đã cho thấy rõ quan niệm về vai trò, trách nhiệm và quyền
năng của một ông vua chân chính. Với sự góp mặt của mình trong tác phẩm, nhà vua đồng thời cũng
khẳng định uy quyền của trước mọi thế lực siêu nhiên.
2.3.2.2. Đề cao cái tôi ẩn sĩ, lánh đời:
Nếu Thánh Tông di thảo chủ yếu ngợi ca người đứng đầu đất nước thì Truyền kì mạn lục
lại thấm đẫm tư tưởng ẩn dật của nhà nho. Một trong những vấn đề được các nhà nho đặt ra khá
bức thiết là trách nhiệm của kẻ sĩ. Tầng lớp này luôn luôn suy nghĩ về cách sống, về trách nhiệm, về
ý nghĩa cuộc sống, cả những lạc thú và hạnh phúc ở đời. Giải đáp cho những băn khoăn ấy các nhà
nho đi đến lựa chọn trong hành động giữa “xuất” và “xử”, ra làm quan hay lui về ẩn dật. Bao giờ
trong sự quyết định họ cũng đặt ra mục tiêu cao nhất cho mình: dù thế nào cũng phải giữ lấy đạo
đức và nhân cách để không hổ thẹn với lòng mình. Chính vì vậy, trong xã hội mà kĩ cương đạo đức
không còn thì nhà nho bao giờ cũng chọn con đường lui về ẩn dật. Hình ảnh nhà nho ẩn dật đã thể
hiện rõ chân dung nhà văn Nguyễn Dữ.
Mô hình chung của kẻ sĩ thời trung đại:
↑ đỗ đạt → làm quan → từ quan
Học→ thi cử
ẩn dật. [132,tr 43]
↓ không đỗ đạt → các loại “thầy”
Như đã nói ở trên, nhà nho trong mọi thời đại bao giờ cũng đứng ở ngã ba đường để lựa chọn.
Một là con đường ra làm quan tốt phục vụ cho dân cho nước - liệu có thành công không trong xã
hội đầy rối ren, ô trọc thời Nguyễn Dữ? Hai là con đường hoạn lộ nhơ nhuốc, làm quan để vun vén
cho lợi ích cá nhân, nhũng nhiễu nhân dân. Từ bỏ tất cả, lánh đục về trong, giữ lấy nhân cách của
mình là con đường thứ ba. Nguyễn Dữ đã chọn con đường thứ ba ấy cho cuộc đời mình.
Cho đến nay, những tài liệu liên quan đến thân thế và cuộc đời Nguyễn Dữ vẫn còn rất ít. Dù
vậy với Truyền kì mạn lục, người đọc phần nào thấy được tâm trạng bất mãn của ông. Đó cũng là
tâm trạng chung của sĩ phu thời bấy giờ - chán ghét cảnh thối nát nơi triều đình Lê – Mạc. Là một
người có tài nhưng lại chủ trương xuất thế, tất nhiên là Nguyễn Dữ có lý do của mình. Đó là lý do từ
xã hội, từ chế độ phong kiến đương thời. Câu chuyện của đền Hạng Vương là tác phẩm mở đầu cho
Truyền kì mạn lục, đồng thời cũng là truyện mở đầu cho lý tưởng sống của nhà văn. Tác giả đã
mượn lời quan thừa chỉ Hồ Tôn Thốc trong việc phê phán Hạng Vũ để ám chỉ những kẻ lộng quyền:
“Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức; thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không
phải ở bạo. Nhà vua chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường làm đức....Cứ những việc của nhà
vua làm thì được lòng người chăng?” [23,tr11]. Lời phê phán khiến người đọc không thể không
nghĩ đến Mạc Đăng Dung – kẻ đã dùng bạo lực để sát hại những người hiền đức lúc bấy giờ. Không
dừng ở lại đó, tác phẩm còn như một bản cáo trạng buộc tội chung cho tất cả các triều đại phong
kiến mục ruỗng, thối nát. Nhà văn M. Tkachov, trong bài viết “Bậc thầy của những chuyện kì diệu
sáng tạo từ đất Hải Dương”, giới thiệu bản dịch Truyền kì mạn lục ở Liên Xô năm 1974 đã có
những ý tưởng tương tự: “Thế có nghĩa là, không phải chỉ có họ Mạc và vương triều của họ trở
thành đối tượng tố cáo của Nguyễn Dữ, ông đã suy tưởng về những phạm trù của thời đại mình,
không phân thời đại đó thành triều đình này hay triều đình khác. Và những ông vua triều nhà Hồ
được Nguyễn Dữ trình hiện không đơn giản chỉ là sự thể hiện bóng bẩy những khuôn mặt cụ thể nào
đấy, mà là hình ảnh khái quát của giới “cầm quyền hủ bại”. Việc xây dựng những hình tượng này
đã đánh dấu một bước mới trong sự phát triển văn xuôi Việt Nam”[131,tr191].
Ở một khía cạnh khác của Truyền kì mạn lục, Chuyện tướng dạ xoa lại là tác phẩm nói đến tính
chất thiếu kỷ luật ở xã hội lúc ấy. Tác phẩm tưởng như chỉ nói đến chuyện quỷ thần sống vô tổ
chức, vô kỷ luật và tham nhũng. Song thực chất là tác giả đang nói đến một xã hội rối ren, hỗn độn,
xã hội mà ở đó kỷ cương không được thiết lập: “Các ngươi không được coi khinh mệnh lệnh, không
được quen thói dâm ô, quấy quắc để làm hại mạng của dân, ban ngày không được giả hình, ban
đêm không được kết đảng” [23,tr 224]. Lời phát ngôn của nhân vật nói lên quan điểm của Nguyễn
Dữ: Ở mọi thời đại kỉ cương, phép nước bao giờ cũng cần được thiết lập để tệ quan liêu, tham
nhũng không có đất dung thân. Bởi lẽ nó sẽ như những con sâu, con mọt đục khoét, đào mòn ngân
khố của nhân dân. Cho nên có thể khẳng định: bài học này có ý nghĩa đối với mọi thời đại.
Nhẹ nhàng, kín đáo song không kém phần sâu sắc là tất cả những gì mà Cuộc nói chuyện thơ ở
Kim Hoa mang lại cho độc giả. Tác phẩm tưởng chừng như chỉ dừng lại ở chỗ bình thơ, sáng tác
văn chương. Nhưng đằng sau đó còn có những bí mật về triều đại mà họ đã từng chứng kiến. Tác
phẩm chép rằng: “ Tôi thờ đức Thánh Tông lâu năm rồi lại thờ đức Hiển Tông, nghĩa kết vua tôi,
nhưng tình thật như cha con vậy. Không ngờ vì thế mà những kẻ hiển bạc, bày chuyện nói xằng,
thường làm những câu thơ mỉa giễu” [23,tr 216]. Hay là ở đoạn “xưa nay những người trinh liệt bị
ngòi bút trào phúng làm cho bực mình biết bao nhiêu mà kể” [23,tr216- 217]. Từ cuộc trao đổi này,
tác giả đã phê phán những kẻ xu nịnh, giảo quyệt, đặt điều nói xấu người khác ở những thời đại
trước. Mượn xưa nói nay, tác phẩm đã đạt được mục đích của nhà văn: phê phán những hạn chế của
xã hội đương thời. Khác với Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa,Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang lại
là cuộc đấu trí giữa hai con vật vượn và cáo biến thành người với vua Trần Phế Đế. Trong đó con
cáo nói với Hồ Quý Ly rằng: “Đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân không phải thời,
giày trên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt
không phải lễ, ngài sao không tâu với thánh minh, tạm quay xa giá, để khiến người và vật được bình
yên[23,(tr170 ]. Tác phẩm xây dựng cuộc trò chuyện giữa vật với người, tưởng như chỉ nhằm mục
đích bảo vệ các loài động vật ở rừng. Song đằng sau cuộc trò chuyện ấy lại là những vấn đề mang ý
nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là tiếng nói phê phán thói xa hoa hưởng thụ làm tổn hại sứ người sức của
nhân dân của vua quan lúc bấy giờ.
Lý tưởng cao đẹp nhất của nhà nho khi ra làm quan là vì nghĩa, luôn luôn tự tìm những cơ hội
nhằm giúp ích cho đời. Đấy cũng là quan điểm rèn dũa quan lại theo tinh thần của Nho gia. Tuy
nhiên ở những thời đại suy đồi, nhân cách kẻ sĩ tha hóa, người làm quan lại trở thành mối hại cho
dân thật đáng xấu hổ. Vì thế các nhà nho chọn con đường ẩn dật, xem đó là cách để giữ được sự cao
khiết. Mượn xưa nói nay, mượn chuyện người nói chuyện mình là dụng ý khá rõ của tác giả qua
Chuyện đối đáp người tiều phu núi Na. Tác phẩm nói về việc tiếm ngôi của Hồ Quý Ly (1400).
Thời đại Nguyễn Dữ cũng vậy, năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Các nhà Nho theo tư
tưởng chính thống lúc bấy giờ không thể đồng tình với hành động ấy. Nguyễn Dữ đã lấy giai đoạn
lịch sử về Hồ Quý Ly để ám chỉ về Mạc Đăng Dung lúc này. Rõ ràng việc đi ở ẩn là sự phủ định kẻ
đương quyền. Nhân vật trong Chuyện người tiều phu núi Na không chịu “đắm mình vào trong cái
triều đình trọc loạn”, “tham cầu những cái ngoài thân mình” và “để xấu hổ với tiền hiền”. Chọn
con đường ẩn dật vì không muốn danh lợi, tiền bạc che khuất mặt. Ông triều, hay chính tác giả đã
không chịu cúi đầu quỳ gối để mưu cầu công danh, phú quý. Từ chối xuất chính còn là cách để tránh
xa những hành vi đồi bại, những tội lỗi của nhà nước phong kiến đang mục nát, xuống cấp trầm
trọng. Và vì vậy ở ẩn là cách tốt nhất để giữ gìn phẩm tiết của kẻ sĩ.
Chọn con đường ẩn dật không chỉ vì bất mãn với kẻ cầm quyền mà phần nào còn thể hiện ước
nguyện gắn bó đời mình với núi rừng, thiên nhiên. Nhìn chung người xử sĩ thời nào cũng có. Họ tìm
thấy thiên nhiên là nơi nuôi dưỡng và thanh lọc tâm hồn con người. Về với thiên nhiên là về với bạn
tri âm tri kỉ. Nhà nho trong Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na là một minh chúng tiêu biểu
cho quan niệm sống hài hòa cùng thiên nhiên mang đến sự an lạc trong tâm hồn:“Ta là kẻ ẩn dật
dân trốn đời, ông lão già lánh bụi gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió
rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là rượu nai tôm cá,
quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hen đơn, nằm mây mà ngủ khói, múc khe
mà uống, bới núi mà ăn, chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, là vua quan nào”. [23,tr. 110]
2.3.2.3. Lý tưởng sống, thái độ sống của người ẩn sĩ:
Trả ấn từ quan về với cuộc sống thiên nhiên là cách chọn của những kẻ sĩ bất mãn thời cuộc.
Con đường ấy thoạt nhìn tưởng như tiêu cực nhưng xét kĩ thì ngược lại. Khi xã hội nhiễu nhương
mà bản thân kẻ sĩ không thể thay thời đổi thế thì từ quan là một hành xử tối ưu. Bởi lẽ nếu không từ
quan họ buộc phải phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị thối nát, hà hiếp nhân dân. Hành động
này trái hẳn với chí nguyện làm trai của họ. Vì vậy rời xa xã hội ô trọc ấy để giữ tâm hồn trong
sạch, tinh khiết là đúng lòng người, hợp ý trời.
Với tư tưởng “an bần là cao thượng, mưu lợi là nhục nhã”, nhiều nhà nho đương thời đã trả ấn,
từ quan tìm về với cuộc sống dân dã. Khi chọn con đường ẩn dật, cũng có nghĩa là các nhà nho đã tỏ
rõ một thái độ đối với triều đình. Người đứng đầu đất nước lúc này, dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ
hiện lên thật sinh động, rõ nét: “thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dụng cung
Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hòe Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng
như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ
dâng lời ngay thì phải giết đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết” [23,tr 142]. Vua chúa
như vậy, quan lại cũng cậy quyền, dựa thế áp bức dân lành. Đó là trường hợp của Lý Hữu Chi trong
chuyện Lý tướng quân, một tên quan tham lam, hung tợn, hiếu sắc. “Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân
vật Lý Hữu Chi trở thành hình tượng điển hình của bọn quan lại lúc bấy giờ”. [23,tr. 205]. Hoặc
trong Chuyện nàng Túy Tiêu, Thân trụ Quốc hiện lên nham hiểm và thâm độc. Đó là một tên quan
không chỉ cướp vợ người khác mà còn “chỉ là đồ yếu hèn mà làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy
chọt, lúc nào cửa cũng rập rập người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy”.
[23,tr165] Như vậy “Nguyễn Dữ đã suy nghĩ có tính phạm trù về thời đại mình qua hàng loạt những
hình tượng điển hình của tầng lớp thống trị đương thời với một đánh giá không thiên vị và nghiêm
khắc”. [131,tr192]. Từ chỗ phản ánh một cách trung thực thời đại mình, Nguyễn Dữ đã từ chối
không hợp tác dưới triều đại ô trọc đó.
Hình tượng người nho sĩ ẩn dật trong Truyền kì mạn lục xét về một phương diện nào đó chính là
“hình ảnh của bản thân Nguyễn Dữ và cũng là một trong những hình tượng cơ bản của tập truyện”
[123,tr202]. Ở đây Nguyễn Dữ rời bỏ chốn quan trường nhơ nhớp với một thái độ bất hợp tác. Cũng
giống như người tiều phu khi được mời ra giúp triều đình đã một mực từ chối và nhất định không
ngồi dưới trướng của vị quan đương thời: “Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng
lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong cái trào đình trọc loạn, lại con toan kéo người khác để cùng
đắm với mình”. [23,tr 144]
Cùng quan niệm ấy là Từ Thức trong chuyện Từ Thức lấy vợ tiên. Nhân vật Từ Thức đã phát
biểu một quan niệm sống: “Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đó mà buộc mình trong áng lợi
danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy” [23,tr.101]. Đồng
thời với việc phê phán, tố cáo xã hội cũng là cách bày tỏ thái độ bất hợp tác với triều đình.
Quy ẩn là con đường khép lại cánh cổng đến với lợi danh song nó lại mở ra thênh thang cho
khát vọng sống và giữ gìn nhân cách của kẻ sĩ. Từ Thức từ quan vì không muốn bán nhân cách bằng
năm đấu gạo. Người tiều phu từ chối chốn quan trường vì nơi đó ông không thể giữ mình trong
sạch. Vẫn biết rằng ở ẩn không ra làm quan không phải là một phương án tối ưu cho những nhà nho
muốn giúp dân giúp nước. Nhưng nếu chọn giữa xuất chính mà hại dân và quy ẩn mà giữ mình
trong sạch, không làm tổn thất cho dân thì đó cũng là một cách hành xử của người quân tử. Không
vì danh lợi mà đánh mất nhân cách, đạo đức của mình là cách hành xử đáng để được người đời
ngưỡng mộ, tôn kính.
Tuy nhiên ở ẩn không có nghĩa là các nhà nho rũ bỏ tất cả cuộc sống này. Trong cảnh sống tự
do, nhàn lạc họ vẫn nặng lòng với quê hương, với đất nước. Điều đó cho thấy tinh thần trách nhiệm
của nhà nho với cuộc đời. Từ Thức mặc dù sống trong cảnh tiên thơ mộng, lãng mạn nhưng “những
đêm sương gió thổi, bóng trăng dòm qua cửa sổ,tiếng thủy triều nghe văng vẳng đầu giường, đối
cảnh chạnh lòng một nỗi buồn bâng khuâng quấy nhiễu khiến không sao ngủ được”. [23,tr 111]
Chính vì nỗi nhớ quê hương ấy Từ Thức đã từ biệt cõi tiên để trở về quê cũ.
Người ẩn sĩ sống xa chốn thị thành, gắn bó với rừng núi nhưng những chuyện xảy ra trong dân
gian thì đều biết. Đó là hình bóng của lão tiều trong Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na:
“hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đánh đổi lấy cá và rượu, cốt được no
say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông giả trẻ con dưới đồng bằng, lại nói chuyện những
việc trồng dâu trồng gai một cách vui vẻ” [23,tr132]. Người ẩn sĩ không chỉ nhớ quê, bàn chuyện
trồng trọt mà họ còn tỏ ra am hiểu thời cuộc:“ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không
vào đến cung đình nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bấy giờ là người như thế nào. Ông
ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục” [23,tr 142]. Và đi đến kết luận: “chưa thấy ai biết những kế
lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả”.[23,tr.143]. Từ đó có thể khẳng định: nhà văn mang thân
mình về ẩn cư chốn lâm tuyền nhưng tâm trí vẫn luôn thao thức cùng xã tắc. Con đường ẩn dật của
Nguyễn Dữ do đó là một con đường tích cực.
2.3.2.4. Nỗi lòng với những kiểu người “thấp cổ bé họng” trong xã hội:
Nếu đối tượng phê phán chủ yếu của Nguyễn Dữ là vua chúa, quan lại, thì Vũ Trinh lại ít thấy
nhắc đến đối tượng này. Phải chăng với những trải nghiệm trong chính cuộc đời mình, nhà văn đã
nhận ra một sự thật nghiệt ngã rằng: dù có phê phán hay đả kích thì bản chất của tầng lớp thống trị
thời ấy vẫn không thể nào thay đổi. Một cuộc va đập mạnh của lịch sử đã làm Vũ Trinh chán ngán
trước những gì mình đã từng tôn thờ. Nên trong Lan Trì kiến văn lục, người đọc khó tìm thấy hình
ảnh vua quan, có chăng cũng chỉ rải rác ở vài ba truyện mà thôi. Tác phẩm đưa người đọc về với
những con người thân thuộc gần gũi: một thầy đồ dạy học bên lũy tre làng, một người đàn bà góa
chồng, một đứa trẻ bị bỏ rơi trong rừng, một chàng lái đò say đắm trong tình yêu.... Trong Lan Trì
kiến văn lục không thấy hình ảnh nhà văn xuất hiện một cách trực tiếp nhưng tiếp xúc với tác phẩm
vẫn thấy bàng bạc những tư tưởng, tình cảm mà nhà văn gửi gắm vào trong nhân vật. Người đọc vẫn
nhận thấy khuôn mặt của nhà văn ẩn hiện sau mỗi nhân vật trong truyện như để an ủi, nâng đỡ, chia
sẻ với nỗi đau của họ. Chính vì vậy tác phẩm của Lan Trì ngư giả không ồn ào mà cứ lặng lẽ, âm
thầm chiếm lĩnh tâm hồn mỗi con người.
Vũ Trinh xuất hiện khi trào lưu văn học nhân đạo đang thịnh hành và trở thành trào lưu lớn nhất
Việt Nam thế kỉ XVIII. Giai đoạn văn học thế kỷ XVIII, nửa đầu XIX đã khẳng định hàng loạt
những tên tuổi: Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều,
đặc biệt đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh tuy chưa được
biết đến nhiều như những tác phẩm trên nhưng cũng đã có những đóng góp không nhỏ. Quy luật cho
thấy khi một hiện tượng phát triển đến đỉnh cao nhất nó sẽ đi vào hồi kết thúc. Cho nên văn xuôi tự
sự với những Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái như những thử nghiệm đầu tay đã phát triển đến
đỉnh điểm với Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, để rồi trước lúc cáo chung nhường chỗ cho
thể loại khác, Lan Trì kiến văn lục đã kịp làm mới cho thể loại truyện kì. Tác phẩm của Vũ Trinh
mặc dù theo tên gọi là ghi lại những điều tai nghe mắt thấy nhưng được xây dựng với những mô tip
lạ của thể loại truyền kì nên nó gần gũi với truyện truyền kì hơn là loại sách cùng tên với nó.
Như đã nói ở trên, người đọc thấy được bóng dáng của Vũ Trinh sau mỗi câu chuyện tuy nhà
văn không hiện lên cụ thể ở một nhân vật nào. Truyện Vũ Trinh vừa mang tính chất giáo huấn vừa
đậm màu sắc nhân văn. Đa phần nó không dừng lại ở việc tự sự đơn thuần, mà còn chứa đựng cách
nhìn, tư tưởng tình cảm của nhà văn nên giàu yếu tố trữ tình. Ở những truyện viết về phụ nữ, tác giả
lên tiếng đòi lại quyền đáng được tôn trọng cho giới nữ. Chỉ cần có tài năng và phẩm giá, người phụ
nữ xuất thân từ tầng lớp nào, làm nghề gì trong xã hội họ cũng cần được tôn trọng. Những nhân vật
nữ của Vũ Trinh thường xuất thân tầm thường: một cô ca kĩ (Cô ca kĩ họ Nguyễn), một người con
gái mắc bệnh hiểm nghèo (Thánh báo ân)...Viết về họ, Vũ Trinh thể hiện mối đồng cảm sâu xa
trước những nỗi thống khổ mà họ phải gánh chịu từ gia đình đến xã hội. Mỗi câu chuyện đều cho
thấy tấm lòng tràn đầy yêu thương và thái độ trân trọng, nâng niu đối với những phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ. Nhưng làm thế nào để người phụ nữ sống hạnh phúc, số phận của họ sẽ đi về đâu
cũng chỉ là những câu hỏi bỏ lững không tìm ra lời đáp. Ước mơ về một xã hội công bằng trong đó
giới nữ được sống hạnh phúc cuối cùng cũng chỉ là ước mơ mà thôi. Những người phụ nữ trong tác
phẩm đều ra đi, và cái chết là kết quả cuối cùng. Tuổi xuân, tài năng, phẩm chất của họ như những
khối pha lê trong suốt vỡ tan tất cả. Tình yêu, khát vọng hạnh phúc mà họ vun bón cuối cùng cũng
chôn xuống mộ sâu. Người đọc tác phẩm nhận ra không có một viễn cảnh tương lai nào dành cho
người phụ nữ. Tuy nhiên Vũ Trinh đã mang đến cho văn học trung đại hơi thở của cuộc sống hiện
đại qua truyện Phu nhân Lan quận công. Nhân vật ở đây mang những tính cách hiện đại: người cha
độ lượng, không phân biệt đẳng cấp, không ép buộc con gái làm theo ý mình. Còn cô gái không chỉ
dịu dàng, kiên nhẫn mà còn có bản lĩnh. Họ đã làm nên hạnh phúc cho chính mình. Tác phẩm đã
mang lại bài học: hạnh phúc không thể mua bằng tiền mà phải được tạo nên bằng chính bàn tay,
khối óc và trái tim của con người.
Nếu Lê Thánh Tông hiện lên qua nhân vật “ta”, Nguyễn Dữ là hình bóng của người ẩn sĩ thì Vũ
Trinh lại ẩn sau khuôn mặt của nhiều nhân vật. Đó là những nhân vật mà nhà văn đã được gặp từ
trong dân gian và sau mỗi câu chuyện của họ là tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Ví như truyện Vũ
Quỳnh kể về câu chuyện được gặp tiên của một anh học trò có tài song kiêu ngạo. Đằng sau câu
chuyện là một lời cảnh tỉnh của tác giả: người có tài là đáng quý nhưng đừng kiêu ngạo. Hay truyện
Sinh đẻ kì lạ: một phụ nữ nông dân có thai đến tháng sinh thì bị chết, nhà nghèo không sắm được áo
quan, phải gói ghém rồi chôn tạm ngoài đồng. Dưới mồ chị đã sinh con, không có sữa phải đem tiền
âm phủ đi mua bánh cho con. Phát hiện, gia đình đào mộ cứu được con, đứa bé miệng vẫn còn
vương vụn bánh và cuống nhau còn dính với thân thể người mẹ đã bắt đầu thối rữa. Tác phẩm bề
ngoài chỉ là kể lại một câu chuyện kì lạ song đằng sau đó thấm đẫm một tình yêu thương ấm áp của
nhà văn dành cho con người.
Đặc biệt nhân vật thể hiện quan niệm, tình cảm của nhà văn cũng được gửi gắm nhiều qua hệ
thống nhân vật trẻ em. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam nhân vật trẻ em lại xuất hiện với
tầng số cao đến vậy. Và nhóm nhân vật “nhí” cũng được Vũ Trinh dành nhiều ưu ái: một em bé bị
cha bỏ vào rừng để lấy vợ khác; một em bé tuy sống bình thường song mang trên mình chứng tích
đứa con của rắn; một em bé hai lần gặp bất hạnh, tám tuổi đã chết, khi được đầu thai làm người lại
rất đau khổ vì vẫn nhớ về kiếp trước của mình. Đọc những truyện này người đọc không thể nào
quên số phận, cuộc đời của các em. Nhà văn dường như muốn gửi đến người đọc một thông điệp: xã
hội cần quan tâm đến những kiếp người đáng thương nhất là trẻ em.
Nhìn chung loại hình nhân vật là hiện thân của nhà văn đã thể hiện những tâm sự, nỗi lòng và
bộc lộ một cách gián tiếp hình ảnh của nhà văn. Đặc điểm này đã giúp cho Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục mang đậm màu sắc chủ quan, đồng thời loại hình đưa thể
loại truyền kì tiến xa hơn các tác phẩm trước đây.
2.4. Loại hình nhân vật các con vật:
2.4.1. Một số hình ảnh con vật được đề cập đến trong các tác phẩm:
2.4.1.1. Số lần xuất hiện:
STT
TÊN TÁC PHẨM
CON VẬT
01
Truyện dòng dõi con thiềm thừ
+
02
Phả ký sơn quân
+
03
Bức thư con muỗi
+
04
Phụ lục
+
05
Trận cười ở núi Vũ Môn
+
06
Chuyện bữa tiệc đêm Đà Giang
+
07
Đứa con của rắn
+
08
Con hổ có nghĩa
+
09
Cá thần
+
10
Khỉ
+
11
Con hổ hào hiệp
+
12
Rắn thiêng
+
13
Gấu hổ chọi nhau
+
14
Con giải
+
15
Con hổ nhân đức
+
2.4.1.2. Khái quát chung:
Nhìn bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy loại hình nhân vật con vật xuất hiện trong ba tập truyện
không nhiều, trong số 84 tác phẩm thì chỉ có 15 là viết về con vật. Hình ảnh con vật chủ yếu xuất
hiện trong Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục còn trong Truyền kì mạn lục thì kiểu nhân vật
này hạn chế hơn. Tuy vậy loại hình nhân vật các con vật cũng mang đến những thông điệp cho
người đọc. Đó là những bài học mang tính chất giáo huấn, lấy hình ảnh con vật để nói đến đời sống
loài người. Có thể khẳng định rằng: tính ngụ ngôn được thể hiện ở loại hình nhân vật này rõ nhất.
2.4.2. Những bài học nhằm mục đích giáo huấn con người:
2.4.2.1. Bài học luân lý đạo đức:
Hình ảnh con vật trong Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục xuất hiện không phải chỉ để
miêu tả mà đó là những phương tiện nghệ thuật chuyên chở dụng ý của nhà văn. Những bài học đạo
đức – luân lý đã được các tác giả truyền kì chuyển tải qua những câu chuyện ngụ ngôn về con vật.
Dưới hình thức kín đáo này, nhà văn đã hướng đến mục đích chính là giáo huấn, răn dạy con người.
Trong Thiềm thừ miêu duệ ký thông qua câu chuyện con cóc và con ếch, Lê Thánh Tông đã nêu trực
tiếp bài học luân lý, đạo đức dành cho con người: “Ôi thế mới hiểu rõ câu nói của tiên triết:“Phàm
những người ít lòng tham dục mà vẫn bảo toàn được tấm thân, xưa nay cũng hiếm”. Thật là đúng
vậy.” [117,tr 1]). Từ nhân vật con ếch, tác giả muốn nhắn nhủ: Phàm những kẻ lòng tham vô độ thì
cuộc sống sẽ không được an toàn, bình yên. Cùng một hoàn cảnh song những kẻ có lòng tham thì
cuộc đời sẽ bất hạnh. Đây là một hồi chuông cảnh tỉnh đã đánh vào lương tri của con người. Con
người cần nhất là lối sống trung thực, không tham lam, không vướng vào “sân si”. Sơn quân phả đã
vẽ lên hai hình ảnh trái ngược nhau về bản chất trong bức tranh rừng núi: hổ thiện, hổ ác. Qua đó tác
giả lấy việc hổ ác càn rỡ, bạo ngược ra khỏi nơi ẩn náu là cắn người sẽ bị trừng trị để răn đe những
kẻ có lòng dạ như hổ dữ. Đứng trên lập trường của một nhà vua, Lê Thánh Tông dùng hình ảnh “hổ