Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.36 MB, 308 trang )
được những giải pháp hiệu quả.
Trong chương này, chúng ta bắt đầu đưa ra những giả định với những mô hình đơn
giản nhằm minh hoạ mối quan hệ giữa hoạt động kinh tế và chất lượng môi trường.
Cùng với những phân tích có tính minh hoạ về những quyết định thị trường có tính
nền tảng như thế nào ảnh hưởng tới môi trường. Chúng ta sẽ khám phá, giải thích
những mối quan hệ cơ bản liên quan đến phân tích kinh tế của những giải pháp môi
trường như những vấn đề về hàng hoá chất lượng môi trường; Ngoại ứng; Kinh tế
học ô nhiễm; Kinh tế chất thải. Tiếp theo đó là một cách nhìn tổng thể về phát triển
chính sách và vai trò của kinh tế học trong đó.
II. Mô hình thị trường và hiệu quả kinh tế
1. Cung, cầu và cân bằng thị trường
1.1 Thị trường là bất kỳ khung cảnh nào trong đó tập hợp những người mua và
người bán họ tác động qua lại lẫn nhau dẫn đến khả năng trao đổi, mua bán các loại
hàng hoá và dịch vụ. Trong một số trường hợp, người mua và người bán có thể tiếp
xúc trực tiếp tại các địa điểm cố định như các thị trường hàng tiêu dùng: thực
phẩm, rau quả, quần áo… Trong những trường hợp khác, các công việc giao dịch
có thể diễn ra thông qua vô tuyến, điện thoại hoặc các phương tiện viễn thông khác
như trong thị trường chứng khoán, giao dịch ngân hàng…. Điểm chung nhất của
các thành viên tham gia thị trường là họ đều tìm cách tối đa hoá lợi ích của mình.
Người bán (sản xuất) muốn tối đa hoá lợi nhuận, còn người mua (người tiêu dùng)
muốn tối đa hoá sự thoả mãn hay lợi ích mà họ nhận được từ hàng hoá hay dịch vụ
mà họ mua.
Về mặt nguyên lý, sự tác động qua lại giữa người bán và người mua xác định giá
của từng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể, đồng thời xác định cả chủng loại, số lượng,
chất lượng sản phẩm cần sản xuất và qua đó sẽ xác định việc phân bổ và sử dụng
các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Nói cách khác, giá cả là tín hiệu cơ bản phối
hợp các hoạt động của người tiêu dùng, người sản xuất và những người sở hữu các
nguồn lực khan hiếm. Đây chính là nguyên tắc hoạt động của cơ chế thị trường.
Để hiểu được quá trình này một cách đầy đủ hơn, chúng ta cần một mô hình thị
trường điển hình trong đó tập trung vào cầu - hành vi của người mua, và cung, hành
vi của người bán.
Cầu và cung là tên của các mối quan hệ; các mối quan hệ đó có thể được thể hiện
bằng các bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị hoặc các phương trình (các hàm).
1.2 Cầu là mối quan hệ giữa giá (P) và lượng cầu (Q) của một loại hàng hoá hoặc
http://www.ebook.edu.vn
65
dịch vụ. Đó là lượng hàng hoá / dịch vụ mà người mua có khả năng mua và sẵn
sàng mua tại mức giá đã cho trong một thời gian nhất định. Trong những điều kiện
như nhau, giá càng thấp thì lượng cầu càng lớn và ngược lại. Nếu biểu thị mối quan
hệ này bằng đồ thị ta sẽ có đường cầu. Thông thường, đường cầu dốc xuống từ trái
sang phải như trong hình dưới đây:
P
D
P2
P1
D
0
Q2
Q1
Q
Hình 2.1. Đường cầu thị trường.
Tại mức giá P1, lượng cầu là Q1
Tại mức giá P2, lượng cầu là Q2
Chúng ta cũng có thể biểu thị mối quan hệ giữa giá và lượng cầu bằng hàm cầu.
Ví dụ: Q = 450 - 25P
Nếu giá P1 = 4($), lượng cầu Q1 = 350
Nếu giá P2 = 6($), lượng cầu Q2 = 300
Đường cầu thị trường là tổng cộng theo chiều ngang của các đường cầu cá nhân.
Các yếu tố cơ bản xác định cầu về hàng hoá / dịch vụ bao gồm:
- Giá của bản thân hàng hoá / dịch vụ
- Thu nhập của người tiêu dùng
- Giá cả của các loại hàng hoá liên quan
http://www.ebook.edu.vn
66
- Số lượng người tiêu dùng
- Thị hiếu của người tiêu dùng
- Các kỳ vọng về các yếu tố trên
1.3 Cung là mối quan hệ giữa giá (P) và lượng cung (Q) của một loại hàng hoá /
dịch vụ. Đó là lượng hàng hoá / dịch vụ mà người bán sẵn lòng và có khả năng
cung tại mức giá xác định trong một thời gian nhất định. Trong những điều kiện
như nhau, giá càng cao thì lượng cung càng lớn và ngược lại. Chúng ta có thể biểu
thị mối quan hệ này dưới dạng đồ thị, đó là đường cung. Thông thường, đường
cung có độ dốc đi lên từ trái sang phải như trong hình dưới dây:
S
P
P2
P1
S
0
Q1
Q2
Q
Hình 2.2. Đường cung thị trường.
Tại mức giá P1, lượng cung là Q1
Tại mức giá P2, lượng cung là Q2
Chúng ta cũng có thể biểu thị mối quan hệ giữa giá và lượng cung bằng hàm cung.
Ví dụ Q = -20 + 10P
Nếu giá P0 = 2, lượng cung Q0 = 0
Nếu giá P1 = 4, lượng cung Q1 = 20
Nếu giá P2 = 6, lượng cung Q2 = 40
Cung thị trường là tổng hợp các mức cung của từng cá nhân lại với nhau.
Các yếu tố cơ bản xác định cung về hàng hoá / dịch vụ bao gồm:
- Giá của bản thân hàng hoá / dịch vụ
http://www.ebook.edu.vn
67
- Công nghệ
- Giá của các yếu tố đầu vào (sản xuất)
- Chính sách thuế
- Các kỳ vọng về các yếu tố trên
1.4 Cân bằng thị trường
Khi cầu đối với một hàng hoá / dịch vụ nào đó xuất hiện trên thị trường, người sản
xuất sẽ tìm cách đáp ứng mức cầu đó. Thị trường ở trạng thái cân bằng khi việc
cung hàng hoá / dịch vụ đủ thoả mãn cầu đối với hàng hoá / dịch vụ đó trong một
thời kỳ nhất định. Tại trạng thái cân bằng này chúng ta có mức giá cân bằng (P*) và
sản lượng cân bằng (Q*).
Trên đồ thị, mức cân bằng được xác định bằng giao điểm của hai đường cung và
cầu.
P
S
E
P*
D
0
Q*
Q
Hình 2.3. Cân bằng cung cầu thị trường
Đặc điểm quan trọng của mức giá cân bằng này là nó không được xác định bởi
từng cá nhân riêng lẻ mà được hình thành bởi hoạt động tập thể của toàn bộ người
mua và người bán. Đây chính là cách định giá khách quan theo "Bàn tay vô hình"
của cơ chế thị trường∗.
Tại những mức giá thấp hơn giá cân bằng, sẽ xuất hiện tình trạng dư cầu (thiếu
cung); tình trạng này sẽ tạo ra sức ép làm tăng giá. Ngược lại, tại những mức giá
∗
Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, mỗi doanh nghiệp đều là người chấp nhận giá; đường cầu của mỗi
doanh nghiệp là hoàn toàn co dãn tại mức giá thị trường hay nói cách khác là các nhà sản xuất phải đối mặt với
đường cầu nằm ngang. Rất dễ nhận thấy doanh thu bình quân (AR) và doanh thu cận biên (MR) của doanh nghiệp
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo đều bằng giá cân bằng thị trường.
http://www.ebook.edu.vn
68
cao hơn giá cân bằng, sẽ xuất hiện tình trạng dư cung; tình trạng này sẽ tạo ra sức
ép làm giảm giá. Khi giá thay đổi, lượng cung và lượng cầu cũng điều chỉnh cho tới
khi đạt được trạng thái cân bằng.
Mô hình cung - cầu cơ bản có thể được dùng để nghiên cứu nhiều vấn đề môi
trường và chính sách.
2. Thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất
2.1 Lợi ích và thặng dư tiêu dùng
2.1.1 Lợi ích
Thuật ngữ lợi ích được hiểu như là sự vừa ý, sự hài lòng do việc tiêu dùng hàng
hóa/dịch vụ đem lại.
Lợi ích toàn bộ (hay tổng lợi ích - TB) là tổng thể sự hài lòng do toàn bộ sự tiêu
dùng hàng hoá/dịch vụ đem lại.
Lợi ích cận biên (MB) phản ánh mức độ hài lòng do tiêu dùng một đơn vị sản phẩm
đem lại.
Lợi ích cận biên =
Sự thay đổi tổng lợi ích
Sự thay đổi lượng tiêu dùng
→ MB = lim
∆Q→0
∆TB
∆Q = TB’(Q)
Khái niệm tổng lợi ích và lợi ích cận biên giải thích vì sao chúng ta lại mua một
hàng hoá / dịch vụ cũng như vì sao chúng ta lại không mua chúng vào một thời
điểm nào đó.
Lợi ích cận biên của một hàng hoá / dịch vụ nào đó có xu hướng giảm đi khi lượng
mặt hàng đó được tiêu dùng nhiều hơn ở một thời kỳ nhất định. Như vậy, khi ta tiêu
dùng nhiều hơn một loại hàng hoá / dịch vụ nào đó, mà lợi ích cận biên vẫn còn lớn
hơn 0, tổng lợi ích sẽ tăng lên nhưng với tốc độ chậm dần đi.
Lợi ích là một khái niệm trừu tượng dùng trong kinh tế học để chỉ cảm giác thích
thú chủ quan, tính hữu ích hoặc sự thoả mãn do tiêu dùng hàng hoá / dịch vụ mà có.
Chúng ta không thể đo được lợi ích và lợi ích cận biên bằng các đơn vị vật lý như
chiều dài, cân nặng. Tuy vậy, chúng ta có thể dùng giá để đo lợi ích cận biên của
việc tiêu dùng: lợi ích cận biên của việc tiêu dùng hàng hoá / dịch vụ càng lớn thì
người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho nó, khi lợi ích cận biên giảm thì sự
sẵn lòng chi trả cũng giảm đi. Nếu vậy, đường cầu cũng chính là đường thể hiện lợi
ích cận biên của việc tiêu dùng.
2.1.2 Thặng dư tiêu dùng
Thặng dư tiêu dùng là khái niệm phản ánh sự chênh lệch giữa lợi ích của người tiêu
http://www.ebook.edu.vn
69
dùng khi tiêu dùng một lượng hàng hoá / dịch vụ so với chi phí thực tế để thu được
lợi ích đó.
Trong hình 2.4, đường cầu đối với một hàng hoá là D, giá thị trường của hàng hoá
đó là P*; người tiêu dùng sẽ tiêu dùng QD đơn vị hàng hoá
P
B
CS
E
P*
D
0
QD
Q
Hình 2.4. Thặng dư tiêu dùng
Tổng lợi ích của việc tiêu dùng là diện tích nằm dưới đường cầu từ gốc toạ độ đến
sản lượng cân bằng, tức là diện tích OBEQD.
Người tiêu dùng là người tối đa hoá lợi ích nên sẽ tiêu dùng hàng hoá cho đến khi
lợi ích cận biên của đơn vị hàng hoá cuối cùng bằng với giá phải trả cho đơn vị
hàng hoá đó. Người tiêu dùng không mua nhiều hàng hoá hơn QD vì lợi ích cận
biên của những đơn vị hàng hoá này (cũng đồng thời là sự sẵn lòng chi trả cho
những đơn vị hàng hoá này) nhỏ hơn mức giá mà người tiêu dùng sẽ phải trả nếu
tiêu dùng chúng.
Đối với những đơn vị hàng hoá nhỏ hơn QD, người tiêu dùng, vì được hưởng lợi ích
cận biên lớn hơn P* nên cũng sẵn lòng chi trả mức giá cao hơn P* cho việc tiêu
dùng hàng hoá. Nhưng thực tế, người tiêu dùng chỉ phải trả giá P*, cho tất cả các
đơn vị hàng hoá. Thặng dư tiêu dùng xuất hiện do người tiêu dùng được hưởng
nhiều hơn mức họ phải trả. Tổng thặng dư tiêu dùng (ký hiệu là CS) được thể hiện
bằng diện tích tam giác BEP* (phần gạch chéo) trong hình…
2.2 Chi phí và thặng dư sản xuất
2.2.1. Chi phí
Chi phí đối với một doanh nghiệp được hiểu là các khoản chi trả mà doanh nghiệp
phải thực hiện để duy trì việc sản xuất một số lượng hàng hoá / dịch vụ.
• Tổng chi phí (TC) của việc sản xuất một lượng hàng hoá bao gồm giá thị trường
http://www.ebook.edu.vn
70
của toàn bộ các nguồn lực được sử dụng để sản xuất ra lượng hàng hoá đó. Có thể
phân biệt hai loại chi phí: cố định và biến đổi.
• Chi phí cố định (FC) là những chi phí không thay đổi khi sản lượng thay đổi, đó
chính là những chi phí mà doanh nghiệp phải thanh toán dù không sản xuất hoặc
sản xuất rất ít; ví dụ tiền thuê nhà xưởng, khấu hao thiết bị, bảo dưỡng thiết bị, tiền
lương của bộ máy quản lý.
• Chi phí biến đổi (VC) là những chi phí tăng hoặc giảm cùng với mức tăng hoặc
giảm của sản lượng, ví dụ như tiền mua nguyên vật liệu, nhiên liệu năng lượng, tiền
lương công nhân…
Tổng chi phí là tổng của chi phí cố định và chi phí biến đổi. Vì tổng chi phí cố định
không thay đổi nên sự tăng giảm của tổng chi phí phụ thuộc vào các chi phí biến
đổi.
• Chi phí cận biên (MC) là chi phí phải chi bổ xung để sản xuất thêm một đơn vị
sản lượng hàng hoá / dịch vụ:
Chi phí cận biên =
Sự thay đổi tổng chi phí
Sự thay đổi tổng sản lượng
Như đã nói ở trên, trong ngắn hạn chi phí cố định không thay đổi khi sản lượng
thay đổi, vì thế khi sản xuất thêm một đơnvị sản phẩm, chỉ có chi phí biến đổi tăng
lên. Vì vậy, chúng ta cũng có thể nói rằng chi phí cận biên là chi phí biến đổi bổ
xung để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm bổ xung.
Nhìn chung, đường chi phí cận biên có hình dáng chữ U, song trong nhiều trường
hợp nó cũng có thể có hình dạng khác như dạng bậc thang, nằm ngang hoặc tăng
liên tục. Đường chi phí cận biên đi lên là kết quả trực tiếp của quy luật năng suất
cận biên giảm dần ∗.
Chi phí cận biên càng cao, người sản xuất càng đòi hỏi mức giá bán sản phẩm cao
tương ứng. Với một đường chi phí cận biên xác định thì khi giá thay đổi, lượng
hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất ra sẽ tăng hoặc giảm tương ứng. Người sản
xuất tối đa hoá hợi nhuận sẽ sẵn lòng cung cấp hàng hoá / dịch vụ cho thị trường
đến chừng nào giá bán đơn vị sản phẩm cuối cùng bằng đúng với chi phí cận biên
để sản xuất ra đơn vị sản phẩm ấy (P = MC). Vì thế đường chi phí cận biên cũng
chính là đường cung của doanh nghiệp.
∗
Năng suất cận biên được hiểu là mức gia tăng của tổng sản lượng khi sử dụng bổ xung một đơn vị đầu vào biến đổi
như lao động chẳng hạn.
http://www.ebook.edu.vn
71
Nếu chúng ta cộng theo chiều ngang toàn bộ các đường cung một loại hàng hóa của
các doanh nghiệp thì chúng ta sẽ thu được đường cung của thị trường.
2.2.2 Thặng dư sản xuất
Thặng dư sản xuất là khái niệm phản ánh mức chênh lệch giữa số tiền mà người
sản xuất thực sự nhận được từ việc cung cấp một lượng hàng hoá / dịch vụ so với
số tiền tối thiểu mà anh ta sẵn sàng chấp nhận chi trả.
Trong hình 2.5 đường cung đối với một hàng hoá là S, giá thị trường của hàng hoá
đó là P*, người sản xuất sẽ sẵn lòng cung cấp QS đơn vị hàng hoá.
P
S
E
P*
PS
A
0
QS
Q
Hình 2.5 Thặng dư sản xuất
Vì đường cung phản ánh chi phí cận biên của sản xuất; đồng thời nếu chi phí cơ hội
của tất cả các nguồn lực của sản xuất đã được tính đầy đủ, thì tổng chi phí xã hội
của sản xuất chính là diện tích nằm dưới đường cung từ gốc toạ độ đến sản lượng
cân bằng, tức là diện tích OAEQS.
Trong hình 2.5, tại bất kỳ điểm nào dọc theo đoạn đường cung AE, các nhà sản
xuất cũng sẵn sàng cung ứng một lượng hàng hoá nhất định với giá thấp hơn giá
cân bằng thị trường P*, nhưng thực tế họ vẫn bán được sản phẩm với mức giá P*.
Thặng dư xuất hiện do người sản xuất nhận được nhiều hơn mức chi phí họ đã bỏ
ra. Tổng thặng dư sản xuất (ký hiệu là PS) được thể hiện bằng diện tích tam giác
AEP* (phần gạch chéo) trong hình
.
2.3 Lợi ích ròng xã hội
Chúng ta vừa đề cập đến những vấn đề liên quan đến lợi ích và chi phí. Tổng lợi
ích xã hội (TSB) của việc tiêu dùng một loại hàng hoá / dịch vụ với một lượng nào
đó được xác định là tổng lợi ích của tất cả các cá nhân trong xã hội được hưởng
liên quan đến việc tiêu dùng hàng hoá / dịch vụ đó;
Tổng lợi ích xã hội cũng được xác định bằng tổng cộng sự sẵn lòng chi trả của các
cá nhân trong xã hội cho việc tiêu dùng hàng hoá / dịch vụ. Trên đồ thị TSB được
http://www.ebook.edu.vn
72
biểu thị bằng diện tích nằm dưới đường cầu từ gốc toạ độ đến sản lượng cân bằng.
Tổng chi phí xã hội (TSC) của việc sản xuất một hàng hoá / dịch vụ được xác định
là tổng chi phí của tất cả các nguồn lực cần thiết (kể cả chi phí cơ hội) để sản xuất
ra hàng hoá / dịch vụ đó. Trên đồ thị, TSC được biểu thị bằng diện tích nằm dưới
đường cung từ gốc toạ độ đến sản lượng cân bằng.
Chúng ta có thể xác định lợi ích ròng xã hội (NSB) của việc sản xuất và tiêu dùng
một hàng hoá / dịch vụ nào đó bằng hiệu số giữa tổng lợi ích xã hội và tổng chi phí
xã hội.
NSB = TSB - TSC
(1)
Rõ ràng, lợi ích ròng xã hội là tổng số của thặng dư tiêu dùng (CS) và thặng dư sản
xuất (PS).
NSB = CS + PS
-
(2)
TSB = diện tích OBEQ*
TSC = diện tích OAEQ*
NSB = diện tích ABE
CS = diện tích P*BE
PS = diện tích P*AE
P
S≡MC
B
CS
E
P*
PS
D≡MB
A
0
Q*
Q
Hình 2.6 Lợi ích ròng xã hội
Chúng ta có thể dễ dàng chứng minh được rằng tại mức sản lượng cân bằng Q*, lợi
ích ròng xã hội là lớn nhất hay còn gọi là phúc lợi xã hội lớn nhất. Nếu hoạt động
http://www.ebook.edu.vn
73
kinh tế ở bất cứ mức sản lượng nào lớn hơn hoặc nhỏ hơn Q* đều làm cho lợi ích
ròng xã hội nhỏ hơn diện tích ABE; Phần tổn thất phúc lợi xã hội đó được coi là
"phần mất không" vì không một ai, kể cả người sản xuất và người tiêu dùng, được
hưởng phần thặng dư đó.
Dưới những điều kiện chặt chẽ, điểm cân bằng của thị trường cạnh tranh là điểm có
tính hiệu quả Pareto. Những vị trí nằm ngoài điểm cân bằng sẽ không đạt được
hiệu quả Pareto. Chúng ta sẽ nói về hiệu quả Pareto trong phần dưới đây.
3. Hiệu quả Pareto
Hiệu quả Pareto (∗) hay còn gọi là hiệu quả kinh tế là một tiêu chí hữu dụng thường
được dùng để so sánh kết quả của các cách phân bổ nguồn lực cho các hoạt động
kinh tế khác nhau. Sự phân bổ nguồn lực hoàn toàn là việc mô tả về sản xuất cái gì,
như thế nào và cho ai.
Một sự phân bổ nguồn lực là có hiệu quả Pareto (hoặc đạt được tối ưu Pareto) nếu
không có khả năng dịch chuyển tới một sự phân bổ khác có thể làm cho bất cứ
người nào khá lên mà cũng không làm cho ít nhất là bất cứ một người nào khác
kém đi. Nói cách khác, tối ưu Pareto là một phúc lợi tối đa được xác định như một
vị trí mà từ đó không thể cải thiện được phúc lợi của bất cứ ai bằng cách thay đổi
sản xuất hoặc trao đổi mà lại không gây hại đến phúc lơị của một người nào khác.
Với một mức độ nhất định của các nguồn lực và kỹ thuật, nền kinh tế có thể có rất
nhiều điểm phân bổ có hiệu quả Pareto, các điểm này khác nhau trong việc phân
phối của cải giữa mọi người. Dưới những điều kiện chặt chẽ, điểm cân bằng của thị
trường cạnh tranh là điểm có tính hiệu quả Pareto.
Để có tối ưu Pareto, tức là tối đa hóa phúc lợi kinh tế của cộng đồng, cần thoả mãn
ba điều kiện.
Thứ nhất, tỷ lệ thay thế cận biên trong tiêu dùng (tỷ lệ mà một người tiêu dùng có
thể đổi một hàng hoá lấy một hàng hoá khác mà không bị kém đi hoặc tốt hơn lên)
giữa hai hàng hoá bất kỳ, tức tỷ lệ lợi ích cận biên của chúng, phải bằng nhau đối
với tất cả mọi người tiêu dùng. Điều kiện này gọi là hiệu quả trao đổi.
Thứ hai, tỷ lệ thay thế cận biên của kỹ thuật (tỷ lệ mà một yếu tố sản xuất có thể
được thay thế cho một yếu tố khác trong khi vẫn duy trì các mức sản lượng), tức là
tỷ lệ sản phẩm hiện vật cận biên, giữa bất cứ hai yếu tố đầu vào nào của sản xuất
phải bằng nhau trong bất cứ quá trình sản xuất nào. Điều kiện này gọi là hiệu quả
sản xuất.
Thứ ba, tỷ lệ biến đổi cận biên (tỷ lệ mà nền kinh tế, xét toàn bộ, phải bỏ qua việc
sản xuất của bất cứ một hàng hoá nào để tăng sản lượng của một hàng hoá khác),
∗
Thuật ngữ Pareto mang tên nhà toán học, kinh tế học người Italy là Vilfredo Domaso Pareto
http://www.ebook.edu.vn
74
tức tỷ lệ chi phí cận biên giữa bất kỳ hai hàng hoá nào cũng phải bằng tỷ lệ thay thế
cận biên trong tiêu dùng của hai hàng hoá đó. Điều này hàm ý rằng tỷ lệ giữa lợi
ích cận biên và chi phí cận biên của các hàng hoá phải bằng nhau
⎛ MB X
MBY ⎞
⎜
⎟
⎜ MC = MC ⎟
X
Y ⎠
⎝
sao cho giá trị bằng tiền của đơn vị hàng hoá X cuối cùng phải tạo ra mức lợi ích
đúng bằng giá trị bằng tiền của đơn vị hàng hoá Y cuối cùng. Điều kiện này được
gọi là điều kiện kết hợp hay hiệu quả kết hợp.
Nếu một cách phân bổ nguồn lực chưa đạt được hiệu quả Pareto thì vẫn còn tồn tại
ít nhất một khả năng thay đổi làm cho một ai đó tốt hơn lên mà không làm tổn hại
đến bất kỳ người nào khác.
Ví dụ, nếu chưa đạt được hiệu quả tiêu dùng, người tiêu dùng có thể cải thiện phúc
lợi của mình bằng cách trao đổi hàng hoá cho nhau; Nếu chưa đạt được hiệu quả
sản xuất, xã hội có thể chuyển đổi đầu vào cho mục đích sản xuất có hiệu quả hơn
và nhờ đó mở rộng sản xuất của một loại hàng hoá trong khi vẫn giữ nguyên mức
sử dụng nguồn lực; Nếu chưa đạt được hiệu quả kết hợp, xã hội sẽ còn có lợi nếu
sản xuất thêm hàng hoá đem lại lợi ích cận biên cao hơn tính trên mỗi đơn vị chi
phí cận biên.
Một sự thay đổi làm cho hoàn cảnh của ít nhất một người tốt hơn lên mà không làm
cho hoàn cảnh của người khác bị tồi đi như vậy được gọi là một hoàn thiện Pareto.
4. Thất bại của thị trường
Phân bổ có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm là một yêu cầu rất quan trọng của bất
kỳ một nền kinh tế nào. Hiệu quả Pareto được coi là một chuẩn mức chung để đánh
giá việc phân bổ nguồn lực. Một sự phân bổ được coi là hiệu quả Pareto đối với
một tập hợp nhất định các sở thích của người tiêu dùng, khi mà các nguồn lực và
công nghệ nếu không có khả năng dịch chuyển tới một sự phân bố khác có thể làm
cho một số người tốt hơn lên mà không làm cho một số người khác nghèo khó hơn.
Trong điều kiện tất cả các thị trường của nền kinh tế là cạnh tranh hoàn hảo thì
điểm cân bằng của nền kinh tế sẽ có tính hiệu quả Pareto. Bởi lẽ ở đó bảo đảm chi
phí cận biên cho việc sản xuất mọi hàng hoá / dịch vụ đúng bằng lợi ích cận biên
của nó đối với người tiêu dùng. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường không hoàn toàn
tối ưu mà chính trong nó cũng vốn có những mặt trái, những thất bại và trục trặc
mà con người không mong muốn. Thất bại của thị trường là thuật ngữ để chỉ các
tình huống trong đó điểm cân bằng của các thị trường tự do cạnh tranh không đạt
được sự phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
Thất bại của thị trường phát sinh do một số vấn đề như:
http://www.ebook.edu.vn
75