Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.36 MB, 308 trang )
- Tài nguyên có khả năng tái sinh là những tài nguyên có thể tự duy trì hoặc bổ
sung một cách liên tục khi được quản lý hợp lý. Tuy nhiên nếu sử dụng, không hợp
lý, tài nguyên này cũng có thể bị cạn kiệt và không thể tái sinh nữa. Ví dụ các
giống loài thực vật, động vật bị giảm sút và tuyệt chủng.
- Tài nguyên không có khả năng tái sinh là những nguồn tài nguyên có một mức độ
giới hạn nhất định trên trái đất, chúng ta chỉ được khai thác chúng ở dạng nguyên
khai một lần, đối với loại tài nguyên này được chia thành ba nhóm:
+ Tài nguyên không có khả năng tái sinh nhưng tạo tiền đề cho tái sinh, ví dụ
như đất, nước tự nhiên....
+ Tái nguyên không có khả năng tái sinh nhưng tái tạo. Ví dụ như kim loại,
thủy tinh, chất dẻo...
+ Tài nguyên cạn kiệt. Ví dụ như than đá, dầu khí....
Tài nguyên
thiên nhiên
Không có khả
năng tái sinh
Cạn kiệt: Dầu khí,
than đá…
Không thể tái sinh
Năng lượng
mặt trời
Không khí
Thổ nhưỡng
Nước
Vi sinh vật
Thực vật
Động vật
Tạo tiền đề tái sinh
Tái tạo: Kim loại,
Thuỷ tinh..
Có khả năng
tái sinh
Hình 1.1. Sơ đồ thể hiện phân loại nguồn tài nguyên tự nhiên
3. Kinh tế tài nguyên
Sống trong xã hội hiện đại, đôi khi chúng ta quên mất rằng, hoạt động kinh tế sử
dụng rất nhiều tài nguyên thiên nhiên ở đầu vào. Nhưng rồi, thực tiễn trong những
năm gần đây đã nhắc chúng ta nhớ đến tầm quan trọng của các nguồn năng lượng
từ hoá thạch như than đá, dầu mỏ và khí thiên nhiên. Nền công nghiệp hoá - dầu đồ
sộ đã tạo dựng cũng dựa vào các nguồn tài nguyên này. Lượng vật tư rất lớn sử
dụng trong các nước công nghiệp và cả trong xã hội mang tên là "xã hội thông tin"
http://www.ebook.edu.vn
31
đều do nhiều tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng cung cấp. Nước là đầu vào
thiết yếu của nhiều quy trình sản xuất đồng thời là nguồn tài nguyên được các hộ
gia đình trực tiếp tiêu thụ. Sản xuất thực phẩm phụ thuộc vào cơ sở tài nguyên thiên
nhiên, hoặc là thu hoạch trực tiếp như đánh bắt cá, hoặc là cung cấp những đầu vào
thiết yếu để cho thực vật và động vật tăng trưởng. Không khí cũng là đầu vào thiết
yếu của hầu hết các quy trình sản xuất.
Như chúng ta đã chỉ ra trong cách phân loại tài nguyên, về cơ bản tài nguyên gồm
hai nhóm : phục hồi được và không phục hồi được. Những tài nguyên sinh vật là
những tài nguyên có thể phục hồi được: chúng lớn lên cùng thời gian theo các quá
trình sinh học. Những tài nguyên không phục hồi được là những tài nguyên mỗi khi
đã sử dụng là hết, không có cách gì hoàn trả lại, không có quy trình nào làm đầy lại
được. Ví dụ như các nguồn dầu mỏ và khoáng sản không cung cấp năng lượng.
Một số nguồn tài nguyên nhất định như nhiều mạch nước ngầm có tốc độ làm đầy
thấp đến mức được coi như là không phục hồi được.
Có một nguồn tài nguyên mà chỉ gần đây mới được con người thừa nhận là đa dạng
sinh học. Nguồn tài nguyên này tồn tại không chỉ ở trong một chất, mà trong một
tập hợp các yếu tố thành phần. Các nhà sinh học ước lượng rằng, hiện nay trên thế
giới có thể có đến 30 triệu giống loài sinh vật, chúng đại diện cho một nguồn rộng
lớn và quan trọng của thông tin di truyền hữu ích đối với sự phát triển thuốc men,
thuốc trừ vật hại thiên nhiên, các loài thực và động vật có sức đề kháng cao, v.v…
Hoạt động của con người đã làm cho tốc độ tuyệt chủng của các giống loài tăng
nhanh. Vì vậy, giữ gìn môi trường sống và bảo tồn giống loài đã trở thành một
trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất hiện nay.
Một trong những đặc điểm để phân biệt hầu hết các nguồn tài nguyên thiên nhiên là
chúng "phụ thuộc nhiều vào thời gian", điều này có nghĩa là việc sử dụng chúng
kéo dài quá thời gian thu hoạch, cho nên tỷ lệ sử dụng trong thời kỳ này sẽ ảnh
hưởng đến sự có sẵn và tỷ lệ sử dụng trong thời kỳ sau. Đối với các tài nguyên
không phục hồi, điều này tương đối dễ nhận biết. Chẳng hạn, dầu được hút ra khỏi
các mỏ dầu năm nay nhiều bao nhiêu thì sẽ càng khó thu được dầu hơn trong
những năm sau đó! Mối quan hệ giữa lợi ích hiện tại và lợi ích tương lai cũng xẩy
ra đối với các tài nguyên có thể phục hồi được. Chẳng hạn, nên tính toán xem có
thể đánh bắt bao nhiêu cá hiện nay để không làm ảnh hưởng đến sản lượng đánh
bắt trong những năm sau, hay là, nên tính toán xem, khai thác gỗ năm nay hay là
chờ một vài năm nữa cho cây đủ lớn, đủ cao rồi mới khai thác.
Rõ ràng, đây là những vấn đề có tầm vóc "liên thời gian" rộng lớn, bao gồm các
mối quan hệ giữa hiện tại và tương lai. Một số vấn đề môi trường cũng có đặc trưng
tương tự như vậy, đặc biệt là khi giải quyết các chất ô nhiễm đang tích tụ hoặc các
chất ô nhiễm cần có thời gian để tiêu huỷ. Trên thực tế, cái đang bị suy giảm đi ở
http://www.ebook.edu.vn
32
đây chính là "khả năng đồng hoá" của Trái Đất, tức là khả năng của hệ thống tự
nhiên có thể chấp nhận được một số chất ô nhiễm nhất định và làm cho chúng trở
nên hữu ích hoặc vô hại.
Một đặc điểm của thế giới hiện đại là ranh giới giữa tài nguyên thiên nhiên và tài
nguyên môi trường, trong nhiều trường hợp, đang bị xoá nhoà. Nhiều quy trình
khai thác tài nguyên như khai thác gỗ, khai thác mỏ có những ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng môi trường. Ngược lại, cũng có nhiều ví dụ về ô nhiễm hoặc suy
thoái môi trường có tác động đến các quy trình khai thác tài nguyên. Ô nhiễm nước
ở cửa sông cản trở sự bổ sung nguồn cá hay ô nhiễm không khí làm giảm sản lượng
nông nghiệp. Một thứ khác, chẳng hạn như đời sống hoang dã, có thể được coi vừa
là tài nguyên thiên nhiên, vừa là thuộc tính của môi trường. Mặc dù khó có thể
minh định rạch ròi tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường, nhưng các nhà
kinh tế cũng đã phân biệt giữa hai dịch vụ của thế giới tự nhiên: là nguyên liệu và
môi trường.
4. Cân bằng vật chất và chất lượng môi trường
Sơ đồ 1. 2: Cân bằng vật chất và quan hệ giữa kinh tế và môi trường
Môi trường thiên nhiên
Đã tái tuần hoàn (Rrp)
Chất thải (RP)
Nguyên
Liệu
Thải bỏ (RPd)
Người sản xuất
Hàng hoá
(G)
Chất thải
Người tiêu thụ
(RC)
Thải bỏ
(RCd)
Đã tái tuần hoàn (Rrc)
Môi trường thiên nhiên
Nguồn: Phiên bản từ Barry C. Field. Environmental Economics:
an introduction. 1994, p.24
Thông qua sơ đồ 2 cho thấy một biểu hiện phức tạp hơn về mối quan hệ giữa kinh
http://www.ebook.edu.vn
33
tế và môi trường thông qua biến đổi của dòng vật chất. Trong sơ đồ này cho ta
thấy, những yếu tố ở bên trong hình bầu dục là các bộ phận của hệ thống kinh tế.
Toàn bộ các yếu tố đó, về cơ bản, được bao bọc bên trong môi trường tự nhiên.
Kinh tế học được chia ra thành hai phân đoạn lớn: "người sản xuất" và "người tiêu
thụ". "Người sản xuất" bao gồm toàn bộ các hãng, công ty thu nạp và chuyển hoá
những đầu vào thành những đầu ra hữu ích. Ngoài ra, "người sản xuất" còn bao
gồm những đơn vị khác như các hãng / công ty công cộng, các tổ chức không lợi
nhuận và các công ty sản xuất dịch vụ như vận tải. Tóm lại, "người sản xuất" là tất
cả các thực thể kinh tế trong hệ thống cho đến bản thân "người tiêu thụ".
Những đầu vào chủ yếu của khu vực sản xuất lấy từ môi trường tự nhiên là các vật
tư ở dạng tự nhiên là các vật tư ở dạng nhiên liệu, khoáng sản và gỗ, chất lỏng như
nước và dầu mỏ, nhiều loại khí như khí tự nhiên và ô xy. Tất cả các loại hàng hoá
và dịch vụ đều bắt nguồn từ các vật tư nhờ sử dụng năng lượng đưa vào. Như vậy,
hàng hoá và dịch vụ đã được sản xuất ra chính là hiện thân của một phần nguồn vật
chất và năng lượng này để rồi sau đó hướng đến "người tiêu thụ". "Người tiêu thụ"
cũng có thể sử dụng nguồn vật chất và năng lượng lấy trực tiếp từ tự nhiên mà
không qua khâu trung gian (người sản xuất). Chẳng hạn, chúng ta có thể dùng nước
giếng khơi tại nhà hoặc lấy củi để đun nấu. Nhưng để đơn giản hoá, những chức
năng này không được tính đến và đưa vào lược đồ. Trong trường hợp đó, chúng ta
có thể coi "người sản xuất" và "người tiêu thụ" là một.
Sản xuất và tiêu thụ tạo nên "chất bã" (chất thải), bao gồm tất cả các loại cặn bã vật
chất có thể thải vào không khí hoặc nước, hay được huỷ bỏ trên mặt đất. Các chất
thải rất nhiều và danh sách của chúng dài đến nỗi không thể tin được: đioxyt lưu
huỳnh, hợp chất hữu cơ bay hơi, dung môi độc hại, phân động vật, thuốc trừ sâu,
các loại bụi lơ lửng, vật liệu xây dựng thải ra, kim loại nặng, vân vân và vân vân.
Năng lượng thải ra dưới dạng nhiệt, tiếng ồn và phóng xạ mang đặc trưng của cả
vật chất và năng lượng cũng là những chất thải quan trọng của sản xuất. "Người
tiêu thụ" cũng phải chịu trách nhiệm về việc thải vào môi trường một lượng chất
thải khổng lồ, đặc biệt là cống rãnh và khí do ô tô thải ra. Tất cả các vật chất kết
tính trong hàng hoá của người tiêu thụ cuối cùng tất yếu phải kết thành các thứ để
lại, ngay cả khi chúng có thể được tái tuần hoàn. Điều này giải thích tại sao ngày
càng có một lượng lớn chất thải rắn, các hoá chất độc hại và dầu đã sử dụng còn tồn
tại.
Trước hết, chúng ta hãy xem xét vấn đề chất thải của sản xuất và tiêu thụ trên quan
điểm hoàn toàn vật lý. Sơ đồ 2 cho thấy vật chất và năng lượng được khai thác từ
môi trường tự nhiên và chất thải được thải trở lại vào môi trường tự nhiên. Định
luật thứ nhất của nhiệt động học - định luật nổi tiếng về bảo toàn vật chất - chỉ cho
chúng ta thấy rằng: trong cuộc "chạy đua đường dài", hai dòng này phải bằng nhau,
http://www.ebook.edu.vn
34