1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Báo cáo khoa học >

LÝ LUẬN XUẤT KHẨU TƯ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.56 KB, 41 trang )


Hai là, khả năng xuất khẩu tư bản xuất hiện do nhiều nước lạc hậu về kinh

tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới, nhưng lại rất thiếu tư bản. Các

nước đó giá ruộng đất lại tương đối hạ , tiền lương thấp , nguyên liệu rẻ, nên

tỷ suất lợi nhuận cao.

Ba là, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn kinh tế – xã hội càng

gay gắt. Xuất khẩu tư bản trở thành biện pháp làm giảm mức gay gắt đó.

2. Các hình thức và hậu quả của xuất khẩu tư bản :



Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, nếu xét cách thức đầu tư

thì có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp





Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí

nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư,

biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình

thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương, nhưng cũng có những

xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một công ty nước ngoài







Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi.

Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc tế và

quốc gia, tư nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo nhiều

hạn định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình

thức này còn được thực hiện bằng việc mua trái khoán hay cổ phiếu của các

công ty ở nước nhập khẩu tư bản.

Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư

bản tư nhân







Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư

sản lấy tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc

viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế,

chính trị và quân sự.

Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành

thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư bản tư nhân.



4



Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản nhằm cứu vãn chế độ chính

trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài.

Về quân sự , viện trợ của nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ

thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân

tham chiến chống nước khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh

thổ của mình hoặc đơn thuần để bán vũ khí.





Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư

nhân thực hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc

gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư

bản tư nhân có đặc điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng

quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư

nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh ,

chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu . Nếu những năm 70 của thế kỷ

XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỷ

này nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.

Nếu xét về cách thức hoạt động , có các chi nhánh của các công ty

xuyên quốc gia , hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung

tâm tín dụng và chuyển giao công nghệ, trong đó, hoạt động dưới hình thức

chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản

thường sử dụng để khống chế nền kinh tế của các nước nhập khẩu tư bản.

Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư bản

chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế, là sự bành trường thế lực của tư bản tài chính

nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới, làm cho các nước nhập khẩu tư bản

bị bóc lột gía trị thặng dư, cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế

nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm cho mâu thuẫn kinh tế – xã hội gia tăng.

3. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện

nay của chủ nghĩa tư bản



Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến

đổi lớn .

5



Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia,

luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước

kém phát triển ( chiếm tỷ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần đây đại

bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau.

Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc

biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng

như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước

đang phát triển giảm mạnh, thậm chí chỉ còn 16,8%(1996) và hiện nay

khoảng 30%.

Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản

không còn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các

nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở

thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế.Sự hợp tác này

diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm

hoàn toàn sai lầm.

Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến

đổi nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80

của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các

ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới,

ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương...Những ngành này có

thiết bị và quy trình công nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên , nhiên vật liệu.

Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ

cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự

xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong

thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật

mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ

tầng kinh tế xã hội lạc hậu , không phù hợp, tình chính trị kém ổn định, sức

mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước ( còn

với nước đang phát triển nhưng đã trở thành Nics thì tỷ trọng của luồng tư bản

6



xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng tư bản xuất khẩu của các nước đang phát

triển). Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung

tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ qủa của hoạt động này bao giờ

cũng hình thành các khối kinh tế với những đaọ luật bảo hộ rất khắt khe. Để

nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các

doanh nghiệp chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh

tế mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây

Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.

Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát

triển không làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi , mà chỉ làm

cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức

tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học- công nghệ

cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của

tư bản tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng

giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó

là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết

bị quy trình công nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ

lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp ( do bị hao mòn hữu hình và vô

hình ). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát triển, những tư liệu sản xuất

này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc

quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước

đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ

nghĩa đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát triển

sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai

đoạn phát triển nhất định , có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư

vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn của

quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản

độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của



7



các nước đang phát triển ở châu á, Phi , Mỹ Latinh là thực tế chứng minh

cho kết luận trên.

Thứ hai là chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn , trong đó vai trò

các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt

là trong FDI . Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các

nước đang phát triển mà nổi bật là các Nics châu á.

Thứ ba là hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất

khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp

xuất hiện những hình thức mới như BOT,BT...sự kết hợp giữa xuất khẩu tư

bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừng

tăng lên.

Thứ tư là sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được

gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.

Ngày nay , xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó

làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa

bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động và

quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong những nhân tố cực

kỳ quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công nghiệp hoá

và tái công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu tư bản phát triển

nhanh chóng . Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại cho các quốc gia

nhập khẩu tư bản, nhất là với các nước đang phát triển những hậu quả nặng nề

như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị

bóc lột quá nặng nề. Song điều này tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò

quản lý của nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản. Lợi dụng mặt tích cực của

xuất khẩu tư bản , nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh

quá trình công nghiệp hoá ở nứơc mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng

mềm dẻo,linh hoạt , nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để

khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.



8



4. . Những điều kiện cần thiết để các DN tiến hành hoạt động xuất khẩu tư bản

A. Về phía doanh nghiệp



Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư đều mong

muốn thu được một kết quả kinh doanh tốt nhất, cũng như vậy khi tham gia

vào hoạt động xuất khẩu tư bản thì nhà đầu tư cần phải xét xem hoạt động

đầu tư của mình có thể mang lại hiệu quả hay không, có thể tồn tại và phát

triển trong điều kiện môi trường kinh doanh mới hay không, có thể khai thác

được những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp một cách có lợi nhất nhằm

thu được lợi nhuận cao nhất hay không. Như vậy, nhà đầu tư sẽ xem xét xem

doanh nghiệp có đáp ứng đủ những yêu cầu cần thiết sau hay không:

- Trước hết các doanh nghiệp cần có tiềm lực tài chính mạnh :

Như chúng ta đã biết, xuất khẩu tư bản thực chất là 1 quá trình di chuyển

vốn từ nước đầu tư tới nước nhận đầu tư. Vốn đầu tư bao gồm các nguồn lực

tài chính và nguồn lực hiện vật để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh

doanh, xây dựng thêm nhà máy mới, duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất

kinh doanh.. Vốn là một yếu tố không thể thiếu đối với bất kì một hoạt động

đầu tư nào. Do đó muốn cạnh tranh trên thị trường thì các doanh nghiệp phải

đủ mạnh, nghĩa là phải có một nguồn vốn dồi dào, có đủ năng lực thực hiện

các hoạt động đầu tư nhằm thu được lợi nhuận.

- Các doanh nghiệp cần có KHCN có thể cạnh tranh trên thị trường nước

nhận đầu tư hoặc có bí quyết riêng trong sản xuất sản phẩm.

Cạnh tranh là 1 tất yếu trên thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp thể hiện chủ yếu ở hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh ở hiện

tại cũng như trong tương lai, các sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra có khả

năng cạnh tranh cao, được người tiêu dùng chấp nhận và bảo đảm được thị

trường tiêu thụ, doanh nghiệp được tổ chức hợp lý, năng động, áp dụng công

nghệ tiên tiến, có đội ngũ cán bộ và công nhân có trình độ chuyên môn cao,

có khả năng tiếp cận với các nguồn vốn cho việc đầu tư theo chiều rộng và

chiều sâu. Để có thể thắng được đối thủ cạnh trạnh thì việc áp dụng nhiều

phương pháp quản lý mới nhằm rút gọn bộ máy, tái cấu trúc quá trình kinh

9



doanh, giảm chi phí,.. nâng cao hiệu quả hoạt động là cần thiết để xoá bỏ

những bất lợi. Tuy nhiên những cải thiện đó chỉ giúp cho các doanh nghiệp

tồn tại trong cạnh tranh mà chưa đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh. Muốn

có thể đánh bại được đối thủ trong cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải tạo ra

được lợi thế cạnh tranh cho mình và luôn thay đổi để tạo ra thị trường chứ

không chỉ tìm cách nâng cao thị phần, vượt qua những bất lợi. Bấtkỳ một

doanh nghiệp nào cũng đều có khả năng cạnh tranh, chỉ khác nhau là ở mức

độ mạnh hay yếu. Theo quy luật tất yếu của thị trường thì doanh nghiệp nào

có khả năng cạnh tranh mạnh hơn thì doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng không

những ở thị trường trong nước mà cả ở ngoài nước. Năng lực cạnh tranh

mạnh mẽ bảo đảm cho doanh nghiệp có thể tồn tại và chiến thắng ở nơi mà

doanh nghiệp tiến hành đầu tư sản xuất. Như vậy khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp chính là điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp tiến hành đầu tư ở

bất cứ đâu. Đối với các doanh nghiệp đến từ các nước đang phát triển, với

xuất phát điểm thấp, thiếu vốn, thiếu trình độ tổ chức quản lý, công nghệ chưa

cao,… thì cần có một chiến lược cạnh tranh hợp lý, tạo ra nội lực từ trong

chính doanh nghiệp, như vậy mới có thể tiến hành hoạt động xuất khẩu tư

bản.

Đối với các nước đang phát triển như Vịêt Nam, trình độ KHCN không

cao nên khi thực hiện hoạt động xuất khẩu tư bản một cách trực tiếp thì việc

sản xuất các sản phẩm truyền thống, các sản phẩm sử dụng bí quyết riêng

trong sản xuất là một giải pháp phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Như vậy do

đặc điểm riêng có đó mà sản phẩm sẽ có tính cạnh tranh cao và dễ được chấp

nhận trên thị trường bởi vì đó là những sản phẩm mang đậm nét truyền thống

của dân tộc, lạ và độc đáo.

- Doanh nghiệp cần có nguồn nhân lực đủ năng lực quản lý, sản xuất kinh

doanh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh doanh.

Trong bất kỳ một hoạt động đầu tư nào, nhà đầu tư cũng đều mong muốn

có một kết quả kinh doanh tốt nhất. Và để có thể hoạt động đầu tư có hiệu quả

10



thì nhân tố con người luôn đựoc đánh giá rất quan trọng. Điều đó được thể

hiện ở các yếu tố như trình độ chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý, …Trong

tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay thì hoạt động đầu tư nước ngoài cũng từng

bước đi vào chiều sâu trong cơ chế thị trường luôn nhiều biến động. Vì vậy

cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ tiếp nhận và hướng dẫn đầu tư có trình

độ năng lực sâu sát để phân tích tình hình, lựa chọn đối tác đầu tư đúng như

mục tiêu đề ra. Đặc bịêt điều quan trọng nhất trong đội ngũ lao động của

doanh nghiệp là những nhà quản lý và điều hành phải có trình độ hiểu biết,

trước hết là ở lĩnh vực mà mình đang kinh doanh, biết khai thác triệt để mọi

nguồn lực trong doanh nghiệp và tận dụng mọi cơ hội đầu tư…Bên cạnh đó

đội ngũ công nhân viên làm việc cho doanh nghiệp cũng phải có trình độ kỹ

thuật cao, tác phong làm việc công nghiệp… các thành viên trong doanh

nghiệp phải biết đoàn kết đưa doanh nghiệp trở thành một lực lượng vững

mạnh trên thị trường. Mặt khác do sự khác biệt về ngôn ngữ, khác biệt về văn

hoá, tập quán, luật pháp mà các doanh nghiệp khi xuất khẩu tư bản phải nhận

thức được sâu sắc về nhiều mặt, tính độc lập cao. Và kỹ năng xử lý các tình

huống, nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực. Trước khi xuất

khẩu tư bản các doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ trình độ của công nhân

viên rồi mới tiến hành hoạt động đưa họ ra nước ngoài, làm sao để họ có thể

thích ứng được với môi trường làm việc mới. Có như vậy thì hoạt động sản

xuất kinh doanh mới có thể thành công, đem lại hiệu quả.

B. Về nhà nước



- Tăng cường hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ xuất khẩu tư bản của Nhà

nước bằng các biện pháp như ban hành các quy chế khuyến khích, hỗ trợ, tạo

điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu tư bản .

- Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới về mọi mặt để

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện xuất khẩu tư bản một

cách thuận lợi hơn bằng việc ký kết các hiệp ước, các thoả thuận , cam kết về



11



hợp tác kinh tế giữa các nước. Như Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt

Nam và Hoa Kỳ ..



12



Chương II

Thực trạng xuất khẩu tư bản tại Việt Nam

1. Những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động

xuất khẩu tư bản

- Việc gia nhập WTO



Ngày 7/11/2006 vừa qua, Vịêt Nam chính thức trở thành thành chính thức

thứ 150 của tổ chức WTO qua 11 năm và hơn 200 cuộc đàm phán. Dù lâu

nhất, nhiều nhất trong các đàm phán giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế,

nhưng chúng ta vẫn kiên trì cho mục đích gia nhập tổ chức thương mại này.

Bởi đây thực sự là sân chơi lớn mang tính toàn cầu. Sau khi gia nhập, Việt

Nam sẽ tăng vị thế của mình trên trường quốc tế; có điều kiện chủ động tham

gia chính sách thương mại toàn cầu; đồng thời tập trung xây dựng, điều chỉnh

hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp xu thế chung, thu hút các nhà đầu tư

trong nước và ngoài nước...

Việt Nam đang phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh. Muốn đạt được điều này, kim ngạch xuất khẩu của

chúng ta phải đạt 100 tỷ USD mỗi năm và kim ngạch nhập khẩu cũng tương

đương. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, nhưng kim

ngạch mới đạt 32,5 tỷ USD và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu đang bị phân biệt

đối xử. Gia nhập WTO, chúng ta sẽ được bình đẳng tham gia thị trường toàn

cầu để phát triển kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư và hàng hóa, dịch vụ sẽ

không bị phân biệt đối xử, sẽ dỡ bỏ được nhiều rào cản và được hưởng những

ưu đãi dành cho thành viên WTO. Như vậy cơ hội xuất khẩu tư bản sẽ được

mở rộng cửa đối với các doanh nghiệp Việt Nam.

-



Kí kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ



Hiệp định thương mại song phương Vịêt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực vào

ngày 10/12/2001, đã bình thường hóa quan hệ thương mại và đầu tư giữa Vịêt

Nam và Hoà Kỳ. Hiệp định đã mở ra thị trường Hoa Kỳ khổng lồ cho các nhà

xuất khẩu Vịêt Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các nước khác. Các

13



cam kết toàn diện trong hiệp định sẽ không những thức đẩy thươg mại 2 chiều

giữa 2 nước mà còn tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Vịêt

Nam đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ và các nước khác.

Sau khi hiệp định thương mại có hiệu lực, 1 số nhà đầu tư như công ty

bánh kẹo Kinh Đô đã đầu tư vào thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên tỷ trọng vốn

đầu tư thực hiện của Vịêt Nam tại Hoa Kỳ chỉ chiếm gần 1% tổng đầu tư thực

hiện ra nước ngoài của Vịêt Nam, và vốn đăng ký chỉ chiếm 3% trong tổng số

vốn đăng ký xuất khẩu tư bản của Vịêt Nam. Như vậy thực tế cho thấy việc

đầu tư vào Hoa Kỳ của các doanh nghiệp Vịêt Nam còn rất ít, chưa đáng kể.

Trong khi, đầu tư vào Hoa Kỳ là 1 trong những cách để thâm nhập vào

thị trường Hoa Kỳ và các doanh nghiệp Vịêt Nam có thể tận dụng thêm cơ hội

đầu tư tại nước này. Con số thống kê cho thấy dường như các doanh nghiệp

Vịêt Nam chưa tận dụng hết các cơ hội đầu tư mà mới chỉ tận dụng cơ hội

xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nhìn chung thị trường Hoa Kỳ là thị trường lớn và

việc thực hiện đầu tư tại Hoa Kỳ sẽ giúp doanh nghiệp Vịêt Nam tạo thế đứng

vững chắc trên thị trường này. Kinh nghiệm của các nước khác đã chỉ rõ điều

này. Như hãng Honda của Nhật Bản đã đầu tư rất nhiều vào các nhà máy lớn

ở Hoa Kỳ để không chỉ xuất khẩu xe hơi sang Hoa Kỳ mà còn coi đây là 1

trung tâm sản xuất của mình phục vụ cho thị trường Hoa Kỳ và các nước

khác. 1 ví dụ khác mà các doanh nghiệp Vịêt Nam có thể học hỏi , đó là

trường hợp hãng Haier của trung Quốc. Hãng này đã coi đầu tư vào Hoa Kỳ

là 1 cách làm có hiệu quả để củng cố vị thế của hãng tại Hoa Kỳ và là cách để

tránh các vụ kiện bán phá giá. Do đó các doanh nghiệp Vịêt Nam cần tìm hiểu

kỹ hơn cơ hội đầu tư vào Hoa Kỳ theo cam kết của hiệp định.

A Những cơ hội:

Doanh nghiệp Vịêt Nam có cơ hội lựa chọn địa chỉ đầu tư thích hợp, từ đó

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Trong bối cảnh xu hướng tự do hoá đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện

nay các quốc gia trên thế giới hầu hết đều thực thi những biện pháp khuyến

14



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

×