1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 237 trang )


4



gì” cũng rất mơ hồ. Nhận đònh về việc nghiên cứu tục ngữ trong giai đoạn này,

tác giả cho rằng: “我国古代的俗语研究虽然取得了不少成就,但总的来说,还

是处在不自觉的朦胧状态 (nghiên cứu tục ngữ thời cổ của nước ta tuy đạt được

một số thành tựu, nhưng tóm lại vẫn ở trong tình trạng mông lung, không rõ

ràng)” [135, tr.32].

Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời (1949), công việc nghiên

cứu và thu thập, chỉnh lí tục ngữ đạt được rất nhiều thành quả và có những bước

phát triển mới. Những chuyên khảo nghiên cứu lí luận về tục ngữ được triển khai

toàn diện. Có thể kể đến “Ngạn ngữ” của Ôn Đoan Chính [134]; “Tục ngữ” của

Mã Quốc Phàm, Mã Thúc Tuấn [127]; “Trung Hoa ngạn dao nghiên cứu” của

Vũ Chiêm Khôn [138]; “Tục ngữ” của Từ Tông Tài [141] và nhiều bài nghiên

cứu khác đăng trên tạp chí khoa học.

Nhìn chung, phạm vi nghiên cứu tục ngữ ngày nay tương đối sâu, rộng. Các

tác giả không những chỉ chú ý đến tính chất, nội dung và hình thức của tục ngữ

mà còn chú ý nghiên cứu phương diện ngữ dụng nữa.

2.1.1. Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ cấu trúc cú pháp

Như trên đã nói, các sách nghiên cứu tục ngữ Hán hiện nay đa số đều đề cập

đến nhiều khía cạnh của tục ngữ. Nhưng cũng có thể nhận thấy khuynh hướng đi

sâu nghiên cứu tục ngữ ở một số lónh vực của một số tác giả. Chú ý phân tích

cấu trúc cú pháp tục ngữ có Mã Quốc Phàm, Mã Thúc Tuấn [127], Vũ Chiêm

Khôn [138]. Đồng tình với quan điểm chung của các nhà Hán học, cho rằng tục

ngữ tương đương với đơn vò câu, tác giả Mã và Vũ đều phân tích tục ngữ theo

quan điểm ngữ pháp truyền thống của tiếng Hán [x. chương 2]. Theo họ, cấu trúc



5



cú pháp tục ngữ cũng có các kiểu câu đơn, câu ghép và một số cấu trúc đặc thù.

Trong các tài liệu chúng tôi khảo sát không thấy có ý kiến khác biệt, không thấy

khuynh hướng nghiên cứu khác về cấu trúc cú pháp tục ngữ, các nhà nghiên cứu

hoặc không phân tích sâu, hoặc đều phân tích chúng theo cấu trúc cú pháp

truyền thống.

2.1.2. Nghiên cứu tục ngữ từ góc độ ngữ nghóa

Các nhà Hán học nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nắm vững ngữ nghóa

tục ngữ vì nó liên quan trực tiếp đến việc lí giải và vận dụng tục ngữ một cách

chính xác. Ngoài ra họ còn đề cập cụ thể đến những vấn đề như: nghóa mặt chữ

và nghóa thực tế của tục ngữ; tính đơn nghóa và tính đa nghóa của tục ngữ; tục

ngữ đồng nghóa và tục ngữ phản nghóa.

Theo Ôn Đoan Chính [134], nghóa mặt chữ (字面意义 tự diện ý nghóa) của

tục ngữ là nghóa được suy ra trực tiếp từ những từ và quan hệ ngữ pháp bao hàm

trong tục ngữ. Nghóa thực tế (实际意义 thực tế ý nghóa)của tục ngữ chỉ nghóa

được sử dụng trong thực tế của tục ngữ. Sau khi phân tích mối quan hệ giữa

nghóa mặt chữ và nghóa thực tế, tác giả phân chúng thành ba nhóm sau:

(1) Nghóa mặt chữ và nghóa thực tế giống nhau, nghóa mặt chữ là nghóa đen.

(2) Nghóa mặt chữ và nghóa thực tế không giống nhau. Nghóa mặt chữ không

có tác dụng biểu ý, nghóa thực tế trong câu mới là nghóa được sử dụng.

(3) Có hai nghóa thực tế, một nghóa giống nghóa mặt chữ, còn một nghóa là

nghóa phái sinh.

Về tính đơn nghóa và đa nghóa của tục ngữ, tác giả Ôn cho rằng tục ngữ đơn

nghóa là một câu tục ngữ chỉ truyền thụ tri thức ở một lónh vực nào đó, những tri



6



thức đó được xác nhận và chỉ có một cách giải thích. Tục ngữ đa nghóa là tục ngữ

có từ hai ý nghóa trở lên. Trong tục ngữ không hiếm hiện tượng “nhất ngữ đa

ngôn”, có tục ngữ có hai nghóa thực tế – nghóa đen và nghóa phái sinh, từ đó hình

thành hiện tượng cùng tồn tại tầng nghóa bề mặt (浅层义 thiển tầng nghóa) và

tầng nghóa bên trong (深层义 thâm tầng nghóa). Tuy có thể đa nghóa, nhưng

khi sử dụng trong ngữ cảnh cụ thể, mỗi câu tục ngữ thường cũng chỉ mang một

nghóa nhất đònh.

Cùng quan điểm trên còn có Từ Tông Tài [141], ngoài việc đề cập tới tính

đơn nghóa và đa nghóa của tục ngữ, ông còn đưa ra một loại nữa là tính thiên

nghóa (偏义性). Tục ngữ thiên nghóa là dạng thức tục ngữ do hai bộ phận tạo

thành, trong đó một bộ phận là chính, một bộ phận là phụ. Bộ phận chính biểu

thò nghóa chính của tục ngữ, bộ phận phụ biểu thò nghóa phụ, nó có tác dụng so

sánh và làm rõ nghóa mà tục ngữ muốn biểu đạt. Câu tục ngữ “饭多伤胃,话多

伤人 phạn đa thương vò, thoại đa thương nhân” (cơm nhiều hại dạ dày, lời nhiều

hại người), trong đó cơm nhiều hại dạ dày là nghóa phụ để nhấn mạnh, làm nổi

rõ nghóa chính lời nhiều hại người.

Thực ra, nghóa mặt chữ hay nghóa thực tế (dùng theo thuật ngữ các nhà Hán

học) cũng tương đương với nghóa đen hay nghóa bóng hoặc nghóa biểu trưng trong

tục ngữ Việt (x. 2.2). Thiết nghó, đó cũng là những đặc điểm chung về mặt ngữ

nghóa của tục ngữ nhiều dân tộc.

2.2. Tình hình nghiên cứu tục ngữ ở Việt Nam

Việc sưu tầm biên soạn tục ngữ ở Việt Nam cũng xuất hiện từ rất sớm. Chỉ



7



tính trong khoảng 40 năm nửa đầu thế kỉ XX, khá nhiều sách về tục ngữ được

biên soạn, xuất bản. Cuốn sách biên soạn tục ngữ in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên

là “Tục ngữ cổ ngữ gia ngôn”, tác giả là Huỳnh Tònh Của, xuất bản năm 1896

[dẫn theo 68, tr.28]. Ngoài ra có thể kể đến một số sách khác như “Nam ngạn

chích cẩm” của Phạm Quang Sán (1918), “Việt Nam ngạn ngữ phương ngôn

thư” của Nguyễn Văn Lễ (1931), v.v. Những sách này chủ yếu dừng lại ở mức

thu thập, biên soạn, cùng lắm là có thêm phần chú giải tục ngữ. Tuy nhiên,

những tư liệu thu thập tục ngữ đó rất có giá trò về phương diện bảo tồn phong tục

tập quán, nói rộng hơn là bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt.

Chúng ta có thể nhận thấy điều này trong lời tựa của “Nam âm sự loại”: “Nước

Nam ta phương ngôn tục ngữ cùng là lời ca, câu dở, câu hay cũng đều truyền cả.

Câu hay để cho người bắt chước, câu dở để cho người răn chừa, không mất tiền

mua, đáng trăm quan quý” [dẫn theo 74, tr. 509].

Năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất. Trang sử mới của

nước nhà tạo cơ hội tốt cho sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên cũng

như xã hội. Nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu tục ngữ và một số

công trình chuyên khảo về tục ngữ được ra đời. Những chuyên khảo này không

đơn thuần chỉ là sưu tầm và chú giải tục ngữ, mà còn tìm hiểu tục ngữ từ nhiều

khía cạnh, trong đó cấu trúc và ngữ nghóa của tục ngữ được các tác giả đi sâu

khai thác, nghiên cứu.

Chúng ta có thể kể đến những công trình nghiên cứu về tục ngữ như: “Tục

ngữ Việt Nam” của nhóm Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri [27];

“Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc & thi pháp” của Nguyễn Thái Hòa [59], “Tìm hiểu

thi pháp tục ngữ Việt Nam” của tác giả Phan Thò Đào [35] và hàng loạt các bài



8



nghiên cứu tục ngữ đăng trong các tạp chí: Ngôn ngữ, Văn hoá dân gian, Văn học

cùng một số luận án tiến só nghiên cứu về tục ngữ trong mấy năm gần đây.

Ở Việt Nam, có thể thấy cách tiếp cận nghiên cứu tục ngữ theo các khuynh

hướng sau:

2.2.1. Tiếp cận cấu trúc cú pháp tục ngữ theo quan điểm ngữ pháp chức năng

Theo quan điểm ngữ pháp chức năng, cấu trúc câu là mô hình Đề –Thuyết.

Quan điểm phân tích cú pháp tục ngữ theo mô hình đề thuyết đầu tiên có thể kể

đến tác giả Cao Xuân Hạo trong Ngữ pháp chức năng tiếng Việt [54]. Theo ông,

mô hình đề thuyết có thể phân nhỏ thành câu một bậc (kiểu câu mà cả Đề lẫn

Thuyết đều không thể chia tiếp thành hai phần đề và thuyết ở bậc thấp hơn) và

câu nhiều bậc (kiểu câu mà Đề hoặc/ và Thuyết bậc trên được cấu tạo bằng một

cấu trúc đề thuyết bậc dưới). Ông dùng biểu đồ hình cây biểu diễn cấu trúc cú

pháp tiếng Việt trong đó bao gồm cấu trúc cú pháp tục ngữ Việt [54, tr.72,73].

Ngoài ra để có thể dễ dàng phân đònh ranh giới giữa Đề và Thuyết, các tác giả

còn đưa ra một số từ giữ vai trò là phương tiện phân giới Đề – Thuyết. Đó chủ

yếu là các từ “thì”, “là”, “mà”.

Nguyễn Đức Dương trong “Tìm về linh hồn tiếng Việt” [32] cùng một quan

điểm về mô hình đề-thuyết. Ông đã sử dụng cách biểu diễn cấu trúc cú pháp

bằng biểu đồ hình cây của Cao Xuân Hạo để tiến hành phân tích cấu trúc cú

pháp tục ngữ. Theo ông, vận dụng mô hình đề-thuyết giúp nhận diện cấu trúc cú

pháp của mọi đơn vò tục ngữ dễ dàng, mau lẹ.

Có thể tìm thấy cùng chung cách tiếp cận tục ngữ từ góc độ ngữ pháp chức

năng trong luận án tiến só “So sánh cấu trúc – chức năng của thành ngữ và tục

ngữ tiếng Việt” của Hoàng Diệu Minh [79]. Theo tác giả trong tiếng Việt, câu có



9



cấu trúc đề-thuyết, tục ngữ cũng vậy. Hoàng Diệu Minh dùng cách phân tích câu

và dựa vào các dấu hiệu hình thức và các tác tử phân giới thì, là, mà để phân

tích và phân loại tục ngữ theo cấu trúc câu đơn, câu ghép. Vấn đề được nghiên

cứu trong luận án về ngữ pháp chức năng đối với cú pháp tục ngữ là sự tiếp thu

những thành tựu các công trình đi trước. Bằng cách nhìn của phương pháp nghiên

cứu ngôn ngữ học hiện đại, liên quan chặt chẽ với lí thuyết ngữ pháp chức năng,

luận án giúp chúng ta có thể nhận rõ mối quan hệ tất yếu giữa ba bình diện: Kết

học, Nghóa học và Dụng học. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,

mục đích và phương tiện.

Cách tiếp cận cấu trúc cú pháp tục ngữ Việt theo quan điểm ngữ pháp chức

năng có nhiều thuận lợi và cũng có những cơ sở thuyết phục (như các tác giả đã

chứng minh), nhất là đối với những kiểu chuỗi câu rút gọn thường xuất hiện trong

tục ngữ như: Chó treo mèo đậy; Nhất vợ, nhì trời; Bố gậy tre, mẹ gậy vông, v.v.

2.2.2. Tiếp cận cú pháp tục ngữ từ góc độ cấu trúc lôgích - ngữ nghóa

Đi theo hướng khảo sát, phân tích tục ngữ từ góc độ lôgích, Nguyễn Đức

Dân [25] gợi mở hướng nghiên cứu cấu trúc tục ngữ theo quan điểm lô gích –

ngữ nghóa. Tác giả đưa ra những dẫn chứng cụ thể cho thấy rằng tục ngữ có

những cấu trúc đặc thù ít thấy ở câu thông thường. Bằng những cấu trúc lô gích ngữ nghóa khái quát, tác giả chứng minh rằng một số câu tục ngữ tuy dùng những

phương thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau nhưng lại có cấu trúc lô gích như nhau.

Giải mã nghóa tục ngữ theo kiểu này tương đối chặt chẽ và chuẩn xác.

Chúng ta có thể hiểu rằng cấu trúc lô gích là bất biến ngữ nghóa của hai hay

nhiều câu tục ngữ. Đặc trưng của mối quan hệ giữa các quan hệ và thuộc tính

của chúng đã tạo ra nghóa cơ bản của tục ngữ. Thực tế cho thấy một số câu tục



10



ngữ là những biến thể ngôn ngữ của một bất biến ngữ nghóa, bất biến ngữ nghóa

chính là nghóa khái quát hay nghóa biểu trưng của tục ngữ.

Gần đây, Nguyễn Q Thành trong luận án tiến só Cấu trúc cú pháp – ngữ

nghóa của tục ngữ Việt trong sự so sánh với tục ngữ của một số dân tộc khác [95]

tập trung nghiên cứu cấu trúc cú pháp tục ngữ xuất phát từ đặc điểm nội dung

khái quát nhất của tục ngữ để tìm hiểu các cấu trúc đặc thù một cách có hệ

thống. Từ việc phân tích nội dung, hình thức của từng câu tục ngữ Việt, tiếp thu

quan điểm của cấu trúc lôgích – ngữ nghóa, tác giả rút ra ba cặp mệnh đề ngữ

nghóa khái quát nhất phản ánh nhận thức chung của dân gian về thế giới. Đó là:

(1) Cái này thì có/ không có đặc điểm này; (2) Cái này thì tương đương/ không

tương đương cái kia; (3) Cái này thì dẫn tới cái kia tương hợp/ không tương hợp.

Theo tác giả, ba cặp mệnh đề ngữ nghóa khái quát này có thể gọi là cấu trúc

cú pháp – ngữ nghóa (cấu trúc nghóa lô gích trong mối quan hệ với cấu trúc cú

pháp của tục ngữ). Mỗi cấu trúc nghóa khái quát lại bao gồm các mệnh đề lô

gích ngữ nghóa cụ thể hơn. Các mệnh đề ngữ nghóa khái quát được thể hiện trong

các hình thức cú pháp chứa đựng tín hiệu đònh hướng nghóa, có thể gọi là những

cấu trúc ngữ nghóa – cú pháp của tục ngữ. Tác giả trình bày trong luận án của

mình 116 mô hình ngữ nghóa - cú pháp của tục ngữ Việt.

Luận án của tác giả đã đưa ra một hướng tiếp cận mới, có tính khả thi đối

với việc phân tích cấu trúc ngữ nghóa của tục ngữ.

2.2.3. Tiếp cận cú pháp tục ngữ từ các kiểu khuôn hình tục ngữ

Nguyễn Thái Hòa trong “Tục ngữ Việt Nam – cấu trúc & thi pháp” [59] phân

tích cú pháp tục ngữ theo những yếu tố hình thức của tục ngữ: vần, nhòp, kiến

trúc sóng đôi. Về ngữ nghóa tục ngữ, tác giả cho rằng một phần gắn với quan hệ



11



cú pháp và phần khác gắn liền với cảnh huống giao tiếp cụ thể, tương đương với

kết cấu vừa bề mặt, vừa bề sâu thường thấy của một câu tục ngữ. Trên cơ sở

phân tích cơ cấu ngữ nghóa – cú pháp, kết hợp với cấu trúc đặc thù của tục ngữ,

Nguyễn Thái Hoà đi sâu phân loại tục ngữ theo các kiểu khuôn hình tục ngữ, cụ

thể là ba kiểu câu cơ bản của những khuôn hình tục ngữ: kiểu câu có quan hệ

hạn đònh trực tiếp; kiểu câu so sánh; kiểu câu phối thuộc. Trong mỗi kiểu lại còn

có thể chia thành những kiểu nhỏ hơn.

Tuy nghiên cứu cú pháp tục ngữ theo những khuôn hình cơ bản riêng, nhưng

tác giả vẫn phần nào gắn kết các kiểu câu với cấu trúc cú pháp truyền thống

(cấu trúc C - V). Phương pháp mô hình hoá cấu trúc tục ngữ của tác giả cho thấy

các câu tục ngữ đa số được triển khai theo các khuôn hình sẵn có, từ giản đơn

đến phức hợp. Hướng nghiên cứu này vừa có tính vó mô vừa có tính vi mô, từ

những mô hình khái quát, tường tận đến cả những mô hình mang tính chất cá

biệt. Tục ngữ gắn liền với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân, để thống

kê đầy đủ kho tàng tục ngữ dân tộc và qui nạp theo từng mô hình thứ, bậc là một

việc làm hết sức công phu và đòi hỏi nhiều thời gian mới có thể chu đáo được.

2.2.4. Tiếp cận nghiên cứu tục ngữ từ góc độ ngữ nghóa

Tục ngữ đặc biệt phong phú trong lónh vực đúc kết kinh nghiệm sống, kinh

nghiệm sản xuất. Nhiều câu tục ngữ có tính khái quát cao, mang đậm nét triết lí,

thậm chí có những câu tục ngữ còn được coi như chân lí, là kim chỉ nam soi rọi

và dẫn dắt con người trong lónh vực đối nhân xử thế. Chu Xuân Diên trong cuốn

“Tục ngữ Việt Nam” [27, tr.149] khẳng đònh: “Mỗi câu tục ngữ là nội dung của

một kinh nghiệm nhất đònh”. Song không phải trong bất cứ trường hợp nào, nội

dung kinh nghiệm của một câu tục ngữ cũng được hiểu một cách bất biến. Trong



12



quá trình vận dụng, những nội dung mà tục ngữ biểu đạt thường được mở rộng

“khiến cho ý nghóa của kinh nghiệm ấy có khả năng bao hàm được cả nhận thức

về bản chất và tính qui luật của nhiều hiện tượng trong thế giới khách quan” [27,

tr.142]. “Nội dung nhất đònh” mà tác giả đề cập đến có thể hiểu đó chính là

nghóa đen của tục ngữ, còn “kinh nghiệm có khả năng bao hàm được cả nhận

thức về bản chất và tính qui luật của nhiều hiện tượng trong thế giới khách

quan” có thể hiểu đó là nghóa bóng của tục ngữ. Tác giả kết luận: “Trong vốn

tục ngữ của người Việt, bên cạnh những câu có một nghóa – nghóa đen, còn có

rất nhiều câu có hai nghóa – nghóa đen và nghóa bóng” [27, tr.142].

Từ góc độ ngữ nghóa học, Hoàng Văn Hành [50, tr.59] nhận đònh rằng trong

mỗi câu tục ngữ không chỉ có cấu trúc ngữ pháp, mà còn có cấu trúc ngữ nghóa.

Cấu trúc này bao gồm cả những yếu tố thuộc về nội dung miêu tả hiện thực

(chức năng đònh danh) cũng như dụng ý thông báo (chức năng thông tin). Theo

tác giả, cấu trúc ngữ nghóa của tục ngữ giống với cấu trúc ngữ nghóa của mọi câu

nói thông thường vì với nghóa đen nó cũng biểu thò một cảnh huống (các sự vật

hay hiện tượng trong những mối quan hệ với nhau), sự khác nhau giữa chúng là

nghóa đen của tục ngữ thường chỉ dừng lại ở sự đúc kết kinh nghiệm trong lónh

vực sản xuất, thiên văn, v.v. Nhưng ở nhiều trường hợp, ngữ nghóa tục ngữ sẽ

được chuyển hóa trong những câu tục ngữ có khả năng ẩn dụ, ngữ nghóa những

câu tục ngữ thuộc loại này đã không chỉ dừng lại ở tầng nghóa cơ sở (tầng nghóa

đen) mà còn được hiểu theo nghóa bóng. Cũng theo Hoàng văn Hành “tục ngữ

nào càng miêu tả đúng những chi tiết, những sự kiện và hoàn cảnh điển hình, thì

giá trò tổng kết của nó càng cao và phạm vi ứng dụng của nó càng rộng. Bởi vì

chi tiết và hoàn cảnh điển hình do tục ngữ miêu tả ở tầng nghóa cơ sở trong



13



trường hợp đó đã tạo tiền đề cho những mối liên hội ngữ nghóa về sau,. .. khiến

người ta liên hội từ những mối quan hệ tất yếu giữa các sự kiện cụ thể trong

thiên nhiên đến những mối quan hệ tương tự trong đời sống xã hội” [50, tr.59]. Ở

đây chúng ta có thể thấy, tuy không biểu đạt một cách cụ thể nhưng tác giả cũng

đã gián tiếp thừa nhận tính nhiều nghóa của tục ngữ, chí ít cũng là nghóa đen

(tầng nghóa cơ sở) và nghóa bóng (nghóa liên hội).

Bàn về nghóa của tục ngữ, xuất phát từ những tiêu chí khác nhau, các nhà

nghiên cứu cũng đưa ra kết quả phân loại nghóa tục ngữ theo quan điểm của

riêng mình. Song tựu trung lại, đa số đều thống nhất về tính hai tầng nghóa của

tục ngữ. Theo họ, nghóa các câu câu tục ngữ phần lớn mang hai tầng nghóa:

nghóa đen và nghóa bóng, cũng có học giả còn chỉ ra nghóa khái quát, nghóa biểu

trưng của tục ngữ.

Trần Mạnh Thường trong “Tục ngữ ca dao Việt Nam chọn lọc” nhận đònh:

“Về hình thức, tục ngữ thường dùng hình ảnh, sự việc, hiện tượng cụ thể có thực

trong đời sống xã hội và thiên nhiên để khái quát thành ý niệm trừu tượng. Nói

khác đi, tục ngữ thường dùng cái riêng lẻ, cá biệt để nói lên cái phổ biến. Do đó

mỗi câu tục ngữ bao giờ cũng bao hàm hai nghóa: nghóa đen và nghóa bóng. Cái

cụ thể riêng lẻ sẽ tạo thành nghóa đen, cái trừu tượng, phổ biến tạo thành nghóa

bóng” [98, tr. 5].

Cùng quan điểm với Trần Mạnh Thường, Hoàng Tiến Tựu và Bùi Mạnh Nhò

nhấn mạnh đến tính đa nghóa của tục ngữ. Hoàng Tiến Tựu, trong “Văn học dân

gian Việt Nam” [104, tr.132], viết: “Có những câu tục ngữ chỉ có một nghóa, [...]

nhưng bộ phận tục ngữ đa nghóa chiếm tỉ lệ khá lớn, chất lượng khá cao và là bộ

phận tiêu biểu nhất của thể loại này”. Theo ông, có loại tục ngữ được dùng với



14



cả hai nghóa song song (nghóa đen – nghóa trực tiếp và nghóa bóng – nghóa gián

tiếp). Một số không nhiều câu tục ngữ có thể lúc đầu chỉ mang nghóa đen, nhưng

về sau lại chủ yếu được dùng với nghóa bóng. Ông cho rằng loại tục ngữ nói về

các hiện tượng và qui luật tự nhiên có tính khái quát cao, phần lớn đều có thể

được dùng theo nghóa bóng để nói về những hiện tượng và qui luật xã hội, đến

đây tác giả cũng có những gợi ý về nghóa ngữ dụng của tục ngữ “[...] Nói chung

tính chất ngụ ý không nằm trong dụng ý sáng tác ban đầu của tác giả dân gian,

mà nảy sinh về sau trong cách hiểu của người sử dụng”, “Nội dung ý nghóa của

mỗi câu tục ngữ không chỉ lệ thuộc vào cách hiểu của những người sáng tác ban

đầu, mà còn lệ thuộc rất nhiều vào quan niệm và cách dùng của những người sử

dụng về sau”, nhưng ông cũng chú thích thêm rằng “hiện tượng này chỉ có thể

diễn ra đối với những câu có tiềm ẩn khả năng mở rộng nghóa”. “Tiềm ẩn khả

năng mở rộng nghóa” mà ông nói ở đây chính là nói đến nghóa khái quát (nghóa

bóng) của tục ngữ, có thể được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh cụ thể khác nhau.

Chia sẻ với quan điểm của Hoàng Tiến Tựu, Bùi Mạnh Nhò [86, tr.243] đưa ra ý

kiến của mình: “Nghóa bóng đã tạo cho tục ngữ khả năng vận dụng năng động

vào các trường hợp, và cứ mỗi lần được sử dụng ở những văn cảnh khác nhau thì

nội dung, ý nghóa, kinh nghiệm, những lớp nghóa nằm bên trong và bên ngoài từ

ngữ của nó lại giàu thêm...”. Cũng theo ông, một câu tục ngữ có thể ứng dụng

trong hàng ngàn trường hợp cụ thể khác nhau. Quá trình vận dụng tục ngữ là quá

trình tạo nghóa không ngừng.

Phan Thò Đào trong “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam” [35, tr.117] khi

bàn về nghóa của tục ngữ cũng khẳng đònh “Mỗi câu tục ngữ có ít nhất là một

nghóa. Những câu có một nghóa thì hầu hết là nghóa đen [...] Phần còn lại của tục



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (237 trang)

×