Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 237 trang )
25
những không bò quên lãng mà ngược lại đã không ngừng được gìn giữ, trau chuốt
và lưu truyền. Tuy nhiên, việc tìm ra một đònh nghóa mang tính khoa học, khả
chấp, cũng như việc chỉ ra những đặc điểm của nó ở nhiều phương diện thì lại
chưa đạt được kết quả mong đợi.
A. Taylor, trong cuốn “The Proverb”, một tác phẩm được coi là kinh điển về
tục ngữ, đã phải thừa nhận:
“Việc đònh nghóa tục ngữ là công việc rất khó; và chúng ta cần phải kết hợp
vào trong đònh nghóa tất cả những nhân tố cần thiết và phải dành cho chúng (từng
nhân tố) một sự nhấn mạnh riêng. Chúng ta thậm chí không thể xác đònh rõ ràng
các tiêu chí để đưa ra đònh nghóa. Một đặc tính khó nói bằng lời, mơ hồ cho chúng
ta biết rằng câu này là tục ngữ câu kia là không phải.” [158, tr.3]. Như vậy, theo
tác giả, việc nhận diện câu tục ngữ thường dựa trên những cơ sở nghiêng về cảm
tính, trực giác (intuitive). Trong toàn bộ công trình này, ông cũng chú ý đến việc
miêu tả các đặc điểm của tục ngữ hơn là đi tìm một đònh nghóa.
Việc khó khăn để đưa ra một đònh nghóa được chia sẻ bởi nhiều nhà nghiên
cứu khác. Các tác giả này thường chỉ cố gắng đưa ra một số đặc điểm tiêu biểu
với hi vọng nhận diện đối tượng để làm việc ([151]; [72]). J. Lyons (1971) đã
phải xếp tục ngữ vào chung với một nhóm với các hình thức diễn đạt khác mà
gọi chung là các phát ngôn ‘tạo sẵn’ (ready-made utterences), và cho rằng
những diễn đạt đó “không cho phép mở rộng và biến thể” [72, tr.177].
Fergusson (1983), trong nỗ lực tìm ra một đònh nghóa có sức giải thích cho
việc lựa chọn ngữ liệu đưa vào cuốn từ điển về tục ngữ của mình, cho rằng:
“Một câu tục ngữ là một phát biểu ngắn gọn, dễ nhớ chứa đựng lời khuyên,
lời cảnh báo, một suy đoán hay một quan sát có tính phân tích. Hình thức của nó
26
thường là ngắn gọn, có hình ảnh, giàu tính ẩn dụ và phần lớn có vần điệu, có
tính thơ (poetic).” Có thể đònh nghóa này chưa phải là hoàn hảo nhưng nó thường
được trích dẫn và được coi là một trong những đònh nghóa tốt nhất bởi nó đã thể
hiện được những thuộc tính cơ bản và điển hình cả về hình thức và nội dung của
tục ngữ.
Trong các tiểu mục dưới, luận án tập trung vào việc trình bày quan niệm của
giới nghiên cứu tục ngữ Hán, tục ngữ Việt và đề xuất khái niệm tục ngữ làm cơ
sở cho việc khảo sát trong các phần, chương tiếp theo.
1.1.1. Trong giới nghiên cứu tục ngữ Việt, theo thống kê của chúng tôi, có
đến vài chục đònh nghóa về tục ngữ được nêu ra. Có thể khái quát các lối đònh
nghóa trên thành một số khuynh hướng sau.
i. Chú ý ở phương diện cấu trúc và đặc điểm nội dung của tục ngữ
Quan niệm này được chia sẻ bởi nhiều tác giả ([90], [23], [59], [66], v.v.).
Chẳng hạn, Đinh Gia Khánh (2003) cho rằng: “Tục ngữ là những câu nói ngắn,
gọn, có ý nghóa hàm súc, do nhân dân lao động sáng tạo nên và lưu truyền qua
nhiều thế kỉ. Bằng những câu nói ngắn gọn, súc tích, “tục ngữ diễn đạt rất hoàn
hảo toàn bộ kinh nghiệm đời sống, kinh nghiệm xã hội – lòch sử của nhân dân lao
động” [66, tr.16]. Tác giả cũng giải thích rõ tục ngữ là tri thức thông thường của
nhân dân lao động về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Tục ngữ vừa tổng kết
những kinh nghiệm sống, vừa thể hiện lí tưởng sống của nhân dân trong một hình
thức đặc thù mang tính nghệ thuật của ngôn ngữ dân gian. Tục ngữ là tấm gương
phản ánh, qua lời nói hàng ngày, mọi biểu hiện của đời sống dân tộc và quan
niệm của người dân về lao đông, về các hiện tượng lòch sử xã hội, về đạo đức, tôn
giáo, v.v.
27
Nguyễn Đức Dân mặc dù tập trung việc nghiên cứu tục ngữ từ phương diện lô
gích cú pháp ngữ nghóa nhưng cũng đưa ra một đònh nghóa tương tự. Tác giả nhận
thấy: “Tục ngữ là những đơn vò ngôn ngữ ổn đònh về hình thức, phản ánh những
lối nói, lối suy nghó đặc thù của một dân tộc. Tục ngữ phản ánh các quan niệm,
những suy nghó, những tri thức và cách tư duy của một dân tộc về các hiện tượng,
các qui luật tự nhiên và xã hội” [23].
ii. Chú ý ở cả phương diện đặc điểm hình thức, cấu trúc, đặc điểm nội dung và
cả phạm vi sử dụng của tục ngữ
Ngoài việc nêu ra những đặc điểm về nội dung và hình thức cấu trúc như
quan niệm của các tác giả đề cập ở tiểu mục (ii) trên, một số nhà nghiên cứu chú
ý đến cả môi trường hành chức của tục ngữ. Các tác giả sách giáo khoa Ngữ văn
lớp 7 (2004) đònh nghóa: “Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn đònh,
có nhòp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự
nhiên , lao đông, sản xuất, xã hội), được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy
nghó và lời ăn tiếng nói hàng ngày” [91]. Quan niệm này cũng thấy rõ trong các
công trình nghiên cứu về tục ngữ của một số tác giả khác ([27], [40], [86]).
1.1.2. Trong giới nghiên cứu tục ngữ Hán, cũng như trong giới nghiên cứu tục
ngữ tiếng Việt, các nhà Hán học cũng chưa có được một đònh nghóa thống nhất, rõ
ràng và cặn kẽ về tục ngữ. Học giả Ôn Đoan Chính đã thừa nhận:
“确定什么是俗语,固然是个难题;怎样解释俗语,却是一个更难的课题。” (Xác
đònh thế nào là tục ngữ, đương nhiên là một vấn đề khó; Giải thích tục ngữ như
thế nào, lại là một vấn đề còn khó hơn) [126, tr.5]. Thậm chí, ngay cả tên gọi
cũng chưa có sự thống nhất, ngoài thuật ngữ tục ngữ, hàng loạt thuật ngữ như
28
hương ngôn, truyền ngôn, thường ngôn, cổ ngữ, tục ngôn, ngạn ngữ, dân ngôn, tục
thoại, cổ thoại, v. v. cũng được dùng để chỉ cùng một đối tượng.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về cách hiểu khái niệm tục ngữ trong giới nghiên
cứu tiếng Hán, dưới đây chúng tôi sẽ trình bày một số quan niệm về tục ngữ trong
một số từ điển lớn của Trung Quốc và của một số học giả nghiên cứu ngôn ngữ
nổi tiếng của Trung Quốc.
(1) 俗语是: “约定俗成、广泛流行的定型语句”
(Tục ngữ là những ngữ cú đònh hình, được lưu truyền rộng rãi, hình thành bởi
thói quen của quần chúng từ lâu đời) [116].
(2)俗语就有以下三个特点:
1、 具有群众性。俗语绝大多数是人民群众创造的,说不出具体的作者。俗语
既然是群众所创造的,自然为群众所喜闻乐见。
2、 具有鲜明的口语性和通俗性。 俗语是通过群众世代口耳相传而流传开的,
所以口语性很强,总离不开一个“俗” 字。
3、 具有相对的定型性。俗语不能是长篇,而是简明凝练的;也不是自由组合
的语句,而是约定俗成,具有定型性的特点。但俗语在结构上又有很大的灵活性,
同一个俗语可以有很多变体,有的可以调换部分词语,改变说法;有的可以增加一
部分,有的可以颠倒语序。所以俗语的定型性只能是相对的,不是绝对的。
(Tục ngữ có ba đặc điểm sau:
1. Vốn có tính quần chúng. Đại đa số tục ngữ là do quần chúng nhân dân
sáng tạo ra, không có tác giả cụ thể. Tục ngữ do quần chúng nhân dân sáng tạo
29
ra, đương nhiên được quần chúng thích nghe, thích nói.
2. Vốn có tính khẩu ngữ và tính đại chúng một cách rõ ràng. Tục ngữ được
lưu truyền rộng rãi từ đời này sang đời khác qua lời ăn tiếng nói của quần chúng
cho nên tính khẩu ngữ của nó rất mạnh, không thể tách rời chữ “tục”.
3. Vốn có tính đònh hình tương đối. Tục ngữ không thể là trường thiên (đoạn
văn dài), mà là những câu ngắn gọn súc tích; cũng không phải là những ngữ cú
được tạo ra một cách tự do, màø được hình thành do thói quen của quần chúng từ
lâu đời, có đặc điểm đònh hình. Về mặt kết cấu, tục ngữ lại có tính linh hoạt rất
lớn, cùng một tục ngữ có thể có rất nhiều biến thể, có tục ngữ có thể thay đổi
từng bộ phận tục ngữ, thay đổi cách nói; có tục ngữ lại có thể tăng thêm một bộ
phận, có tục ngữ lại có thể thay đổi trật tự từ. Cho nên tính đònh hình của tục ngữ
chỉ là tương đối, không phải tuyệt đối.) [132, tr.2].
(3)什么是俗语:只要是语言通俗,反映出人民的心愿,记录了社会生活和人
生经验,这些话早已被群众广泛使用,道理深刻,意思新鲜,说得形象生动简炼透
辟,这样的语句一般是既定型而又灵活的,人们把它叫做俗语,俗话,老俗话,大
俗话。
(Tục ngữ là gì: chỉ cần ngôn ngữ thông tục, phản ánh được tâm nguyện của
nhân dân, ghi lại được cuộc sống xã hội và kinh nghiệm nhân sinh, những lời
này được dân chúng sử dụng rộng rãi từ lâu đời, đạo lí sâu sắc, ý tứ rõ ràng, lời
nói có hình tượng, sinh động, ngắn gọn súc tích, những câu nói như vậy nói
chung vừa đònh hình vừa linh hoạt, mọi người gọi đó là tục ngữ, tục thoại, lão tục
thoại, đại tục thoại) [143, tr.4].
Tục ngữ quả là một loại hình độc đáo về cấu trúc cũng như ngữ nghóa trong
30
ngôn ngữ, chính vì lẽ đó đònh nghóa khái quát về tục ngữ cho thật đầy đủ, hoàn
chỉnh mọi mặt không phải là chuyện đơn giản. Những đònh nghóa về tục ngữ của
các nhà Việt ngữ cũng như Hán ngữ nêu ở trên tuy có những nội dung cơ bản
như nhau nhưng mỗi đònh nghóa còn mang thêm nét riêng biệt cho dù là rất nhỏ.
Việc tìm ra một đònh nghóa phản ánh đầy đủ những thuộc tính cơ bản của
khái niệm là công việc không dễ, cần thời gian, và sự góp sức của nhiều người.
Để đáp ứng nhiệm vụ mà luận án đặt ra, chúng tôi xác lập một đònh nghóa tạm
thời làm cơ sở để khảo sát, nghiên cứu như sau: “Tục ngữ là những câu nói ngắn
gọn, súc tích, giàu hình ảnh đúc kết kinh nghiệm, tri thức dân gian của một dân
tộc về thế giới khách quan, tự nhiên cũng như xã hội, có tính cố đònh tương đối,
chủ yếu do quần chúng nhân dân sáng tác”.
1.2. TỤC NGỮ VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM HỮU QUAN
1.2.1. Tục ngữ - thành ngữ
Trước khi tìm hiểu sự khác nhau giữa thành ngữ, tục ngữ, chúng tôi sẽ điểm
qua một số quan niệm về thành ngữ qua giải thích của một số nhà nghiên cứu
Việt Nam, Trung Quốc.
Theo từ điển Từ Hán Việt của Phan Văn Các thì “Thành ngữ là nhóm từ cố
đònh nói lên một ý, thường hiểu với nghóa bóng” [5].
“Thành ngữ là tập hợp từ cố đònh đã quen dùng mà nghóa thường không thể
giải thích một cách đơn giản bằng nghóa của các từ tạo nên nó” [90].
“成语: 长期习用的固定词组,有意义完整、结构定型、表现力强等特点;有些成
语不能从字面上明白它的意思。” - 应用汉语词典 - 郭良夫(主编)- 商务印书馆
2000 年。
31
(Thành ngữ là những từ tổ cố đònh được dùng quen lâu dài, có đặc điểm ý
nghóa hoàn chỉnh, kết cấu đònh hình, sức biểu hiện mạnh v. v.; một số thành ngữ
không thể giải thích ý nghóa của nó qua mặt chữ biểu hiện) [116].
1.2.1.1.Phân biệt tục ngữ - thành ngữ trong tiếng Việt
Để tìm hiểu, đi sâu nghiên cứu bản chất của tục ngữ, nhiều nhà nghiên cứu
đã đề cập đến sự khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ.
Ngay từ những năm 40 của thế kỉ XX, Dương Quảng Hàm đã đưa ra ý kiến
của mình, ông viết: “Một câu tục ngữ tự nó phải có một ý nghóa đầy đủ, hoặc
khuyên răn hoặc chỉ bảo điều gì; còn thành ngữ chỉ là những lời nói có sẵn để ta
tiện dùng mà diễn đạt một ý gì hoặc tả một trạng thái gì cho có màu mè” [47,
tr.15]. Tuy tiêu chí phân biệt thành ngữ, tục ngữ của ông chưa được rõ ràng
nhưng nó là những gợi ý q báu cho các nhà nghiên cứu sau này.
Ý kiến của Vũ Ngọc Phan trong “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” có hàm
ý phân biệt thành ngữ, tục ngữ theo hai tiêu chí tương đối cụ thể: tiêu chí về nội
dung và cấu trúc ngữ pháp. Theo ông: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn
vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lí, một công lí, có khi là
một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của
câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ý
trọn vẹn” [89, tr.31].
Cùng với thời gian và sự phát triển các ngành khoa học ngày càng toàn diện,
tục ngữ ngày càng được nhiều các học giả nghiên cứu sâu sắc hơn, họ phân tích
tỉ mỉ cấu trúc cũng như ngữ nghóa của thành ngữ, tục ngữ nhằm đưa ra những
tiêu chí phân biệt hai đối tượng này một cách cụ thể hơn và chuẩn xác hơn.
Nguyễn Văn Mệnh khi “Bàn về ranh giới giữa thành ngữ, tục ngữ” có viết” giữa
32
thành ngữ, tục ngữ, v.v. có thể tìm ra những đặc điểm khu biệt khá rõ ràng ở cả
hai phương diện: nội dung và hình thức. Về nội dung, thành ngữ giới thiệu một
hình ảnh, một hiện tượng, một trạng thái, một tính cách, một thái độ, ... tục ngữ
thì khác hẳn, nó không dừng lại ở mức độ giới thiệu một hình ảnh, một hiện
tượng [...], mà đi đến một nhận đònh cụ thể, một kết luận chắc chắn, một kinh
nghiệm sâu sắc, một lời khuyên răn, một bài học về tư tưởng, đạo đức.” [77,
tr.12]. Tác giả cũng nhận thấy nội dung của thành ngữ “mang tính chất hiện
tượng”, còn nội dung của tục ngữ nói chung “mang tính chất qui luật”. Từ sự
khác nhau cơ bản về mặt nội dung dẫn đến sự khác nhau về hình thức ngữ pháp,
về năng lực hoạt động trong chuỗi lời nói. Về hình thức ngữ pháp, nói chung mỗi
thành ngữ chỉ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Đơn vò tục ngữ tối
thiểu phải là một câu.
Cho rằng giải thích sự khác nhau giữa thành ngữ, tục ngữ chỉ dựa vào hai
mặt nội dung và hình thức như Nguyễn Văn Mệnh là chưa thật xác đáng, Cù
Đình Tú viết: “[...] Xét về nội dung, tục ngữ cũng như thành ngữ đều là sự đúc
kết kinh nghiệm, là kết tinh trí tuệ của quần chúng, đều từ sự khái quát hoá hiện
thực để rút ra bản chất qui luật mà có” [106, tr.39]. Theo ông: “Thành ngữ là
một hiện tượng ngôn ngữ. Tục ngữ xét về một mặt nào đó cũng là một hiện
tượng ngôn ngữ. Giải quyết các hiện tượng ngôn ngữ cần phải dựa vào những
căn cứ ngôn ngữ học [...] sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự
khác nhau về chức năng. Thành ngữ là những đơn vò có sẵn mang chức năng
đònh danh, nói khác đi, dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động. Về mặt này
mà nói, thành ngữ là những đơn vò tương đương như từ,ø [...] đọc thành ngữ lên,
chưa thấy thành một câu, chưa thấy diễn đạt trọn vẹn một ý – nói khác đi, chưa
33
phải là một thông báo. Tục ngữ đứng về mặt ngôn ngữ học có chức năng khác
hẳn thành ngữ. Tục ngữ [...] đều là các thông báo [...]. Do vậy mỗi tục ngữ đọc
lên là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng...” [106, tr.39] .
Cù Đình Tú kết luận: có thể dựa vào ba tiêu chí để phân biệt thành ngữ, tục
ngữ. Đó là: chức năng, cấu tạo, cách vận dụng trong lời nói của thành ngữ, tục
ngữ. Điểm mới Cù Đình Tú đưa ra là về mặt cấu tạo, đại bộ phận các thành ngữ
có kết cấu một trung tâm, tục ngữ có kết cấu hai trung tâm.
Nhóm Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri cho rằng: “Cần phải
xét thành ngữ và tục ngữ không phải chỉ như là hai hiện tượng ngôn ngữ, mà chủ
yếu như là một hiện tượng ngôn ngữ và một hiện tượng ý thức xã hội”, cho nên
tiêu chí gốc cần phải dựa vào để tìm ra sự phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ,
theo họ chính là tiêu chí về nhận thức luận; theo đó, “xem xét tục ngữ chủ yếu
như là một hiện tượng ý thức xã hội, còn thành ngữ thì chủ yếu như là một hiện
tượng ngôn ngữ”. Các tác giả này khẳng đònh: “Sự khác nhau cơ bản về nội dung
của thành ngữ và tục ngữ [...] là sự khác nhau về nộâi dung của hai hình thức tư
duy khác nhau, là khái niệm và phán đoán. Sự khác nhau đó [...] tất yếu sẽ dẫn
đến sự khác nhau về chức năng của hai hình thức ngôn ngữ chứa đựng hai hình
thức tư duy đó, đến sự khác nhau về cấu tạo ngữ pháp và vò trí trong lời nói của
hai hình thức ngôn ngữ đó” [27, tr.26].
Dựa vào các hình thức tư duy trong khoa học lôgích, coi đó là những cơ sở
của nhận thức luận, nhóm Chu Xuân Diên tiếp tục phân tích, xác đònh đặc điểm,
mối quan hệ giữa thành ngữ, tục ngữ. Đó là mối quan hệ giữa các hình thức khái
niệm và phán đoán. Họ kết luận: “Sự giống nhau giữa thành ngữ và tục ngữ là ở
chỗ cả hai đều là những sản phẩm của sự nhận thức của nhân dân về các sự vật
34
và hiện tượng của thế giới khách quan, đều chứa đựng và phản ánh trí thức của
nhân dân. Sự khác nhau là ở chỗ những tri thức ấy khi được rút lại thành những
khái niệm thì ta lại có thành ngữ, còn khi được trình bày, được diễn giải thành
những phán đoán thì ta có tục ngữ”. Nhóm này đã đưa ra những ví dụ cụ thể như:
để chỉ khái niệm“sự uổng công”, có thể đưa ra thành ngữ “công dã tràng”, và
khái niệm đó được thể hiện thành phán đoán, được diễn đạt thành “Dã tràng xe
cát biển đông, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì”, đó là tục ngữ.
Nguyễn Thái Hoà khi nghiên cứu sâu về bản chất tục ngữ đã đặc biệt quan
tâm đến khái niệm “phát ngôn” chứ không phải là “câu” mà nhiều nhà ngôn
ngữ học đã phân biệt từ những năm 50 của thế kỉ XX. Theo đó ông quan niệm:
tục ngữ là những phát ngôn, nhưng không phải là những phát ngôn làm sẵn
thông thường, mà là những phát ngôn đặc biệt. Ông cho rằng tục ngữ cũng bao
gồm ba yếu tố cơ bản của phát ngôn, đó là: ngữ điệu, tổ hợp nghóa, và chủ đề
làm thành một chỉnh thể phục vụ cho giao tiếp. Qua phân tích, đối chiếu với
những cụm từ cố đònh có chức năng liên kết hoặc đưa đẩy, tồn tại trong ngôn
ngữ cộng đồng như: “như vậy, thế là, suy cho cùng, v.v.”, ông cho rằng “thành
ngữ không phải là phát ngôn làm sẵn”, mà nó là một đơn vò ngôn ngữ tương
đương với từ về mặt ý nghóa và về chức năng ngữ pháp. Cũng theo ông, tục ngữ
dù có cấu tạo như một cụm danh từ, cụm động từ, v.v. nhưng vẫn là câu mang ý
nghóa trọn vẹn. Vì tục ngữ không thích hợp với sự phân tích ngữ pháp thông
thường của mô hình câu, không phải tất cả tục ngữ đều được cấu tạo như một
câu theo quan niệm ngữ pháp thông thường (có đầy đủ nòng cốt C – V), cho nên
theo ông tục ngữ là những phát ngôn, nhưng đó là những phát ngôn đặc biệt. Ông
kết luận: “Sự phân biệt thành ngữ, tục ngữ là sự phân biệt giữa hai cấp độ: từ
35
vựng và cú pháp. Về mặt từ vựng, thành ngữ là đơn vò lớn hơn từ, có ý nghóa và
chức năng của từ, tục ngữ là tổ hợp của những chức năng cú pháp khác nhau có
vò ngữ tính [...] Nói vắn tắt: một cụm từ cố đònh có khả năng tách thành hai thành
phần cú pháp khác nhau thì đó là tục ngữ. Còn thành ngữ không có khả năng
đó” [59, tr.40].
Đứng ở góc độ lô gích học, thông qua các phạm trù lô gích – ý nghóa, Nguyễn
Đức Dân khảo sát, nghiên cứu nghóa biểu trưng của hàng loạt thành ngữ, tục ngữ.
Sau khi phân tích, chứng minh bằng những ví dụ cụ thể về sự hình thành nghóa
biểu trưng của thành ngữ, tục ngữ, ông kết luận: “Sự khác nhau về đặc điểm cơ
bản của chúng, thành ngữ phản ánh các khái niệm, tục ngữ phản ánh các phán
đoán, đã dẫn tới sự khác nhau cơ bản trong việc hình thành nghóa: Nghóa của
thành ngữ được hình thành qua sự biểu trưng nghóa của cụm từ. Nghóa của tục ngữ
được hình thành qua sự biểu trưng nghóa của một câu. Hầu hết các câu đều có
quan hệ đề-thuyết. Chính cặp đề-thuyết này biểu thò một quan hệ. Vậy là, nghóa
của tục ngữ được hình thành qua sự biểu trưng các quan hệ. Các thành ngữ không
có thuộc tính ấy”. Theo ông, một tiêu chí quan trọng để phân biệt thành ngữ, tục
ngữ là “Những câu nào có thể biểu thò nghóa theo một quan hệ thì câu đó là tục
ngữ” [19, tr.1]. Điểm này cũng phù hợp với quan niệm thành ngữ có cấu tạo một
trung tâm, còn tục ngữ có cấu tạo hai trung tâm của Cù Đình Tú.
Qua những ý kiến của các nhà nghiên cứu được nêu trên, dù đứng ở góc độ
của văn học dân gian, của ngôn ngữ học hay khoa học lôgích, và dù diễn đạt
bằng cách này hay cách khác, chúng ta cũng có thể nhận thấy các học giả có
những ý kiến tương đối thống nhất là: thành ngữ tương đương với từ (khái niệm;
chủ yếu có cấu tạo một trung tâm), còn tục ngữ tương đương với câu (phán đoán;