1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Công nghệ - Môi trường >

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIẤY VÀ BỘT GIẤY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 60 trang )


BAT cho ngành công nghiệp giấy và bột giấy



Lớp QLMT2012



Hình 1.1: Tổng quan về sự phân bố ngành công nghiệp sản xuất bột giấy

trên khắp châu Âu [CEPI năm 1997, thống kê hàng năm 1996]

Về phân bố địa lý, Hình 1.1 và 1.2 cho thấy Thụy Điển (30.2%) và Phần Lan

(29.9%) chiếm ưu thế số lượng bột gỗ để làm giấy. Iberia chiếm 9.4%, Pháp 8%, Na Uy

7.0% và Đức 5.6% của bột gỗ được sản xuất.

Ở châu Âu, hầu hết nhà sản xuất bột sulfat (67 nhà máy) nằm ở Phần Lan và

Thụy Điển trong khi Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Austria chiếm phần còn lại.

Hầu hết nhà sản xuất sulfit (24 nhà máy) nằm ở Thụy Điển, Đức, Austria và Pháp

với một vài nhà máy ở Ý và Bồ Đào Nha.

Ở Tây Âu, có 101 nhà máy sản xuất bột giấy cơ học tọa lạc chủ yếu ở Phần Lan,

Đức, Thụy Điển, Pháp, Ý và Na Uy. Các nhà sản xuất chính của bột giấy bán hóa học

( 23 nhà máy) là Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Ý.



6



BAT cho ngành công nghiệp giấy và bột giấy



Lớp QLMT2012



Hình 1.2: Tổng quan về sự phân bố quy mô các nhà máy sản xuất bột giấy trên

khắp châu Âu [CEPI năm 1997, thống kê hàng năm 1996]

Thụy Điển và Phần Lan có hầu hết các nhà máy lớn hơn 250.000 tấn công suất

mỗi năm và chỉ có một vài nhà máy nhỏ hơn 10.000 tấn mỗi năm. Kích thước trung bình

của các nhà máy bột giấy ở Tây Âu là 180.000 tấn / năm [PPI, 1996]. 222 nhà máy bột

giấy







Tây



Âu



74



đang



sản



xuất



bột



giấy



trên



thị



trường.



Bên cạnh sợi nguyên, khoảng 30 triệu tấn / năm sợi tái chế - điều này tương ứng với

7



BAT cho ngành công nghiệp giấy và bột giấy



Lớp QLMT2012



khoảng 45 phần trăm của tổng số các sợi được sử dụng để sản xuất giấy - được sử dụng

ở Tây Âu. Tỷ lệ sử dụng là tương đối cao trong giấy in báo (49%), khăn giấy và các loại

giấy vệ sinh (66,9%), lót và fluting (85,9%) và bảng bìa cứng (52,2%). Việc sản xuất sợi

tái chế là lớn ở những nước có mật độ dân số cao và tiêu thụ bình quân đầu người cao,

chẳng hạn như Đức, Pháp, Ý và Hà Lan như thể hiện trong hình 1.3. Khoảng hai phần

ba các giấy thu hồi được sử dụng cho các mục đích không in ấn (22 triệu tấn) và khoảng

một phần ba số giấy thu hồi (10 triệu tấn) được sử dụng cho các loại giấy để in ấn như

giấy in báo, các loại giấy đồ họa khác và các giấy vệ sinh.

1.1.2.

Công nghiệp giấy tại Việt Nam

Ngành công nghiệp Sản xuất Giấy và bột giấy Việt Nam đã có những bước phát

triển vượt bậc, sản lượng giấy tăng trung bình 11%/năm trong giai đoạn 2000 –2006;

tuy nhiên, nguồn cung như vậy vẫn chỉ đáp ứng được gần 64% nhu cầu tiêu dùng (năm

2008) phần còn lại vẫn phải nhập khẩu. Sản lượng giấy cả năm 2010 đã tăng gần 10%

so với năm 2009, ước đạt 1,85 triệu tấn. Mặc dù đã có sự tăng trưởng đáng kể tuy nhiên,

tới nay đóng góp của ngành trong tổng giá trị sản xuất quốc gia vẫn rất nhỏ. Bên cạnh

những lợi ích mà ngành Sản xuất Giấy và bột giấy mang lại, thì ngành Sản xuất

Giấy và bột giấy cũng là một ngành phát sinh nhiều nước thải với nhiều thành phần ô

nhiễm khác nhau do sử dụng nhiều nước và hoá chất (hồ, phủ, chất độn, và phụ gia)

trong quá trình sản xuất. Nước thải với lưu lượng và nồng độ các chất ô nhiễm

cao có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường nếu như nước thải không được

xử lý phù hợp.

Công nghiệp giấy và bột giấy có thể coi như hai ngành độc lập, sản xuất bột và

sản xuất giấy. Thực tế cũng có nhiều nhà máy sản xuất đồng thời cả bột giấy và giấy,

ví dụ Tổng công ty giấy Việt Nam (Công ty giấy Bãi Bằng cũ), trong khi đó nhiều nhà

máy chỉ sản xuất giấy, ví dụ Công ty CP giấy Sài Gòn hoặc Công ty giấy Việt Trì,

trước đây có sản xuất bột nhưng do không giải quyết được ô nhiễm do dịch đen nay đã

chuyển sang chỉ sản xuất giấy từ bột giấy. Do quá trình sản xuất hoàn toàn khác nhau

nên nước thải cũng khác nhau cả về lưu lượng lẫn tính chất và dẫn đến công nghệ xử

lý nước thải cũng khác nhau. Đồng thời trong nhóm ngành này có thêm loại hình sản

xuất thứ ba, đó là các nhà máy giấy tái chế, ở đây nguyên liệu đầu vào thường là giấy

đã qua sử dụng và giấy phế liệu, các chất thải từ các xưởng đóng sách.

Xét về khía cạnh nhu cầu thị trường có thể nói, ngành giấy Việt Nam có

tương lai rất lớn. Rất tiếc sản xuất bột đang là điểm yếu của ngành giấy Việt Nam, sản

8



BAT cho ngành công nghiệp giấy và bột giấy



Lớp QLMT2012



xuất giấy cũng còn xa mới đáp ứng được nhu cầu. Theo “Báo cáo tóm tắt ngành giấy

Việt Nam” (Habubank Security, 2009) năng lực sản xuất bột giấy của Việt Nam mới chỉ

đáp ứng được 1/2 nhu cầu sản xuất giấy. Do đó ngành công nghiệp giấy phải phụ thuộc

vào nguồn bột giấy nhập khẩu. Hiện nay chỉ có Tổng công ty Việt Nam (Công ty

giấy Bãi Bằng cũ) và Công ty cổ phần Giấy Tân Mai chủ động đáp ứng được khoảng

80% tổng số bột cho sản xuất giấy của mình. Ngành giấy Việt Nam cũng không có các

doanh nghiệp sản xuất bột thương mại, chỉ có các doanh nghiệp sản xuất bột phục vụ

cho việc sản xuất giấy của chính doanh nghiệp đó.

Một điểm yếu của ngành giấy Việt Nam là quy mô rất nhỏ, phần lớn các nhà máy

có công suất dưới 5.000 tấn/năm. Chỉ có 3 doanh nghiệp có công suất từ 100.000 tấn

năm là công ty giấy Bãi Bằng, Công ty cổ phần Giấy Tân Mai và Công ty TNHH giấy

Chánh Dương. Năng lực sản xuất giấy và bột giấy tập trung chủ yếu ở Nam bộ và

trung tâm Bắc Bộ (chiếm hơn 65% thị phần theo công suất).

1.2.



Quy trình sản xuất bột giấy và giấy



9



BAT cho ngành công nghiệp giấy và bột giấy



Lớp QLMT2012



Hình 1.3: Sơ đồ quy trình sản xuất giấy và bột giấy



10



BAT cho ngành công nghiệp giấy và bột giấy



Lớp QLMT2012



Chương 2: TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU BAT CHO

NGÀNH GIẤY VÀ BỘT GIẤY

Tóm tắt tài liệu

Tài liệu tham khảo về công nghệ sẵn có tốt nhất của ngành công nghiệp giấy và

bột giấy được tham khảo dựa vào Điều 16 của Hội đồng Chỉ thị 96/61/EC. Tài liệu này

có thể được nhìn thấy ở trong lời nói đầu, trong đó mô tả mục tiêu và cách sử dụng của

tài liệu.

Giấy căn bản là một tấm sợi với một số hóa chất thêm vào ảnh hưởng đến thuộc

tính và chất lượng của giấy. Bên cạnh sợi và hóa chất, công nghiệp giấy và bột giấy đòi

hỏi sử dụng một lượng lớn nước và năng lượng thông qua hơi nước và điện.

Do đó các vấn đề môi trường chính liên quan đến quá trình sản xuất giấy và bột

giấy là nước thải, khí thải và tiêu hao năng lượng. Xử lý chất thải dự kiến sẽ trở thành

vấn đề môi trường được quan tâm.

Bột giấy để làm giấy có thể được sản xuất từ sợi tinh chất bởi hóa chất hoặc

phương pháp cơ khí hoặc có thể sản xuất bởi nghiền lại giấy thu hồi. Một nhà máy giấy

có thể chỉ đơn giản sử dụng lại bột giấy làm ở nơi khác hoặc có thể có thể kết hợp với

quá trình nghiền bột giấy trên cùng một nơi.

Tài liệu này bao gồm các khía cạnh môi trường liên quan đến bột giấy và giấy từ

các nguyên liệu sợi tổng hợp khác nhau và nhà máy giấy và bột giấy không tích hợp.

Nhà máy giấy không tích hợp là nhà máy mua bột giấy tự nơi khác phục vụ cho

quá trình sản xuất giấy của họ. Trong nhà máy giấy và bột giấy kết hợp, bột giấy và giấy

được thực hiện trên cùng một nơi. Nhà máy bột giấy kraft thực hiện cả hai cách kết hợp

và không kết hợp, trong khi các nhà máy bột giấy sulphite thường được kết hợp với sản

xuất giấy. Phương pháp nghiền cơ học và quá trình xử lý sợi tái chế là một phần trong

làm giấy nhưng đã trở thành một hoạt động độc lập trong một vài trường hợp.

Các hoạt động môi trường dòng vào liên quan như quản lý lâm nghiệp, sản xuất

hóa chất, vận chuyển nguyên liệu thô cho nhà máy cũng như các hoạt động dòng ra như

biến đổi giấy và in ấn đều được đề cập trong tài liệu này. Khía cạnh môi trường đặc biệt

không liên quan đến quá trình sản xuất bột giấy và giấy như lưu trữ và xử lý hóa chất,



11



BAT cho ngành công nghiệp giấy và bột giấy



Lớp QLMT2012



an toàn lao động và các yêu tố gây nguy hiểm, nhà máy nhiệt điện, hệ thống hút bụi và

làm mát và hệ thống xử lý nước thô chỉ được xử lý vắn tắt.

Bao gồm phần giới thiệu (thông tin chung, chương 1) và 5 phần lớn:

-



Phương pháp nghiền kraft (phần 2)



-



Phương pháp nghiền sulphite (chương 3)



-



Phương pháp nghiền cơ học và phương pháp nghiền kết hợp cơ học và hóa chất

(chương 4)



-



Quá trình tái chế sợi (chương 5)



-



Làm giấy và các quá trình liên quan (chương 6)

Các chương này có 5 phần chính theo đề cương chung của tài liệu tham khảo



BAT IPPC. Đối với hầu hết người đọc không cần thiết phải đọc hết tất cả mà chỉ đọc

những chương cần quan tâm. Ví dụ, những nhà máy bột giấy kraft chỉ quan tâm đến

chương 2; những nhà máy kết hợp bột giấy kraft và giấy chỉ quan tâm đến chương 2, 6.

Những thông tin liên quan đến việc tích hợp tái chế giấy sẽ được tìm thấy trong chương

5 và 6.

Cuối tài liệu sẽ có danh mục các tài liệu tham khảo và chú giải các thuật ngữ và

từ viết tắt.



12



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

×