Để nhúng một style sheet, cần định nghĩa một khối (phân biệt bởi các thể “text/css”> và ) được đặt trong phần HEAD của tài liệu. Khối này là một tập các
style rule (qui tắc về kiểu dáng), trong đó mỗi qui tắc định nghĩa style cho một phần tử hay
mộ nhóm các phần tử HTML
Một style rule có 2 phần:
• Một selector (phần tử chọn) để định danh một phần tử hay một nhóm các phân từ
HTML
• Một khai báo về thuộc tính về kiểu dáng được áp dụng cho selector đó.
• Cú pháp tổng quát: selector {property:value;property:value;…}
CSS không phân biệt chữ hòa và chữ thưừong nhưng bạn phải đảm bảo luôn dùng đúng cú
pháp. Mỗi style rule phải bắt đầu bằng một selector hay một nhóm các selector, theo sau là
một dấu mở ngoặc nhọn, tiếp theo là các khai báo thuộc tính về style. Mỗi khai báo cho một
style kết thúc bằng dấu chấm phẩy và mỗi thuộc tính được phân cách với giá trị của nó bằng
dấu hai chấm, và cuối cùng là một dấu ngoặc nhọn.
Mỗi đoạn sẽ có viền
Đậm
màu bạc
Cách dùng style sheet nhúng luôn uyển chuyển và dễ bảo trì hơn cách dùng inline style.
Chẳng hạn muốn thay đổi màu của P trong tài liệu, chỉ cần thay đổi một thứ: giá trị tương ứng
với thuộc tính “background-color”
Liên kết đến style sheet
Có thể lưu style sheet trong một tập tin riêng biêt và liên kết nó đến một hay nhiều tài liệu, sử
dụng thẻ trong phần :
Style sheet được liên kết chứa những khai báo về style, hoạt động giống như style sheet
nhúng, chhỉ khác là những style rule không đóng trong cặp thẻ =”text/css”>. Việc liên kết đến một style sheet bên ngoài cho phép nhà phát triển áp
dụng style sheet cho nhiều tài liệu khác nhau.
Bao gộp một style sheet
Một style sheet bên ngoài có thể được bao gộp (import) vào trong tài liệu bằng cách dùng
thuộc tính @import trong style sheet:
@import:url(mystyles.css);
Thẻ @import nên đặt ở đầu khối style hay đối với một sheet liên kết thì là ở trước bất cứ một
khai báo nào. Những qui tắc được bao gộp trong style sheet sẽ được áp dụng trước những qui
tắc khác định nghĩa chứa style sheet
46
Các cách dùng style
• Inline style: dùng cho văn bản riêng lẻ
• Style nhúng: định dáng một hay nhiều tài liệu ở tầm vực toàn cục
• Kết hợp inline để bổ sung cho style nhúng hay điều chỉnh nó cho một vài phần tử
cụ thể
2.4. Các mô hình trực quan
CSS làm việc trên mô hình định dạng trực quan cung cấp trong các đặc tả CSS. Mô hình này
trợ giúp định nghĩ cách thức trình duyệt xử lý cây tài liệu
Mô hình trực quan cung cấp ý nghĩa cho mọi phần tử trong cây để sinh ra một hộp. Nó còn
được tham chiếu như là mô hình hộp.
Mô hình hộp
Mô hình hộp tin tưởng vào các qui tắc quản trị để hiển thị một cách chính xác. Việc thực thi
mô hình box có sự khác biệt trong các trình duyệt chính
Có 2 kiểu chính của các phần tử :
Block-Level Elements là một trong phần tử được định dạng như một hộp. Nó có thể chứa các
phần tử nằm bên trong và các phần tử block-level khác. Đặc biệt, các phần tử này bất đầu trên
một trong mới. Ví dụng bao gồm: h1-h6, p, form, table, ol, ul.
Inline Elements xuất hiện bên trong nội dung, và có thể chứa văn bản hoặc các phần tử inline
khác. Ví dụ: a, em, strong, img, input.
Phần tử block-level sinh ra hộp chính. Hộp này có khả năng chứa các hộp khác hoặc các phần
tử block-level khác.
Bên trong phần tử inline, các hộp nằm theo chiều ngang được biết như là hộp đường
47
Tất cả hộp được chia thành các vùng sau:
Content area (text, objects) Vùng nội dung có đỉnh nội dung bao quanh nội dung thực sự
phần tử.
Padding Các đỉnh xung quanh padding của hộp
Borders Đỉnh border xác định border của hộp
Margins Đỉnh mép margin xung quanh margin hộp và được định nghĩa bởi đỉnh: left, right,
top, bottom.
Nếu một margin có độ rộng bằng 0, nó trở thành đỉnh border. Nếu đỉnh borger có độ dày bằng
0, nó trở thành đỉnh của padding. Nếu padding có độ dày bằng 0, nó trở thành đỉnh content
Có vài cách thức chung để bố trí các phần tử CSS như sau:
•
•
Static Hộp tĩnh có chảy tràn dựa vào khối của nó hoặc chức năng inline.
Float Hộp động dịch chuyển từ trái qua phải.
•
Absolute position Hộp tuyệt đối được tổ chức đặc biệt sử dụng ranh giới theo tòa
độ x-y.
•
Relative position Hộp tương đối được tổ chức liên quan đến nơi họp được mong
đợi bên trong luồng dữ liệu.
48
Chương IV Ngôn ngữ kịch bản Javascript
4.1. Giới thiệu ngôn ngữ kịch bản Javascrip
JavaScript là ngôn ngữ dưới dạng kịch bản có thể gắn với các file HTML để bổ sung tính
tương tác của Web. Nó không đuợc biên dịch mà được trình duyệt thông dịch. JavaScipt là
ngôn ngữ dựa trên đối tượng nhưng nó không phải là ngôn ngữ hướng đối tượng do không hỗ
trợ các lớp hay tính thừa kế.
Có 1 số ngôn ngữ khác cũng có khả năng bổ sung tính tương tác cho Web nhưng tất cả chúng
đều khác ở 1 số điểm:
• Script CGI (common gateway interface): Các Script rất mạnh nhưng chúng nằm trên
máy chủ nên có 1 số nhược điểm như: kết nối giữa trình duyệt Web và máy chủ sẽ giới
hạn tốc độ tương tác trên Web của bạn, máy chủ Web có thể bị quá tải nếu có nhiều
người sử dụng đồng thời, không phải mọi người đều có thể truy cập đến các vùng trên