Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 77 trang )
6
Các nhà máy thủy điện được xây dựng hầu hết ở vùng núi, nơi kinh tế-xã hội
phát triển còn chậm. Việc xây dựng các công trình thủy điện còn thúc đẩy sự phát
triển kinh tế- xã hội của các khu vực này.
Về mặt kinh tế, tỷ lệ thủy điện cao trong hệ thống đã đem lại giá thành điện
năng hạ xuống đáng kể. Về mặt kỹ thuật, thủy điện đã tăng cường chất lượng điện
trong hệ thống, vận hành linh hoạt.
1.2. Tổng quan về nhà máy thủy điện
Nhà máy thủy điện là công trình thủy công trong đó bố trí các thiết bị động
lực (turbin, máy phát điện) và các hệ thống thiết bị phụ trợ khác phục vụ cho sự làm
việc bình thường của các thiết bị chính nhằm sản xuất điện năng cung cấp cho các
hộ dùng điện. Có thể nói đây là một xưởng sản xuất điện năng của công trình thủy
điện. Loại và kết cấu nhà máy phải đảm bảo làm việc an toàn của các thiết bị và
thuận lợi trong vận hành.
Nhà máy thủy điện được chia thành ba loại cơ bản:
- Nhà máy thủy điện ngang đập: được xây dựng trong các sơ đồ khai thác
thủy năng kiểu đập với cột nước không quá 35-40m. Bản thân nhà máy là một thành
phần công trình dâng nước, nó thay thế cho một phần đập dâng. Cửa lấy nước cũng
là thành phần cấu tạo của bản thân nhà máy.
- Nhà máy thủy điện sau đập: được bố trí ngay sau đập dâng nước. Khi cột
nước cao hơn 30-45m thì bản thân nhà máy vì lý do ổn định công trình không thể là
một thành phần của công trình dâng nước ngay cả trong các trường hợp tổ máy
công suất lớn. Nếu đập dâng nước là đập bê tông trọng lực thì cửa lấy nước và
đường ống dẫn nước turbin được bố trí trong thân đập bê tông, đôi khi đường ống
dẫn nước turbin được bố trí trên phía hạ lưu của đập.
- Nhà máy thủy điện đường dẫn: trong sơ đồ khai thác thủy năng kiểu đường
dẫn hoặc kết hợp , nhà máy thủy điện đứng riêng biệt tách khỏi công trình đầu mối.
Cửa lấy nước đặt cách xa nhà máy. Trong trường hợp công trình dẫn nước là không
áp thì cửa lấy nước nằm trong thành phần của bể áp lực, trong trường hợp công
trình dẫn nước là đường hầm có áp thì cửa lấy nước bố trí ở đầu đường hầm và là
7
một công trình độc lập. Đường dẫn nước vào nhà máy thường là đường ống áp lực
nhưng trong trường hợp trạm thủy điện đường dẫn cột nước thấp với đường dẫn là
kênh dẫn thì có thể bố trí nhà máy thủy điện kiểu ngang đập.
Về công suất, nhà máy thủy điện chia làm nhiều loại theo công suất lắp máy,
cách phân loại này chỉ tương đối và cụ thể với tiêu chuẩn của từng quốc gia. Ở Việt
Nam cấp công trình được xác định theo tiêu chuẩn TCVN 185-2002.
- Nhà máy thủy điện lớn: N lm ≥ 1000MW
R
R
- Nhà máy thủy điện vừa: 15MW ≤ N lm ≤ 1000MW
R
R
- Nhà máy thủy điện nhỏ: N lm ≤ 15MW
R
R
Theo cột nước, nhà máy thủy điện phân theo ba loại tùy thuộc cột nước công
tác lớn nhất:
- Nhà máy thủy điện cột nước cao: H max > 400m
R
R
- Nhà máy thủy điện cột nước trung bình: 50m ≤ H max ≤ 400m
R
R
- Nhà máy thủy điện cột nước thấp: H max ≤ 50m
R
R
Cột nước công tác H max có liên quan đến loại turbin bố trí trong nhà máy. Ở
R
R
TTĐ cột nước cao bố trí turbin tâm trục với tỷ tốc bé và khi cột nước H max >500m
R
R
sử dụng turbin gáo. Ở TTĐ cột nước trung bình thường bố trí các loại turbin tâm
trục với các tỷ tốc từ lớn đến bé và cột nước thấp thường bố trí turbin cánh quay
hoặc turbin cánh quạt và cũng có thể bố trí các turbin tâm trục tỷ tốc lớn hoặc turbin
cánh chéo.
Hình thức lắp máy cũng có ảnh hưởng lớn đến kết cấu nhà mày thủy điện:
với turbin phản kích công suất lớn thường bố trí trục đứng. Bố trí như vậy nhà máy
sẽ gọn hơn nhưng chiều sâu móng nhà máy sẽ lớn. Với TTĐ ngang đập cột nước
thấp H max <20m có thể sử dụng turbin cánh quay kiểu capxul trục ngang, ống hút
R
R
thẳng. Với nhà máy thủy điện sử dụng turbin tâm trục công suất nhỏ cho thấy tốt
nhất là sử dụng hình thức lắp máy trục ngang vì khi đó việc lắp đặt và sửa chữa
turbin và máy phát không phụ thuộc lẫn nhau nhưng kích thước mặt bằng nhà máy
đòi hỏi lớn hơn so với trục đứng. Đối với TTĐ sử dụng turbin gáo, hình thức lắp
8
máy có thể trục đứng hoặc trục ngang không phụ thuộc vào công suất tổ máy mà
phụ thuộc vào số lượng vòi phun và các yếu tố kết cấu các công trình cụ thể.
Kết cấu nhà máy thủy điện được chia làm hai phần: phần dưới nước (khối bê
tông phía dưới) bố trí turbin, buồng xoắn, ống hút, các hệ thống thiết bị phụ. Phần
trên nước bao gồm gian máy và gian lắp ráp – sửa chữa, gian máy bố trí máy phát
điện, thùng dầu áp lực và tủ điều tốc turbin.
Kết cấy phần dưới nước của nhà máy thủy điện gồm buồng xoắn, ống hút, bệ
T
7
1
máy phát, đường ống Turbin. Với nhà máy thủy điện ngang đập phần dưới nước
ngoài buồng xoắn, ống hút, bệ máy còn có cửa lấy nước dẫn nước trực tiếp vào
buồng xoắn. Với nhà máy thủy điện lắp Tuabin xung kích gáo, phần dưới nước chủ
yếu là kênh xả dẫn nứơc ra hạ lưu.
Dọc theo chiều dài nhà máy (vuông góc với chiều dòng chảy) phần dưới nước
T
7
1
gồm nhiều khối tuabin giống nhau và ngoài cùng là sàn lắp ráp. Tùy điều kiện địa
chất nền và chiều dài nhà máy, toàn bộ nhà máy có thể là một khối liền hoặc cách
nhau bằng những khe lún cắt ngang nhà máy thành từng khối. Trong mỗi khối gồm
từ một hoặc một số tổ máy, riêng phần sàn lắp máy do chịu tải trọng khác nên
thường được tách riêng khỏi các khối tuabin.
Ở tầng tuabin thường bố trí các hệ thống thiết bị phụ gồm: hệ thống thiết bị
T
7
1
cung cấp dầu mỡ, hệ thống thiết bị cung cấp nước kỹ thuật, hệ thống thiết bị tháo
nước sửa chữa tổ máy, hệ thống tiêu nước rò rỉ nhà máy.v.v. Ngoài ra còn bố trí các
kho chứa và một số phòng phụ, máy tiếp lực và cơ cấu điều chỉnh.
Dưới sàn lắp ráp bố trí các xưởng, kho, máy bơm, giếng tập trung nước
T
7
1
1.3. Tổng quan về động đất
1.3.1 Nguyên nhân gây ra động đất
Động đất hay địa chấn là sự rung động mạnh mẽ của vỏ quả đất dưới dạng
các dao động đàn hồi. Động đất có nhiều nguyên nhân: nội sinh, ngoại sinh và nhân
sinh.
-
Nội sinh: liên quan đến vận động phun trào núi lửa, do sập đổ trần các hang
động ngầm, do sự cọ xát của các mảng thạch quyển đại dương đang bị hút
9
chìm xuống dưới một mảng khác, do hoạt động đứt gãy địa chấn bên trong
các mảng lục địa.
-
Ngoại sinh: do thiên thạch va chạm vào trái đất, các vụ trượt lở đất đá với
khối lượng lớn.
-
Nhân sinh: do các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất, các hoạt động xây dựng hồ
chứa làm mất cân bằng trọng lực môi trường, do bơm hút nước ngầm khí đốt
gây sụp đổ ngầm dưới đất.
Động đất ở Việt Nam thuộc kiểu do hoạt
động của đứt gãy tạo ra, đều có chấn tiêu
( tâm phát sinh động đất) nông, thường ít
sâu quá 20km. Nước ta không có núi lửa
đang hoạt động, nằm rất xa các đới hút
chìm và đới dồn mảng nên không có kiểu động đất liên quan đến cấu trúc này
như ở Nhật Bản, Philipin, Inđônêxia, hay vùng núi Himalaya.
1.3.2. Một số khái niệm về động đất
a) Chấn tâm, chấn tiêu.
-
Nơi phát sinh dịch chuyển của Động đất được gọi là chấn tiêu (hoặc lò Động
đất). Hình chiếu của chấn tiêu lên mặt đất gọi là chấn tâm của động đất.
-
Độ sâu chấn tiêu H là khoảng cách từ chấn tiêu lên mặt đất , tức là khoảng
cách giữa chấn tiêu và chấn tâm. Khoảng cách chấn tiêu là khoảng cách từ
một điểm bất kỳ trên mặt đất đến chấn tiêu (còn gọi là tiêu cự, ký hiệu là Δ).
Khoảng cách chấn tâm của một điểm là khoảng cách từ điểm đó đến chấn
tâm ( còn gọi là tâm cự, ký hiệu là D).
-
Chấn tiêu ở độ sâu 300-700Km gọi là chấn tiêu sâu, chấn tiêu trung bình 60300Km, chấn tiêu bình thường <60Km, chấn tiêu nông <15Km. Chấn tiêu
sâu nhất đo được là 720Km ở Florida (Mỹ). Động đất có sức tàn phá lớn
10
nhất là động đất chấn tiêu nông, toàn bộ năng lượng được giải phóng là 75%
năng lượng đàn hồi tích lũy.
b) Biểu đồ động đất
Biểu đồ ghi lại chuyển động nền theo thời gian được gọi là biểu đồ động đất
bao gồm các loại biểu đồ: chuyển vị (mm), gia tốc (m2/s), vận tốc (m/s). Biểu đồ
P
P
động đất là các tài liệu quan trọng để đánh giá tính chất của một trận động đất đồng
thời là số liệu để suy ra các thông số quan trọng trong thiết kế kháng chấn.
c) Thang động đất và cấp động đất.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều thang động đất, nhưng phổ biến nhất vẫn
là các thang đo cơ bản sau:
Thang Richter: đo độ lớn hay mức năng lượng mà động đất phát ra, được
tính bằng Magnitude (M). Một Magnitude bằng một độ Richter.
Cường độ động đất được đặc trưng bởi trị số gia tốc địa chấn a, mô tả động
đất hiện tượng động đất thông qua chuyển vị, gia tốc, vận tốc của mặt đất khi động
đất đi qua, xác định theo cấp động đất đại diện là các thang: MMI ( 12 cấp), MSK (
12 cấp), JMA (8 cấp)
Theo thang quốc tế MSK con người không thể nhận biết chấn động cấp 1-2,
cấp 3-4 sẽ gây rung động nhẹ và cấp 6-7 làm chao đảo mặt đất, chấn động cấp 7 trở
lên sẽ gây thiệt hại lớn.
Bảng 1.3: Bảng chuyển đổi tương đương giữa các thang động đất
Cấp động
Magnitud
Năng lượng
Cấp năng
đất MSK
e
E (Jun)
lượng KD
I
1
107.2
7.20
1.00
2
1010.5
10.50
4.20
1.67
3
1011.1
11.10
IV
4.60
2.33
4
1011.7
11.70
V
4.80
3.00
5
1012
12.00
VI
5.30
3.67
6
1012.75
12.75
JMA
Merkaly
1.60
1.0
II
3.80
III
P
P
P
P
P
P
11
VII
5.60
4.33
7
1013.2
13.20
VIII
5.90
5.00
8
1013.65
13.65
IX
6.30
5.67
9
1014.25
14.25
X
6.60
6.33
10
1014.7
14.70
XI
6.90
7.00
11
1015.15
15.15
XII
7.30
7.00
12
1015.75
15.75
P
P
P
P
P
P
d) Gia tốc cực đại
Gia tốc cực đại của một trận động đất là gia tốc lớn nhất của chuyển động nền đất
trong trận động đất đó. Gia tốc cực đại là đại lượng rất quan trọng, được dùng trong
tất cả các tiêu chuẩn kháng chấn hiện nay.
Xác định chính xác gia tốc cực đại ở một điểm nào đó là điều không dễ dàng
vì thiếu biểu đồ gia tốc động đất mạnh và vì tính đa dạng của dao động địa chấn. Vì
vậy người ta thường sử dụng các băng ghi gia tốc dao động nền đất đã có để thiết
lập mối tương quan thống kê giữa các gia tốc cực đại trung bình và các đặc trưng
khác của động đất.
Bảng 1.4: Bảng chuyển đổi từ đỉnh gia tốc nền sang cấp động đất
Thang MSK-64
Cấp động đất
Đỉnh gia tốc nền (a)
g
Thang MM
Cấp động đất
Đỉnh gia tốc nền (a)
g
V
0,012-0,03
V
0,03-0,04
VI
>0,03-0,06
VI
0,06-0,07
VII
>0,06-0,12
VII
0,10-0,15
VIII
>0,12-0,24
VIII
0,25-0,30
IX
>0,24-0,48
IX
0,50-0,55
X
>0,48
X
>0,60
Đất nước ta nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của động đất tương đối mạnh.
Theo Viện Vật Lý Địa Cầu, đất nước ta có bốn vùng động đất chính. Vùng động đất
thứ nhất là miền núi tây bắc bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu với cường độ động