Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.56 KB, 90 trang )
Chứng minh về mặt lý luận:
Khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội
cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội - đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng
với nhau, tác động lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng
và đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng: (Sách giáo trình Triết quyển
màu xanh dượng trang 118-119).
- Sự tác động trờ lại của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng: (Sách giáo trình Triết quyển
màu xanh dượng trang 119-120).
Chứng minh bằng thực tiễn:
Trong lịch sử, từ xa xưa cho đến nay, vẫn thường xuyên xảy ra những cuộc chiến tranh tàn khốc
mà nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc chiến tranh giữa người và người là sự tranh giành các tư liệu sinh
hoạt (thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo...). Thông thường, để gây ra một cuộc chiến tranh thì người gây
chiến phải tìm một lý do tư tưởng nào đó, tức là phải coi cuộc chiến chiến tranh ấy là “hợp lý”, “có giá trị
phổ biến”. Điều này cũng đúng đối với các hành vi bạo lực của nhà nước dùng để trấn áp sự phản kháng
của những người không chấp hành pháp luật của nhà nước. “Thật ra, mỗi giai cấp mới thay thế cho giai
cấp thống trị trước mình, muốn thực hiện được mục đích của mình, đều nhất thiết phải biểu hiện lợi ích
của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên trong xã hội hay nói một cách trừu tượng: phải
gắn cho những tư tưởng của bản thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện những tư tưởng đó
thành những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến”. Nhà nước tư sản “chẳng phải là cái
gì khác mà chỉ là hình thức tổ chức mà những người tư sản buộc phải dùng đến để bảo đảm lẫn cho nhau
sở hữu và lợi ích của họ, ở ngoài nước cũng như ở trong nước”, “nhà nước là hình thức mà các cá nhân
thuộc một giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức dưới đó toàn bộ xã hội
công dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung”.
CÂU 9: Bằng hiểu biết của mình về nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử, Anh ( chị) hãy làm sáng
tỏ luận điểm sau đây của Lênin:
“ Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học . Một lý
luận hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ
trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”
- Trước Mác các quan niệm về lịch sử mang tính duy tâm, phản khoa học…
Trước khi C.Mác đưa ra học thuyết về hình thái kinh tế xã hội thì về cơ bản chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò
thống trị trong khoa học xã hội. Thể hiện ở chỗ có những quan điểm cho rằng lịch sử phát triển không có
quy luật mà chỉ theo chiều hướng ngẫu nhiên, không đoán định, hoặc lịch sử phát triển phụ thuộc vào ý
muốn, ý thích chủ quan của con người, con người muốn phát triển như thế nào thì lịch sử sẽ phát triển
như vậy, đặc biệt là ý chí của những lãnh tụ, những bậc anh hùng, hoặc quan điểm cho rằng lịch sử là đời
sống con người ở một thời đại.
32
Lịch sử không chỉ là cuộc đời và những chuyến thám hiểm của các nhà quý tộc, các vị vua, các vị linh
mục… mà nó cho thấy những giai đoạn nối tiếp nhau của những phương thức sản xuất khác nhau, nhờ
những phương thức sản xuất đó con người đạt được sức mạnh để chiến thắng thiên nhiên
- C. Mác & Ăngghen đã vận dụng những nguyên lý của CNDVBC và PBCDV vào việc phân tích xã hội
hình thành nên CNDVLS với những quan niệm duy vật và khoa học về lịch sử:
+ SXVC quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội;
- Sản xuất vật chất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn của xã hội. Mọi người trong xã hội đều có nhu
cầu tiêu dùng (thức ăn, quần áo, nhà ở và các đồ dùng khác). Muốn vậy thì phải sản
xuất. Bởi vì, sản xuất là điều kiện của tiêu dùng, sản xuất vật chất càng phát triển thì mức tiêu dùng của
con người và xã hội càng cao; và ngược lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại được nếu không tiến
hành sản xuất ra của cải vật chất. - Sản xuất vật chất là cơ sở hình thành tất cả các quan hệ xã hội khác
như:
chính
trị,
pháp
quyền,
đạo
đức,
nghệ
thuật
v.v..
- Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội. Sản xuất vật chất của xã hội nói chung không
ngừng tiến lên từ thấp lên cao. Mỗi khi sản xuất phát triển đến một giai đoạn mới, cách thức sản xuất của
con người thay đổi, kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động nâng cao, quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất thay đổi thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng thay đổi theo.
PTSX quyết định đời sống chính trị và tinh thần nói chung. => Toản + Tâm
- Trong mỗi xã hội, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của chế độ xã hội như thế ấy;
kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các
quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học v.v, đều do phương thức sản xuất quyết định.
- Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử. Khi
một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời thì mọi mặt của đời
sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp, từ các quan điểm tư tưởng
xã hội đến các tổ chức xã hội. Lịch sử xã hội loài người đã biết đến năm phương thức sản xuất kế tiếp
nhau từ thấp lên cao, tương ứng với nó có năm xã hội cụ thể: cộng sản nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa (mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp). Do đó, lịch sử xã hội loài
người trước hết là lịch sử của sản xuất, lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình
phát triển. Việc thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới diễn ra không đơn giản,
dễ dàng. Đó là quá trình cải biến cách mạng. Phương thức sản xuất mới muốn trở thành phương thức
sảnxuất thống trị thì phải trải qua cách mạng xã hội và gắn liền với chế độ chính trị. Từ đó có thể rút ra
kết luận: Cái chìa khoá để nghiên cứu những quy luật của lịch sử xã hội không phải tìm thấy ở trong
óc người, trong tư tưởng và ý niệm của xã hội, mà là ở trong phương thức sản xuất của xã hội, trong mỗi
giai đoạn nhất định của lịch sử.
+ Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên ( theo các quy luật khách quan)
Với việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác không chỉ loại bỏ được khiếm khuyết căn bản
của những lý luận lịch sử trước đó và "lần đầu tiên” giúp chúng ta “nghiên cứu một cách chính xác như
khoa lịch sử tự nhiên, những điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều
kiện ấy", mà còn "mở đường cho việc nghiên cứu rộng rãi vàtoàn diện quá trình phát sinh, phát triển và
suy tàn của các hình thái kinh tế xã hội"(14). Và, khi nghiên cứu một xã hội cụ thể - xã hội tư bản với
quan niệm này, C.Mác đã khám phá ra các quy luật của sự phát triển xã hội, xây dựng nên học thuyết về
hình thái kinh tế - xã hội và quan niệm về sự phát triển xã hội với tư cách một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Đúng như V.I.Lênin đã chỉ rõ, khi nghiên xã hội tư bản với tư cách một chỉnh thể xã hội, C.Mác đã "làm
nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế" và trong tất cả mọi quan hệ xã hội, "làm nổi bật riêng những quan hệ sản
xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác"; đồng thời, "đem
33
quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ
của những lực lượng sản xuất". Bằng cách đó, V.I.Lênin khẳng định, C.Mác đã "có được một cơ sở vững
chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"(15). Trong
toàn bộ lịch sử tư tưởng xã hội, V.I.Lênin nhấn mạnh, quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác là một
"quan niệm khoa học duy nhất về lịch sử", "một nguyên lý đã được chứng minh một cách khoa học" và
do vậy, tư tưởng coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên của
ông, "tự bản thân nó, cũng đã là một tư tưởng thiên tài rồi"(16). "Triết học của chủ nghĩa Mác là chủ
nghĩa duy vật". Khi xây dựng hệ thống triết học của mình, C.Mác không chỉ làm cho phép biện chứng
duy vật trở thành một khoa học và sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử mà còn tạo ra bước ngoặt cách
mạng trong quan niệm về con người và giải phóng con người. Coi tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của
con người - đó là con người phải có khả năng sống rồi mới có thể "làm ra lịch sử", C.Mác cho rằng, hành
vi lịch sử đầu tiên của con người là "sản xuất ra bản thân đời sống vật chất". Với quan niệm này, khi phê
phán quan điểm duy tâm tư biện của Hêghen về con người, C.Mác đã đưa ra quan niệm coi con người là
một thực thể sinh học - xã hội hiện thực và khẳng định "con người không phải là một sinh vật trừu tượng,
ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới", mà "con người chính là thế giớicon người, là nhà nước, là xã hội"(17).
Với việc đặt ra theo một cách mới nhiệm vụ nhận thức đời sống xã hội hiện thực của con người, C.Mác
đã triệt để phê phán quan điểm của Phoiơbắc về con người. Và, khi phê phán Phoiơbắc đã "hòa tan thế
giới tôn giáo vào cơ sở trần tục của nó", "hòa tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người", C.Mác đã
khẳng định: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội"(18). Với luận điểm coi "giới
tự nhiên là thân thể vô cơ của con người", C.Mác đã khẳng định rằng, "con người là một bộ phận của giới
tự nhiên"(19). Song, hoạt động sinh sống của con người, theo C.Mác, là "hoạt động sinh sống có ý thức"
và do vậy, bằng hoạt động lao động của mình, con người đã làm biến đổi bản chất tự nhiên và tạo ra bản
chất xã hội của chính mình. Rằng, con người không chỉ sống trong môi trường tự nhiên, mà còn sống
trong môi trường xã hội, nên tự nhiên và xã hội trong mỗi con người gắn bó khăng khít với nhau; yếu tố
sinh học trong mỗi con người không phải tồn tại bên cạnhyếu tố xã hội, mà chúng hòa quyện vào nhau và
tồn tại trong yếu tố xã hội; do vậy, bản tính tự nhiên được chuyển vào bản tính xã hội và được cải biến ở
trong đó. Và, chỉ có trong xã hội, con người mới thể hiện bản chất tự nhiên và xã hội của mình; do vậy, tự
nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất con người, làm cho con người trở thành một chỉnh thể
tồn tại với cả hai mặt tự nhiên và xã hội, hình thành nên mối quan hệ khăng khít: Con người - tự nhiên xã hội.
Khẳng định "bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội", C.Mác còn tiến hành phân tích vị thế
chủ thể, vai trò sáng tạo lịch sử của con người. Xem xét vị thế của con người trong tiến trình phát triển
của lịch sử, C.Mác đã đi đến quan niệm rằng, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được
quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất - "kết quả của nghịlực thực tiễn của con người". Hoạt
động thực tiễn này, đến lượt nó, lại bị quy định bởi những điều kiện sinh tồn của con người, bởi "một
hình thức xã hội đã tồn tại trước khi có những lực lượng sản xuất ấy". Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng
nhận được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra và sử dụng chúng làm phương tiện cho hoạt
động sản xuất mới. Nhờ sự chuyển giao lực lượng sản xuất này mà con người đã "hình thành nên mối liên
hệ trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người". Lực lượng sản xuất và do đó, cả quan hệ sản
xuất - quan hệ xã hội của con người, ngày càng phát triển thì "lịch sử đó càng trở thành lịch sử loài
người". Với quan niệm này, C.Mác kết luận: "Xã hội… là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những
con người", "lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con
34
người"(20); và con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của tiến trình phát triển lịch sử, con người làm
nên lịch sử của chính mình và do vậy, lịch sử là lịch sử của con người, do con người và vì con người.
+ Nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước
I. Nguồn gốc Nhà nước.
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ, do kinh tế còn
thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà nước.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai
cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ
các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không diễn
ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước
chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.
Tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được.
II. Bản chất nhà nước.
Khái niệm Nhà nước:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và quản
lý xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối
kháng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Bản chất của Nhà nước:
Bản chất của nhà nước thể hiện dưới hai đặc tính cơ bản:
Thứ nhất, là tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để
thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã
hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi
ích của giai cấp nào?
Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã hội tư sản) nhà nước đều có bản chất
chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế, chính trị
và tư tưởng.
Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách:
Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm các
quyền của công dân được thực thi.
Thứ hai là tính xã hội hay còn gọi là vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng lớp giai cấp khác, do vậy
ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã
hội.
Như vậy, vai trò kinh tế - xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ
biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm
vi hoạt động của nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà nước,
song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Để hoạt động có hiệu quả, nhà nước phải chọn lĩnh vực hoạt động nào là cơ bản, cần thiết để tác động.
Bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước sẽ mang lại hậu quả xấu cho xã hội.
35
III .Chức năng của nhà nước
Nhà nước có 2 chức năng: đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội:
• Chủ yếu là trấn áp, bạo lực để bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp bóc lột
• Đàn áp các cuộc cách mạng của quần chúng
• Sử dụng bộ máy truyền thông, các cơ quan VH, GD, các tổ chức XH, làm cho tư tưởng, tổ chức của giai
cấp thống trị thống trị XH.
Chức năng đối ngoại: chủ yếu là bảo vệ và mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chiến tranh xâm lược nhau
nhằm mở rộng sự thống trị của giai cấp bóc lột trong nước.
Quan hệ giữa 2 chức năng: trong 2 chức năng thì chức năng đối nội là chủ yếu và quyết định vì:
• Tính chất đường lối đối nội quyết định tính chất, đường lối đối ngoại
• Ngoài ra nhà nước còn có chức năng công quyền như duy trì trật tự công cộng, xét xử những vụ tranh
chấp thông thường trong XH, quản lý kinh tế, văn hóa.
+ Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội mang tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn
tại xã hội
III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA
Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
a) Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Các yếu tố cơ bản tạo thành tồn tại xã hội bao gồm: phương thức sản xuất vật chất, các
yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý và dân cư. Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ
thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó
phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự thống nhất biện chứng nhưng không đồng nhất. Mối
quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân thuộc mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
b) Vai trò quyết của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Một trong những công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là đã phát triển chủ nghĩa duy vật đến
đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, giải quyết một cách khoa học vấn đề về sự hình thành
và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và
phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất; rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội
trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự
biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được chính xác nguyên nhân cuối cùng nếu
chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Theo C.Mác: "...không thể nhận định về một thời đại đảo lộn nh ư
thế căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời
sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã
hội".1
1
C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 13, tr. 15.
36
Quan điểm trên đây đối lập với quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về xã hội, tức đối lập với quan
điểm đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, coi đó là nguồn gốc của mọi
hiện tượng xã hội, quyết định sự phát triển xã hội và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời
cơ sở kinh tế - xã hội. Ngược lại, theo quan điểm duy vật lịch sử thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội; ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã
hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về
chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, v.v. tất yếu sẽ biến đổi theo. Cho nên ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, t ư tưởng xã hội khác
nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng lại ở chỗ xác định sự
phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà còn chỉ ra rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư
tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ
kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được
phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội không chỉ khẳng định tính quyết định của tồn tại xã hội
đối với ý thức xã hội mà còn Iàm sáng tỏ những nội dung của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Nội dung tính độc lập tương đối của ý thức xã hộiđược phân tích trên các phương diện chính sau:
Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Theo nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội thì khi tồn tại xã hội biến đổi sẽ tất yếu dẫn
tới những sự biến đổi của ý thức xã hội. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn
tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội; trái lại, nhiều yếu tố của ý thức xã hội
(trong đời sống tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội) có thể còn tồn tại rất lâu dài ngay cả khi cơ sở tồn tại
xã hội sản sinh ra nó đã được thay đổi căn bản. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực
lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật
lịch sử đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt
những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai
và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải
quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên,
suy đến cùng, khả năng phản ánh vượt trước ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó.
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi
thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý
luận của các thời đại trước.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào đó
nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước
đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn
học, nghệ thuật, v.v. nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của
kinh tế.
37
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó.
Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trư ớc. Các giai cấp
tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm cho trong mỗi hình
thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái
ý thức khác. Ngày nay, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị
thường có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát
triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan điểm duy tâm (là quan điểm đã tuyệt đối hóa
vai trò của ý thức xã hội), mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế
(tức quan điểm phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội).
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử
cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp
mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã
hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng; v.v.. Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò
của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã
chỉ ra bức tranh phức tạp trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần xã hội nói chung;
nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội.
Quan điểm duy vật mácxít về tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội là một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử; là một
trong những cơ sở phương pháp luận căn bản của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Theo nguyên lý này,
một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã
làm nảy sinh ra nó, nhưng mặt khác cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện
khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng. Do đó, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới cần phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong
đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội cũ; đồng thời, cũng
cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn
trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với
những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
+ Bản chất con người…
b) Bản chất của con người
Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu tượng hóa, tuyệt đối hóa
phương diện tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội
của nó, do đó về căn bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm
duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con
người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản
tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách "người", phân biệt con
38
người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự
nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương
diện tính hiện thực của nó, chính là "tổng hòa của các quan hệ xã hội", bởi xã hội chính là xã hội của con
người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn
hóa…
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát
triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân
tích và lý giải sự hình thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ
nhân chủng học, tức phương diện bản tính tự nhiên, “người da đen” vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ
trong quan hệ kinh tế - chính trị của xã hội chiếm hữu nô lệ anh ta mới có thể bị biến thành “người nô
lệ”, còn trong quan hệ kinh tế - chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa, anh ta là “người tự do”, làm chủ và sáng
tạo lịch sử. Như thế, không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da trắng, nó là
sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội trong những điều kiện lịch sử xác định, khi
những quan hệ này thay đổi thì do đó cũng có sự thay đổi bản chất của con người. Cũng do vậy, sự giải
phóng bản chất con người cần phải là hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế - chính trị - xã hội
của nó, thông qua đó mà có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử
nhất định. Cần phải từ quan niệm như thế mới có thể lý giải đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của
con người. Sự hạn chế về năng lực sáng tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ
bản tính tự nhiên của họ mà trái lại cần phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển của
các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất
xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người
lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người - chủ
thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Từ đó có
thể thấy hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình về bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ
nhận thấy tính quyết định của hoàn cảnh lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng
tạo của con người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động
thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó
thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người có thể rút ra ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn thuần từ
phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản
tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo lịch sử
của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy
nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là
hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể
thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu xóa
bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con
người. Thông qua cuộc cách mạng đó nó cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng
phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm xác lập
39
và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của
người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản:
"mỗi người vì mọi người; mọi người vì mỗi người".
+ Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
a) Khái niệm quần chúng nhân dân
Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải là theo phương thức hành vi đơn lẻ, rời
rạc, cô độc của mỗi con người mà là theo phương thức liên kết những con người thành sức mạnh cộng
đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nhằm
giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội - cộng đồng đó
chính là quần chúng nhân dân.
b) Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử
Về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử trước Mác đều không nhận thức đúng vai trò sáng
tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy
tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.
Theo quan điểm duy vật duy vật lịch sử, quần chúng nhân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch
sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động
của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hoi.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân
được phân tích từ ba giác độ sau đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra
của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội - đây là nhu cầu quan
trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời cũng là lực
lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội; là lực lượng trực tiếp hay gián
tiếp "kiểm chứng" các giá trị tinh thần đã được các thế hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử. Hoạt
động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực có ý nghĩa quyết định và là cội nguồn phát sinh những
sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội. Mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng
cũng là để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực một khi được vật
chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và các cuộc
cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không có một cuộc cách mạng hay cuộc cải
cách xã hội nào có thể thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông đảo quần
chúng nhân dân. Với ý nghĩa như vậy có thể nói: cách mạng là "ngày hội của quần chúng" và trong những
ngày đó quần chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử "một ngày bằng hai mươi năm". Như vậy, những
cuộc cách mạng và cải cách xã hội cần đến lực lượng quần chúng nhân dân và sức sáng tạo của quần
chúng nhân dân cũng cần có những cuộc cách mạng và cải cách xã hội. Đó chính là biện chứng của quá
trình phát triển xã hội.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của
mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng
đồng nhân dân.
Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo lịch sử thì mỗi cá nhân tùy theo vị trí, chức năng, vai
trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ mà có thể tham gia vào quá trình sáng tạo lịch sử của cộng đồng
40
nhân dân. Theo ý nghĩa ấy, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều "in dấu ấn" của nó vào quá trình
sáng tạo lịch sử, mặc dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau. Thế nhưng, để lại những dấu ấn sâu sắc
nhất trong tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân. Vĩ nhân
là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật…
Bất cứ một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải
quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ
đó.
Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ qua vai trò của cá nhân, hoặc tuyệt
đối hóa vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân mà xem thường vai trò của quần chúng nhân dân thì
đều là không biện chứng trong việc nghiên cứu về lịch sử, và do đó không thể lý giải chính xác tiến trình
vận động, phát triển của lịch sử nhân loại nói chung cũng như mỗi cộng đồng xã hội nói riêng.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các điều kiện khách quan và
chủ quan. Đó là: trình độ phát triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của mỗi cá
nhân, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng xã hội, trình độ tổ chức xã hội, bản chất của chế
độ xã hội, v.v.. Do vậy, việc phân tích vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân cần phải
đứng trên quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử, cụ thể.
CÂU 10: Hãy giải thích và chứng minh luận điểm sau đây của Lênin:
“ Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những
quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ
sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên”
- Gải thích: Luận điểm trên chỉ rõ sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên diễn ra
theo các quy luật khách quan mà quy luật cơ bản, quan trọng nhất là quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; điều đó có nghĩa, xét tới cùng sự phát triển của xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên được bắt đầu từ sự phát triển của LLSX
Tính chất lịch sử tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế xã hội được phân tích
ở các nội dung chủ yếu sau:
- Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo
các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân hình thái kinh tế xã hội, là hệ thống các
quy luật xã hội mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình,
quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một
cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. V.I.Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan hệ
xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng
sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên - Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử
nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa...của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực
tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.
- Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, và do đó là sự phát triển của lịch sử xã hội
loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính
41
-
là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân
loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế xã hội:
nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế
nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân loại. Song, con đường phát triển của
mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự
nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế, v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của
nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của
mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có
những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng
diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Như vậy, quá trình
lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn
bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất
định
Khái niệm HTKT – XH và cấu trúc của HTKT – XH
Hình thái kinh tế xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa
duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã
hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Cấu trúc hình thái kinh tế xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ
bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã
hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
•
Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái
kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết
định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
•
Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội
khác.[3] Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội
•
Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là
công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
•
Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ
về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng
và lĩnh vực xã hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động
qua lại, thống nhất với nhau gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản
xuất.
42