1. Trang chủ >
  2. Giáo án - Bài giảng >
  3. Cao đẳng - Đại học >

Câu 22. Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phân tích mâu thuẫn (phân đôi cái thống nhất). Đảng CSVN đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt N

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.56 KB, 90 trang )














Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà

trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để can thiệp đúng lúc, đúng chỗ,

đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triển của bản thân sự vật để lèo lái nó theo đúng quy

luật và hợp lợi ích chúng ta. Cụ thể:

Muốn sự vật thay đổi nhanh phải đẩy mạnh sự tác động (đấu tranh) của các mặt đối lập và tạo

điều kiện thuận lợi để chúng nhanh chóng chuyễn hóa lẫn nhau, để mâu thuẫn biện chứng sớm

được giải quyết; ngược lại, muốn duy trì sự ổn định của sự vật phải dung hòa sự xung đột của các

mặt đối lập trong phạm vi cho phép

Khi điều kiện đã hội đủ và mâu thuẫn biện chứng đã chin mùi phải cương quyết giải quyết nó mà

không nên chần chừ, do dự hay thỏa hiệp; tức giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng chỗ và đúng

mức độ….



Đảng CSVN đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?

Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta có một số đặc điểm sau đây:

+ Thể chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xây dựng bước đầu, kinh tế vĩ mô tương đối ổn

định

+ Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần

+ Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài

+ Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lý của nhà

nước

Trong nền kinh tế thị trường có những mâu thuẫn cơ bản phát sinh và sự vận dụng của Đảng ta

như:

+ Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:

Trên phương diện triết học, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và QHSX là mối quan hệ đối

lập.Trong điều kiện hiện hiện nay ở nước ta , khi mà lực lượng sản xuất đang từng bước phát triển mạnh

mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đòi hỏi phải xây dựng một QHSX phù hợp với yêu cầu phát triển đó .

Đại hội Đảng toàn quốc lần X đã chủ trương thực hiện nhất quán việc xây dựng QHSX trong điều kiện ph

át triển kinh tế thị trương ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay,

đó là việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần .Các thành phần kinh tế kinh

doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ch

ủ nghĩa , cùng phát triển lâu dài , hợp tác và cạnh tranh lành mạnh . Các thành phần kinh tế đó là : kinh tế

nhà nước ; kinh tế tập thể ; kinh tế cá thể , tiểu chủ ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản Nhà nước.

Đảng ta còn chủ trương phát triển các hình thức kinh doanh đan xen , hỗn hợp nhiều hình thức

hữu giữa các thành phần kinh tế với nhau , giữa trong nước và ngoàinước; phát triển hình thức

tổchức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng vốn đầu tư xã hội ; nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết

công nghiệp và nông nghiệp, phát triển các loại hình kinh tế trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa b

àn.

62



+ Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế tất nhiên dẫn đến mối quan hệ giữa chúng đó là mối quan hệ biên

chứng vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau.. Sự thống nhất của các thành phần kinh tế được thể hiện

chúng đều là bộ phận cấu thành chung của nền kinh tế Việt Nam, do đó chúng đều bị chi phối của các

chính sách kinh tế chung, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, giữa chúng có sự mâu

thuẫn, mâu thuẫn này thể hiện giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, với Nhà nước, giữa xu

hướng tư bản chủ nghĩa và CNXH. Do đó Đảng ta chủ trương xây dựng phát triển các thành phần kinh tế

trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan, xem mâu thuẫn là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế, có

đấu tranh có phát triển. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước cũng tạo điều kiện và môi trường cạnh tranh bình

đẳng, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, từng bước xóa bỏ, bài trừ những mặt tiêu cực, không phù hợp

+Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội

chủ nghĩa.

Giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có sự mâu thuẫn đó là:

kinh tế thị trường tạo ra động lực, phát huy nguồn lực con người, tuy nhiên nó cũng là một lều thuốc độc

hủy hoại con người. Vì vậy, Đảng và nhà nước đã chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường cần tạo

điều kiện vật chất để xây dựng phát huy nguồn lực con người, tạo ra môi trường thích hợp để con người

phát triển toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần. Đảng ta xác định “ sản xuất hàng hòa không đối lập với

chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết trong

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và có khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”

Chúng ta vận dụng nguyên tắc này: (tham khảo thêm)

Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta

là: “ Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”

Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh té, trong đó kinh tế nhà nước đóng

vai trò chủ đạo. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính

sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục..., giải

quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân

phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp

vốn cựng cỏc nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.

Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết

nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước

Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng:

Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế,

chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới căn bản công

tác quy hoạch, kế hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh của

quốc gia, vùng và địa phương, thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã

hội. Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn



63



lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh

lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương.

Hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan

trọng, hệ thống an sinh xã hội.

Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro

và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.

Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ

kinh tế; đồng thời sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp cần thiết khi thị

trường trong nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế giới

có biến động lớn.

Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ

bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh

Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước

độc quyền kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản

lý giá. Phát triển mạnh thương mại trong nước; tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩuĐẩy mạnh tự do

hoá thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo

bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị trường dịch vụ, nhất là những dịch vụ

cao cấp, có hàm lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng lớn.

Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ

theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động

của thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Huy động mọi nguồn vốn trong xã

hội cho đầu tư phát triển. Hiện đại hoá và đa dạng hóa

các

hoạt động của thị trường tiền tệ. Xây dựng các ngân hàng thương mại nhà nước

vững mạnh về mọi

mặt. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh

doanh

Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình

thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư

nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư

nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận

hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng

trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà

nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng

và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế

cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền

tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là

một trong những động lực của nền kinh tế. Thu hút mạnh nguồn lựccủa các nhà đầu tư nước

ngoài.Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng

hóa

các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề,

lĩnh vực kinh doanh quan trọng.



64



Câu 23. Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phân tích lượng –

chất. Đảng CSVN đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào quá trình xây dựng nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?

Cơ sở lý luận của nguyên tắc lượng chất chính là nội dung của Quy luật chuyển hóa từ những sự

thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là

quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội

và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay

đổi về chất của sự vật có cơ sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật và ngược lại, những sự

thay đổi về chất của sự vật lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật trên các phương diện khác

nhau, v.v.. Đó là quan hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát

triển của sự vật, thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

Khái niệm chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy

-



-



Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là

nó, giúp phân biệt nó với các sự vật khác

Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị về mặt quy mô ,

tốc độ, trình độ của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó.

Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm cho

chất thay đổi căn bản, chất cũ chưa mất đi và chất mới vẫn chưa xuất hiện. Chất và lượng tồn

tại khách quan, phổ biến, đa dạng, tương đối và thông nhất với nhau trong độ

Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ mốc ( giới hạn) mà sự thay đổi về lượng vượt qua nó

sẽ làm chất thay đổi căn bản

Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất do những thay đổi về lượng

trước đó gây ra. Bước nhảy là giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của bản thân sự vật,

nó tồn tại khách quan, phổ biến, đa dạng. Bước nhảy có thể chia thành: Bước nhảy toàn bộbước nhảy cục bộ; Bước nhảy đột biến- bước nhảy dần dần; Bước nhảy trong tự nhiên- bước

nhảy trong xã hội- bước nhảy trong tư duy….Bước nhảy khác nhau có vai trò không giống nhau

đối với tiến trình vận động và phát triển của bản thân sự vật.



Nội dung quy luật:

-



-



-



-



Mọi sự vật đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận động, phát triển; Mọi sự vật nằm trong quá trình vận

động. phát triển đều được đặc trưng bằng chất và lượng; chất và lượng thống nhất với nhau qua

độ.

Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về lượng ( một cách liên tục hay tiệm tiến);

nếu lượng chỉ thay đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì chất không thay đổi căn bản; khi

lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất sẽ thay đổi căn bản , bước nhảy nhất định sẽ

xảy ra.

Bước nhảy làm cho chất thay đổi ( một cách gián đoạn hay đột biến); Chất ( sự vật) cũ mất đi,

chất ( sự vật) mới ra đời; chất mới gây ra sự thay đổi về lượng ( làm thay đổi quy mô tồn tại, tốc

độ, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật).

Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất, và sự thay đổi về chất gây ra sự thay đổi về

lượng là phương thức vận động phát triển của mọi sự vật trong thế giới. Vận động và phát triển

xảy ra trong thế giới vật chất vừa mang tình liên tục vừa mang tính gián đoạn.

65



Phân tích:

-



Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của

lượng và của Chất không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản Chất

của sự vật.Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi

căn bản Chất của sự vật đó. Khi vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ

mất đi, chất mới ra đời ( bước nhảy xảy ra)



Ví dụ: khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác nhau ( chấttrạng thái), ứng với chất- trạng thái đó, Lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù Lượng có thay đổi trong một

phạm vi khá lớn ( 0 độ C
thái). Khi nhiệt độ của nước giảm đến 0 độ C nước sẽ chuyển sang trạng thái rắn và khi đạt đến 100 độ C

nước sẽ chuyển sang trạng thái hơi ( bước nhảy xáy ra). Ở đây, 0 độ C và 100 độ C được gọi là điểm nút.

- Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút. Sau khi ra đời. chất

mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật. làm

thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.

Yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phân tích lượng – chất chính là ý nghĩa của Phương

pháp luận:

Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải:

- Phát hiện chính xác các quy định về chất và lượng của sự vật; thấy được sự thống nhất giữa chúng

để xác định đúng độ, điểm nút của sự vật;

- phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác định đúng tính chất , quy mô, tiến độ của

bước nhảy có thể xảy ra;

- Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá độ, quá điểm nút; còn nếu lượng chưa

thay đổi qua độ, chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra , chất chưa thay đổi căn bản được;

- Xác định được chất mới ( sau khi sự vật thực hiện bước nhảy); qua đó xác định lượng độ, điểm

nút và bước nhảy, tức định hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật cũ như thế nào .

Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:

- Hiểu rõ phương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;

- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công cụ, phương tiện vật chất can thiệp

đúng lúc , đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triển của sự vật, lèo lái nó theo đúng

quy luật và hợp lợi ích của chúng ta. Cụ thể:

+ Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy thay đổi về lượng để làm biến đổi về Chất theo

đúng quy luật. Tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí. nôn nóng" đốt cháy giai đoạn", muốn thực hiện Bước

nhảy liên tục;

+ Muốn duy trì sự ổn định của chất phải giữ sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới hạn độ;

+ Khi lượng thay đổi đạt tới giới hạn độ phải kiên quyết thực hiện bước nhảy, kịp thời chuyển đổi

những thay đổi về Lượng thành những thay đổi về Chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến húa sang



66



những thay đổi mang tính chất cách mạng. Khắc phục tưởng trì trệ, bảo thủ, ' ' hữu khuynh' ' coi sự phát

triển đơn thuần chỉ là thay đổi về Lượng

+ Vì hình thức các Bước nhảy rất đa dạng, phong phú nên phải biết vận dụng linh hoạt các hình

thức Bước nhảy để đẩy nhanh quá trình phát triển của sự vật

+ Trong hoạt động thực tiễn phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu

thành nên sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó.



Đảng CSVN đang vận dụng nguyên tắc này vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay:

I. VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1986

Có thể nói chúng ta đã quá nóng vội trong xây dựng CNXH sau chiến tranh mà không nhìn thấy tình

hình trước mắt cũng như những gì chúng ta đang có. Nói cách khác chúng ta muốn xây dựng một Chất

mới mà lại không có quá trình tích lũy đủ về Lượng. Chúng ta đi theo ánh sáng chủ nghĩa Mac - Lenin

nhưng chúng ta chưa nghiên cứu sâu sắc vì thế chúng ta đã vận dụng một cách ấu trĩ, chủ quan duy ý chí

vào xây dựng CNXH. Chúng ta rập khuôn mô hình xây dưng CNXH ở Liên Xô mà không thấy sự khác

biệt cả về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội giữa Việt Nam và Liên Xô. Bởi vậy chúng ta đã nhận được

những hõu quả tất yếu.

Nền kinh tế tăng trưởng chậm, tất cả 15 chỉ tiêu kế hoạch đưa ra trong kế hoạch 5 năm lần thứ 3

(1976-1980) đều không đạt được

Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế yếu kém, cũ nát, thiếu đồng bộ, trình độ kỹ thuật lạc hậu; phân

công lao động kém phát triển, năng suất lao động thấp kém.

Nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng sản xuất không đủ tiêu dùng; tăng trưởng kinh tế không tương

xứng với tốc độ gia tăng dân số; nợ nước ngoài lên tới 8. 5 tỷ rỳp - USD vào năm 1985

Phân phối lưu thông rối ren; thị trường , tài chính , tiền tệ không ổn định ; ngân sách nhà nước bội chi

liên tục phải bù đắp bằng phát hành . Lạm phát ngày càng tăng nhanh , giá cả leo thang từng ngày, tình

hình kinh tế bất ổn định.

Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn; tiêu cực và bất công xã hội tăng lên; trật tự xã hội giảm

sút. Nước ta khủng hoảng nghiêm trọng về cả kinh tế, chính trị, xã hội.

Trước tình hình đó Đại hội VI của Đảng đã nhận định lại những sai lầm khuyết điểm trong đánh giá tình

hình, bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo CNXH, cơ chế quản lý và những khó khăn khách quan của nền kinh tế.

Từ đó Đảng ta đã rút ra những bài học quý giá trong CNH - HĐH xây dựng CNXH. Đảng ta xác định lực

lượng sản xuất bị kìm hãm khong chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản

xuất phát triển không đồng bộ. Bởi vậy đổi mới đất nước CNH - HĐH nền kinh tế là nhiệm vụ quan trọng

trong thời kỳ mới.

II. SỰ NGHIỆP CNH - HĐH ĐẤT NƯỚC TỪ 1986 ĐẾN NAY

1.Thành công

1. 1-Sự đổi mới về Chất phù hợp với Lượng của nền kinh tế

Trung thành với quan điểm đúng đắn của Lênin ''. . . Chúng ta nhận thấy rõ là chưa nên xây

dựng trực tiếp CNXH , mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế của chúng ta, cần phải lùi về CNTB nhà nước , từ

bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu cuộc bao vây lâu dài. . . Trong một nước tiểu nông, trước hết

các đồng chí phải băc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua CNTB nhà nước, tiến lên CNXH...''

67



Đại hội VI của Đảng đã xây dựng đường lối phát triển thị trường theo định hướng XHCN . Đó là sự đổi

mới con đường, biện pháp, bước đi của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới; thử nghiệm những hình

thức kinh tế phù hợp với thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất và đem lại hiệu quả kinh tế thực sự.

Với đường lối phát triển đó chúng ta đã phải xác định đúng Chất mà chúng ta phải có tương ứng với

Lượng thực tế của đất nước. Đó là:

Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường dưới sự điều tiết của nhà

nước . Đối với một nước tiểu nông CNTB chưa phát triển , chưa có mâu thuẫn kinh tế cơ bản giữa trỡng

độ xã hội hoá cao của LLSX với sự chiếm hữu tư nhân TBCN thì chế độ tư hữu chưa'' hết thời'' mà vẫn

còn tác dụng tích cực nhất định đến tăng trưởng kinh tế. Xóa bỏ hoàn toàn tư hữu sớm là trái với quy luật

khách quan, trái với quá trình phát triển của tự nhiên. Bởi vậy đây được coi là biện pháp có ý chiến lược

nhằm khai thác khả năng của mọi thành phần kinh tế, giải phóng sức sản xuất và xây dựng một cơ cấu

kinh tế hợp lý. quan điểm này đã được cụ thể húa bằng một loạt các văn bản quy phạm pháp luật về đổi

mới doanh nghiệp nhà nước, đổi mới kinh tế hợp tác, phát triển kinh tế tư nhân và các loại hình sở hữu

hỗn hợp như Nghị định 44/CP, Nghị định 388/HĐBT, Luật đầu tư nước noài, luật doanh nghiệp... và vẫn

đang tiếp tục hoàn chỉnh nhằm khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đặc biệt là kinh tế tư nhân.

Cơ chế quản lý kinh tế đổi mới theo hướng xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành

theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước. Nhà nước thay đổi phương pháp và công cụ quản lý

nền kinh tế chủ yếu bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô như chính trường

và lưu thông tiền tệ còn chưa phù hợp, dể xảy ra đầu cơ gây đột biến giá một số mặt hàng thiết yếu.

Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa thật chủ động, chưa gắn liền với hoàn thiện chính sách pháp

luật. Sức cạnh tranh của hàng hoá chưa theo kịp yêu cầu hội nhập. Tỷ lệ xuất khẩu qua chế biến, chế tác

còn thấp quy mô xuất khẩu còn nhỏ nhập siêu còn lớn. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu so

với nhiều nước trong khu vực.

Bộ máy nhà nước chậm đổi mới, caỉ cách hành chính chưa thực sự hiệu quả, quan liêu tham nhũng

lãng phí còn nhiều nghiêm trọng, điển hình là PMU 18, bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi còn yếu

kém. Viẹc đấu tranh và chống âm mưu phá hoại cuả các thế lực thù địch còn thiếu chủ động, côn tác đối

ngoại còn thiếu chiều sâu, tuyên truyền còn kém.

Có thể thấy để thực hiện thành công mục tiêu CNH - HĐH trước mắt nước ta còn rất nhiều việc phải

làm nhằm nâng cao lượng, cải tạo chất cuả nốn kinh tế.

Câu 24. Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng.

Đảng CSVN đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào quá trình xây dựng nền văn hóa

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?

a) Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng

Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận. Sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại,

phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình

thái tồn tại khác của cùng một sự vật trong quá trình vận động, phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là sự

phủ định.

Mọi quá trình vận động và phát triển trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy đều diễn ra

thông qua những sự phủ định, trong đó có những sự phủ định chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có

những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Những sự phủ định tạo ra

điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật được gọi là sự phủ định biện chứng.

68



Với tư cách không chỉ là học thuyết về sự biến đổi nói chung mà căn bản là học thuyết về sự phát

triển, phép biện chứng duy vật chú trọng phân tích không phải sự phủ định nói chung mà căn bản là sự

phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.

Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân

sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong bản thân

sự vật; tạo khả năng ra đời của cái mới, thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản

thân sự vật. Vì thế, phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ định.

Phủ định biện chứng có tính kế thừa: kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ nhân tố phản

quy luật. Phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn cái cũ, mà trái lại cái mới ra đời trên

cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên tính liên tục của sự phát triển.

Đó là sự phủ định mà trong đó cái mới hình thành và phát triển tự thân, thông qua quá trình lọc bỏ những

mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực. V.I.Lênin cho rằng: "Không phải sự phủ định sạch

trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự,

cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng…, mà là sự phủ định

coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển…” 2. Bởi vậy, phủ định biện chứng là

khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá

trình vận động, phát triển của sự vật.

b) Phủ định của phủ định

Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, tạo

nên khuynh hướng phát triển của sự vật từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ

theo hình thức "xoáy ốc”.

Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo

ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Trải qua nhiều lần phủ định, tức "phủ định

của phủ định" sẽ tất yếu dẫn tới kết quả là sự vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật.

Tính chất chu kỳ của các quá trình phát triển thường diễn ra theo hình thức "xoáy ốc’’, đó cũng là

tính chất "phủ định của phủ định". Theo tính chất này, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thường trải qua

hai lần phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại

những đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển

nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua hai lần phủ định.

Theo V.I.Lênin: "Từ khẳng định đến phủ định - từ sự phủ định đến "sự thống nhất" với cái bị khẳng

định - không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự phủ định sạch trơn, một trò chơi hay là chủ

nghĩa hoài nghi"3.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát triển: đó không

phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng, mà là phát triển theo hình thức con đường

"xoáy ốc". V.I.Lênin đã khái quát con đường đó như sau: "Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn

đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn ("phủ định của phủ định"); sự phát triển

có thể nói là theo đường tròn xoáy ốc chứ không phải theo con đường thẳng…” 4.



2



Sđd, tr. 245.

Sđd, tr. 246.

4

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t. 26, tr. 65.

3



69



Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là

tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc, dường như lặp lại, nhưng với

một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vòng trong đường xoáy ốc phản ánh quá trình phát triển vô tận

từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, phủ định biện

chứng đã đóng vai trò là những "vòng khâu’’ của quá trình đó.

Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản

ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ

định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung

tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận

xét về vai trò của quy luật này, Ph.Ăngghen đã viết: ‘‘…phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô

cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển

của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy"5.

c) Ý nghĩa phương pháp luận

Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận

động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường

quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp

của quá trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật.

Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự phát

triển, phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan

cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là

phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách

mạng.

Theo quy luật phủ định của phủ định, trong thế giới khách quan, cái mới tất yếu phải ra đời để thay

thế cái cũ. Trong tự nhiên, cái mới ra đời và phát triển theo quy luật khách quan. Trong đời sống xã hội,

cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng tạo của con người. Vì vậy,

chúng ta cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có niềm tin vào sự tất

thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo

thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định.

Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hi trong quá trình phủ định cái cũ phải theo nguyên tắc

kế thừa có phê phán; kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy

luật nhằm thúc đẩy sự vật, phát triển theo hướng tiến bộ.



SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA.

Mỗi sự vật hiện tượng đều có phương thức định riêng nên Đảng ta đã

vận dụng linh hoạt sáng tạo quy luật phủ định của phủ định nói riêng và chữ

nghĩa Mác nói chung trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.



5



C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 20, tr. 200.



70



Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội: nước ta nặng về dập khuôn

một cách máy móc, áp dụng nguyên si mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa

Liên Xô cũ đã dẫn tới rất nhiều lần sai lầm, thực hiện chế độ bao cấp "chia

đều" làm cho nền kinh tế trì trệ không phát triển gây mất nhiền tin của nhân

dân vào Đảng, vào nhà nước vào mô hình xã hội, xã hội chủ nghĩa mà nước ta

đang áp dụng. Bên cạnh đó, thời kỳ này Đảng và nhà nước còn có xu thế xoá

bỏ thì xoá bỏ toàn bộ, phủ định thì phủ định sạch trơn. Ví dụ như trong một

thời gian dài nhà nước không chấp nhận nền kinh tế hàng hoá vận hành trong

nền kinh tế thị trường - mét mô hình kinh tế đem lại hiệu quả vô cùng to lớn

cho nên kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Từ khi đổi mới, Đảng ta vận dụng sáng tạo, linh hoạt quy luật phủ định

của phủ định. Biết lùa chọn cái hay, cái tinh hoa để kế thừa. Đảng đã phát

hiện ra và xây dựng được nhiều mô hình kinh tế xã hội mới phù hợp với từng

bước phát triển của cả nước và các vùng ngành nghề khác nhau do đó đã phát

huy được thế mạnh tiềm năng, nội lực của từng ngành nghề, miền khác nhau

theo nguyên tắc Nhà nước và nhân dân cùng làng. Các mô hình mới về kinh

tế xã hội như mô hình khoán, VAC, trang trại, các mô hình hợp tác xã chuyển

đổi, các mô hình kinh doanh doanh nghiệp tư nhân, các mô hình Công ty… đã

thực sự được áp dụng rộng rãi, linh hoạt và đạt được những thành công vững

chắc, đưa đất nước tiến lên mạnh mẽ tiếp con đường dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ văn minh… bên cạnh đó, Đảng ta đã áp dụng quy luật

này trong việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam, phát huy những tinh hoa của

dân téc, kế thừa bảo tồn nền văn hiến, những di tích lịch sử còn tồn tại tiếp

71



thu truyền thống yêu nước, nhân ái "thương người như thể thương thân, phê

phán những thủ tục còn vướng mắc như ma chay, cưới xin, lễ hỏi… về tư duy

Đảng đã chọn lùa những thành tựu phù hợp không kể nó là do từ bàn tay

phong kiến làm ra để từ đó học tập, đúc rút kinh nghiệm như trong triết học

phương Tây, phương đông hay những thành tựu của Mỹ, Nhật… Đảng ta

nâng cao trình độ chuyên môn văn hoá, lý luận để nắm quy luật, làm theo quy

luật để cải tạo tự nhiên xã hội.

Câu 25: Bằng lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng, cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ là một

quá trình khó khăn, lâu dài, phức tạp; cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ

chiến thắng cái cũ.

Cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ là một quá trình của phạm trù phủ định biện chứng.

- Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ một mắt khâu của quá trình tự phát triển của sự

vật đưa đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái cũ bị phủ định. Phủ định biện chứng cũng là sự

khắng định. Phủ định biện chứng gắn liền với giải quyết mâu thuẫn và bước nhảy về chất xảy ra bên trong

sự vật. Nó mang tính khách quan – nội tại, tính kế thừa – tiến lên.

- Phủ định biện chứng là một hình thức cụ thể hóa nguyên lý về sự phát triển, có khuynh hướng tiến lên

theo hình xoáy ốc, thể hiện tính chu kỳ trong quá trình phát triển. Do đó, phủ định biện chứng là cơ sở,

phương pháp luận để:

+ Giúp chúng ta hiểu được xu hướng phát triển của thế giới: đó là quá trình diễn ra không thẳng tắp mà

quanh co, phức tạp, được diễn tả bằng đường xoáy ốc, song phát triển là khuynh hướng chung, khuynh

hướng chủ đạo, tất yếu của sự vận động.

VD: về công cuộc đấu tranh xây dựng CNXH ở nước ta, từ khi Đảng Cộng sản VN ra đời cho đền nay,

đất nước ta ngày càng phát triển đi lên nhưng không theo con đường thẳng mà quanh co, khúc khuỷu. Đó

là những khó khăn gặp phải do sự chống phá của đế quốc Mỹ, sự phá hoại của các thế lực tư bản, là sự sai

lầm của chính chúng ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước,… Những chướng ngại trên đã

làm cho lịch sử phát triển của CNXH ở đất nước ta trải qua những giai đoạn cực kỳ khó khăn, gian khổ.

+ Giúp ta hiểu đầy đủ hơn về cái mới, cái mới ra đời là phù hợp với quy luật, là cái tất thắng. Thế nhưng,

trong lúc cái mới vừa nảy sinh thì cái cũ vẫn còn sức mạnh của nó. Vì cái mới là cái đơn nhất, còn non

nớt, mỏng manh, yếu đuối, cái cũ dần mất đi nhưng chưa mất đi hẳn mà vẫn còn to lớn, đồ sộ, mạnh mẽ.

Bởi vậy, quan điểm chân chính về sự phát triển là phải phát hiện cái mới, ủng hộ, nuôi dưỡng, bảo vệ và

phát triển cái mới. Có như vậy, cái mới mới chiến thắng được cái cũ và khẳng định được mình trong hiện

thực.



72



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

×