Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.4 MB, 213 trang )
1. Đặt vấn đề
Việc phát triển NN đòi hỏi phải xét đến toàn bộ ngành NN trên quan điểm hệ
thống, nghiên cứu các yếu tố thành phần, sự hoạt động và điều khiển hệ thống này nh
thế nào để đạt năng suất sơ cấp và thứ cấp cao trong một trạng thái ổn định.
Vấn đề mâu thuẫn hiện nay là muốn HSTNN có năng suất cao và ổn định thì
phải có sự đầu t lớn về năng lợng và vật chất, nhng đây là vấn đề rất khó thực hiện,
ít nhất là trong giai đoạn hiện nay, đối với các nớc đang phát triển. Để giải quyết vấn
đề này, cần phải nghiên cứu các hệ sinh thái tự nhiên có năng suất cao nh hệ sinh thái
rừng nhiệt đới nhằm áp dụng một phần những hiểu biết về HST ấy vào sản xuất NN.
Đặc điểm cơ bản của rừng nhiệt đới là:
Sử dụng có hiệu suất cao các nguồn năng lợng và vật chất tự nhiên;
Quay vòng năng lợng và vật chất với hiệu suất cao;
Tạo các mối quan hệ trong nội bộ hệ sinh thái phức tạp để nâng cao tính ổn
định của nó.
Điều khác nhau cơ bản của hệ sinh thái tự nhiên và HSTNN là HSTNN phải
cung cấp cho hệ sinh thái đô thị một số năng lợng ngày càng cao. Để đảm bảo cho
HSTNN đợc ổn định và để bù vào số năng lợng lấy đi, hàng năm con ngời buộc
phải đầu t vào hệ sinh thái này một số năng lợng hoá thạch ngày càng lớn. ở nhiều
nền NN tiên tiến, năng lợng đầu t đã vợt quá năng lợng lấy đi nhiều lần. Điều này
đã làm cho nạn ô nhiễm môi trờng ngày càng thêm trầm trọng.
Việc đầu t năng lợng hoá thạch vào các HSTNN là điều không thể tránh đợc.
Vấn đề là làm thế nào để với một một sự đầu t hợp lí thu đợc một năng suất cao nhất,
bảo vệ và tăng cờng đợc các nguồn lợi, không làm ô nhiễm môi trờng.
Việc sử dụng tốt nhất các nguồn lợi và các mối quan hệ của hệ sinh thái với hiệu
quả đầu t năng lợng hoá thạch cao nhất là mục tiêu của NN sinh thái. Mục tiêu này
nhằm đẩy mạnh sự phát triển của nền NN tiên tiến và bền vững. Muốn xây dựng một
nền NN sinh thái, cần phát triển khoa học sinh thái NN.
NN sinh thái không đồng nghĩa với NN sinh học hay NN hữu cơ. Nông nghiệp
hữu cơ là phơng hớng đang phát triển ở các nớc Tây Âu trong thời gian gần đây.
Theo khuynh hớng, này NN phải trở lại với các biện pháp cổ truyền nh dùng phân
hữu cơ, luân canh, không dùng phân hoá học, thuốc chống sâu bệnh và cỏ dại. NN sinh
thái không loại trừ phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật... mà sử dụng chúng hợp lí và
có hiệu quả cao, tránh ô nhiễm môi trờng.
ở đây cần phải giải quyết một bài toán khó là đạt năng suất cao của các HSTNN
với một lợng đầu t ít nhất. Giải quyết vấn đề này không chỉ do yêu cầu của việc bảo
vệ môi trờng sống, nâng cao chất lợng cuộc sống, xây dựng một sinh quyển bằng sự
thông minh của con ngời nh các nhà Sinh thái học đang tranh đấu, mà còn là do sự
phát triển của các nớc đang phát triển.
2. Sơ lợc quá trình tham gia điều khiển hệ sinh thái trong sản
xuất nông nghiệp
2.1. Những chặng đờng lịch sử của phát triển sản xuất NN
Ngời ta thờng chia lịch sử phát triển sản xuất NN ra làm ba giai đoạn:
109
a) Giai đoạn NN thủ công
Giai đoạn này bắt đầu từ khi con ngời biết làm ruộng và chăn nuôi (cách đây
khoảng 14 - 15 ngàn năm, vào thời đại đồ đá giữa) cho đến khi phát minh ra máy hơi
nớc ở thế kỉ XVII. Đây là thời điểm đánh dấu sự khởi đầu cho cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật trong NN để từ đó có đợc những bớc chuyển nhảy vọt trong phơng
thức sản xuất. ở thời kì này, con ngời tác động vào thiên nhiên chủ yếu là lao động
sống (lao động cơ bắp giản đơn) còn trí tuệ chủ yếu là kinh nghiệm, vật t kĩ thuật và
công cụ lao động rất đơn giản, hầu nh cha có gì. Bởi vậy, sản phẩm NN làm ra cha
đợc nhiều vì con ngời tác động và tự nhiên có hạn. Còn trong thời đại đồ đá cũ (trớc
khi nghề nông ra đời), loài ngời sống chủ yếu bằng săn bắn thú dại và hái lợm sản
phẩm cây dại, hoàn toàn sống bằng sản phẩm của tự nhiên.
Trí tuệ
Con ngời
Vật t, công cụ
Thiên nhiên
Lao động
Việc chuyển từ hái lợm và săn bắn sang trồng trọt và chăn nuôi đợc thực hiện
trớc tiên ở đâu là vấn đề còn tranh luận giữa các nhà khảo cổ học. Trớc đây, ngời ta
vẫn quan niệm rằng các trung tâm phát sinh đầu tiên của NN là vùng Trung và Cận Đông
bao gồm Ai Cập, Palestin, vùng núi Iran và Irắc, phần nam của Trung á. Vào khoảng
thiên niên kỉ thứ V trớc công nguyên, NN xuất hiện ở vùng chân núi Tây á. Có thể quá
trình này cũng đồng thời xảy ra ở ấn Độ và Trung Quốc (M.V.Markov, 1972).
Tuy vậy, gần đây có một thuyết khác cho rằng trớc khi có nền NN gieo hạt
nói trên, đã có một nền NN trồng củ với những cây khoai sọ, khoai nớc, khoại lang,
khoai từ, khoai mài. Nền NN trồng củ này xuất hiện ở Đông Nam á. Theo Gorman
(1969), các bằng chứng khảo cổ ở Thái lan cho rằng có thể NN đã xuất hiện vào
khoảng 7000 - 9000 năm trớc công nguyên. Theo Gorman (1977) thì không có giai
đoạn trồng củ trớc giai đoạn gieo hạt, chỉ có giai đoạn trồng trọt chăm sóc sơ
khai xuất hiện cách đây khoảng 16000 - 14000 năm. Giai đoạn bắt đầu trồng củ ở chân
đồi và trồng lúa ở đầm lầy cách đây 9000 năm. Thực ra, hiện nay cha phát hiện đợc
di chỉ khảo cổ nào có vết tích của củ vì củ rất khó bảo quản. Các di chứng có vết tích
trồng lúa đáng tin nhất cũng chỉ cách đây khoảng 5000 năm (Chang 1975) nhng vẫn
chậm hơn ở Tây á.
Theo Đào Thế Tuấn, NN trồng củ xuất hiện sau NN gieo hạt vì việc trồng
củ đòi hỏi trình độ cao hơn gieo hạt nh trồng lúa rẫy. Việc trồng củ của các dân tộc
quần đảo Polynesia đã đầu t năng lợng gấp 4 lần lớn hơn trồng lúa rẫy ở Thái Lan và
năng suất gấp hơn 3,7 lần.
Vùng Tây á là nơi đầu tiên trồng lúa mì và đại mạch, đã nuôi cừu và dê vào
khoảng 6000 năm trớc công nguyên. Vùng Đông Nam á là nơi đầu tiên trồng lúa
nớc, nuôi lợn và gà vào khoảng 3000 năm trớc công nguyên. Vùng Bắc Trung Mỹ
bắt đầu trồng ngô khoảng 6000 năm trớc công nguyên, trồng đậu cove và bí đỏ
khoảng 3000 năm trớc công nguyên, Nam Mĩ trồng sắn, lạc, khoai tây (Grigg 1974).
HSTNN đầu tiên mà con ngời tạo nên là hệ sinh thái cây cỏ. Lúc đầu, trong hệ
sinh thái chỉ có cây hoang dại, dần dần phân hoá thành cây trồng và cỏ dại thích ứng
với điều kiện đợc tạo nên ở nơng rẫy. Sau đó HSTNN phát triển dần.
110
Sau cách mạng máy hơi nớc, sức ngời dồn vào cải tiến công cụ lao động, vật
t kĩ thuật nhờ công nghiệp cơ khí phát triển, khai thác hoá chất và đầu t năng lợng
cao. Việc đổi mới công cụ lao động và tăng cờng đầu t vào NN đã có ảnh hởng rất
mạnh mẽ đến nền sản xuất NN của con ngời và NN chuyển sang giai đoạn thứ hai.
b) Giai đoạn làm NN với vật t kĩ thuật phát triển và công cụ đợc cải tiến
Giai đoạn này còn đợc gọi là giai đoạn NN cơ giới hoá, nó bắt đầu từ thế kỉ
XVIII đến thập kỉ những năm 70 của thế kỉ XX. Nông nghiệp có những bớc tiến nhảy
vọt, lao động sống hoà vào vật t và công cụ lao động không ngừng đợc cải tiến. Con
ngời ngày càng tăng cờng việc đầu t kĩ thuật và đổi mới công cụ, sản phẩm tạo ra
ngày một nhiều. Con ngời đã tiến hành 5 hoá trong NN: cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá,
hoá học hoá, điện khí hoá và sinh học hoá NN.
Trí tuệ
Con ngời
Vật t, công cụ
Thiên nhiên
Lao động
Năm hoá này mang tích chất bộ phận, giải quyết từng khâu về công cụ và vật
t lao động. Vì thế mà con nguời đợc nhân sức mạnh lên nhiều lần. Nhng do con
ngời sử dụng quá nhiều năng lợng đầu t - mà chủ yếu là năng lợng hoá thạch - để
tác động và tự nhiên một cách dữ dội và thô bạo đã làm cho thiên nhiên chịu nhiều tổn
thất, tự nhiên đã có những phản ứng trở lại làm vô hiệu hoá tác động của con ngời và
nhiều khi đã gây lên những hậu quả tai hại mà con ngời phải gánh chịu. Mặt khác, do
con ngời làm ô nhiễm môi trờng sinh sống và sản xuất (đất, nớc, không khí) nên
ngoài thiếu ăn, thiếu mặc, con ngời còn thiếu cả môi trờng trong lành. Những phản
ứng của tự nhiên đã buộc con ngời phải cân nhắc hơn trong mọi hành động c sử hàng
ngày của họ với thiên nhiên.
c) Giai đoạn làm NN trên cơ sở khoa học (Tối u hoá sản xuất, làm NN trên
cơ sở Sinh thái học, trên t tởng hệ thống)
ở giai đoạn này, con ngời sản xuất NN phù hợp với các quy luật khách quan
của tự nhiên, của các HSTNN, làm NN chủ yếu và phổ biến là dựa vào trí tuệ để điều
khiển sự hoạt động hài hoà của các hệ thống sản xuất NN, nhằm xây dựng một nền NN
phát triển bền vững, khoa học kĩ thuật thực sự trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp.
Nhờ vậy mà con ngời sẽ thoát khỏi những bế tắc do giai đoạn hai gây ra, mới thắng
đợc những lực cản của tự nhiên. Con ngời tiến hành cơ khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học
hoá, điện khí hoá và sinh học hoá trên cơ sở trí tuệ để sử dụng công cụ, vật t hợp lí
chứ không để cho công cụ vật t chi phối, trói buộc nh giai đoạn thứ hai.
Trí tuệ
Con ngời
Vật t, công cụ
Lao động
111
Thiên nhiên
ở một số nớc đã xuất hiện giai đoạn thứ ba của lịch sử phát triển NN, nhng
nhìn chung còn cha rõ nét, thực tiễn còn cha phổ biến và mới biểu hiện ở lí thuyết hệ
thống - cấu trúc, ở Sinh thái học NN. Đó là cái mà loài ngời phải hớng tới, nếu nh
không muốn tự thắt cổ mình. Con ngời đang xây dựng và hoàn thiện dần nền NN sinh
thái.
Một số tác giả có các cách chia sự phát triển NN ra các giai đoạn khác nhau.
Theo Markov (1972), yếu tố quyết định sự tiến hoá của HSTNN là công cụ lao động.
Công cụ làm đất đã quyết định kiểu hệ sinh thái đồng ruộng. Căn cứ vào sự tiến bộ của
công cụ làm đất, Markov chia sự phát triển NN ra làm 5 giai đoạn:
Chọc lỗ bỏ hạt, con ngời dùng một cái gậy đầu nhọn để xới (chọc) đất chỗ
gieo hạt (rễ cỏ còn nguyên); cây trồng ở giai đoạn này còn hoang dại, quan
hệ giữa cây trồng giống nh ở đồng cỏ tự nhiên.
Cuốc bằng đá, đồng, rồi đến sắt, đất đợc chọn kĩ hơn, xới tơi hơn, rễ cỏ bị
phá một phần. Bắt đầu xuất hiện cây trồng, có sự chọn lựa nhân tạo. Quan hệ
đồng cỏ bị mất, bắt đầu có quan hệ của ruộng cây trồng.
Cày gỗ, đất đợc xới sâu hơn, tơi hơn, rễ cỏ bị phá nhiều. Một số cây trồng
thực thụ đợc cải tiến, sự chọn lọc nhân tạo mạnh hơn. Quan hệ đồng ruộng
đợc kiến lập.
Cày sắt, làm đất đợc cải tiến hơn tuỳ theo sự cải tiến của cày và các công cụ
làm đất khác. Cây trồng đợc cải tiến hơn nữa, bắt đầu có công tác chọn
giống. Quan hệ đồng ruộng điển hình.
Cày máy, làm đất đạt mức hiện đại. Cây trồng cũng đạt mức hiện đại. Xuất
hiện việc chọn giống hiện đại.
Grigg (1977) cho rằng yếu tố quyết định các kiểu HSTNN là sự thay đổi về kinh
tế, kĩ thuật và dân số. Trớc thế kỉ XVII, dân số thế giới thay đổi chậm, do đó NN cũng
phát triển chậm, sau đấy dân số bắt đầu tăng nhanh ở châu Âu thúc đẩy phát triển NN
ở lục địa này. Trớc năm 1920, tốc độ tăng dân số ở châu Âu và các vùng do ngời
châu Âu di c đến nh Bắc Mỹ, châu úc , Nam Phi và Nam Mĩ cao hơn ở châu á, Phi
và Mĩ La tinh. Sau năm 1920, tốc độ tăng dân số ở các nớc đang phát triển mới vợt
lên vì tỉ lệ chết giảm xuống. Sự phát triển buôn bán trong thế kỉ XIX cũng đẩy mạnh sự
phát triển NN ở các vùng mới di c đến. Cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh
và các nớc châu Âu đã dần dần công nghiệp hoá NN ở các nớc Âu, Mĩ: luân canh,
dùng phân hoá học và thuốc phòng chống sâu bệnh, chọn giống trên cơ sở khoa học, cơ
giới hoá...
Để phân loại của các kiểu sản xuất NN mà cũng là phân loại các kiểu HSTNN,
Whittlesy đề nghị dùng 5 tiêu chuẩn, các nhà địa lí chỉ đồng ý 4 tiêu chuẩn sau:
Sự phối hợp giữa cây trồng và gia súc;
Các phơng pháp trồng trọt và chăn nuôi;
Cờng độ dùng lao động, vốn đầu t, tổ chức và sản xuất ra sản phẩm;
Tính chất hàng hoá của sản phẩm.
Grigg (1974), phân biệt các kiểu NN chính sau: (1) Trồng rẫy; (2) Trồng lúa
nớc châu á; (3) Du mục; (4) Nông nghiệp Địa Trung Hải; (5) Kinh doanh tổng hợp
112
Tây Âu và Bắc Mĩ; (6) Sản xuất sữa; (7) Sản xuất kiểu đồn điền; (8) Nuôi gia súc thịt;
(9) Sản xuất hạt quy mô lớn.
2.2. Một số khuynh hớng phát triển sản xuất NN
Trong thời kì giữa giai đoạn hai và giai đoạn ba, trong khoa học kĩ thuật NN đã
xuất hiện một số khái niệm, một số khuynh hớng sau:
a) Công nghiệp hoá NN
Những ngời ủng hộ khuynh hớng này muốn cho sản xuất NN có đợc cách tổ
chức quản lí sản xuất nh trong công nghiệp, nh chuyên môn hoá lao động, sản xuất
theo dây chuyền, chuyên canh... Đây là một cách hiểu tích cực, nhng vận dụng quy
trình công nghiệp để dập khuân vào NN là máy móc, vì đối tợng của sản xuất NN là
sinh vật, của công nghiệp là vật không sống nên không thể dùng chung một biện pháp.
Cách hiểu thứ hai cho rằng, phải dùng nhiều sản phẩm công nghiệp cho NN,
cách hiểu này nhìn chung là đúng, nhng phải có điều kiện kèm theo, vì vật t kĩ thuật
có nguồn gốc công nghiệp đa vào NN quá mức đã gây nên hậu quả ô nhiễm môi
trờng nhiều khi con ngời không kiểm soát nổi, gây bế tắc cho sản xuất.
Những ngời theo chủ nghĩa lạc quan đã cho rằng đến một lúc nào đó có thể
dùng phơng pháp công nghiệp để sản xuất ra các sản phẩm NN, dùng nhà máy tổng
hợp ra tinh bột, thịt, sữa... Đa số các nhà khoa học cho rằng đây chỉ là những ớc vọng
viển vông.
Nhìn chung, cả ba quan niệm đề cập ở trên đều có những điểm tiêu cực đối với
môi trờng và sức khoẻ con ngời nh sau:
Coi thờng bản tính sinh học của thế giới sinh vật, không chú ý đến các quy
luật sống bình thờng của chúng, coi cây trồng và vật nuôi nh những cái
máy sản xất ra nông sản, thịt, trứng sữa
Coi thờng hoạt động sinh học của đất, bón quá nhiều phân hoá học để tăng
nhanh năng suất, làm đất chai cứng; dùng công cụ máy móc nặng để làm đất
làm đất mất cấu tợng, cản trở hoạt động của rễ cây và vi sinh vật.
Sự tràn ngập hoá chất trong NN dẫn đến hiện tợng xuống cấp chất lợng
nông sản, thậm chí có hại cho sức khoẻ của con ngời.
b) Sinh học hoá NN
Khuynh hớng này về cơ bản là dựa trên cơ sở các quy luật sinh học để tổ chức
sản xuất và giải quyết các nhiệm vụ của sản xuất NN, đồng thời dùng nhiều biện pháp
sinh học để tác động vào NN nh tạo giống mới, dùng sinh vật có ích, dùng nhiều phân
hữu cơ. Cách hiểu này đúng nhng hơi hẹp, mới chỉ dừng trên biện pháp, mà vấn đề là
còn phải hiểu quy luật sinh học, t tởng sinh học. Nhiều ngời còn lấy sinh học NN
đối lập với công nghiệp hoá NN nh đối lập phân vô cơ với phân hữu cơ, giữa biện
pháp sinh học với biện pháp hoá học trong bảo vệ thực vật. Hiểu nh vậy là cực đoan
mà vấn đề là phải phối hợp chúng một cách hài hoà, sử dụng hợp lí các nguồn lợi tự
nhiên, bảo vệ môi trờng.
c) Cách mạng xanh NN
Thời kì hng thịnh của cách mạng xanh trong NN là thập kỉ những năm 60 và
đầu những năm 70 của thế kỉ XX. Nó đợc bắt đầu ở Mêhicô với việc tạo ra giống lúa
mì thấp cây năng suất cao. Rồi ở Viện lúa quốc tế (IRRI), ở ấn Độ, v.v... ngời ta đã
113
tạo ra những cây trồng có tiềm năng năng suất rất cao. Các giống mới này đòi hỏi thâm
canh cao: nhiều phân hoá học, nhiều thuốc phòng chống sâu bệnh, tới tiêu chủ động...
và đã tạo ra những bớc chuyển biến khá mạnh mẽ trong NN, đặc biệt đối với cây cốc.
Có ngời định nghĩa: Cách mạng xanh = giống năng suất cao + phân hoá học + thuỷ
lợi. Cách mạng xanh phát triển mạnh ở những nớc đang phát triển. Nó đã đa ấn Độ
từ một nớc có nạn đói kinh niên không sao vợt quá ngỡng sản xuất 20 triệu tấn
lơng thực thành một đất nớc đủ ăn và còn d để xuất khẩu với tổng sản lợng lơng
thực kỉ lục: 60 triệu tấn/năm. Khu vực Đông Nam á trớc đây thờng thiếu 4 - 5 triệu
tấn gạo và đội quân những ngời đói nghèo không ngừng gia tăng, nhờ cánh mạng
xanh, ngày nay đã trở thành tủ kính trng bày những thành tựu và kinh nghiệm sản
xuất nông - lâm nghiệp mà nhiều nớc phải học hỏi (chủ tịch FAO, Souman). Việt
nam đã có những cố gắng vợt bậc, đa tổng sản lợng lơng thực từ 11,2 triệu tấn
nhữg năm 1960 lên 19 triệu tấn năm 1988 và trên 30 triệu tấn trong những năm gần
đây. Có đợc con số này, một phần cũng nhờ cách mạng xanh. Về thành tựu của cách
mạng xanh, có lẽ không có ví dụ nào tốt hơn là những thành quả của ấn Độ.
Để đảm bảo cho giống cây trồng phát huy cao độ tiềm năng, trong cách mạng
xanh đã sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp canh tác và cải tiến kĩ thuật. Một nhân tố
bảo đảm cho cách mạng xanh ở ấn Độ thắng lợi là vai trò của khoa học kĩ thuật kết hợp
với sự giác ngộ mau chóng của ngời nông dân và sự nghiệp đổi mới nông thôn. Với
nớc ta, tác động của sự nghiệp đổi mới đối với cách mạng xanh có thể đợc nêu ra
nh một ví dụ điển hình.
Những tổ chức nghiên cứu quốc tế nh Trung tâm quốc tế cải thiện giống ngô
và lúa mỳ ở Mêxicô (CIMMYT) và viện lúa quốc tế ở Philippin (IRRI) đã đóng góp
quan trọng cho thành công của cuộc cách mạng xanh, với sự giúp đỡ của các tổ chức
quốc tế khác, nhất là FAO. Ngoài ra còn những cơ quan nghiên cứu quốc gia nh
Viện nghiên cứu NN ấn Độ (IARI). Những giống cốc cao sản do những cơ quan này
tạo ra đã đợc phổ biến ngày càng rộng khắp, nhất là ở các nớc đang phát triển. Xin
lấy số liệu ở Đông á, Nam á, châu Phi và Mĩ La tinh để minh chứng.
Bảng 8. Diện tích gieo trồng giống cốc cao sản qua các năm
Năm
(Đơn vị: 1000 a - không kể các nớc XHCN)
Lúa mì
Lúa nớc
Tổng cộng
1965 1966
23
18
41
1966 1967
1542
4047
5589
1967 1968
10173
6487
16660
1968 1969
19699
11620
31319
1969 1970
24644
19250
43914
Rõ ràng là tiềm năng của cuộc cách mạng xanh là rất lớn đối với các nớc đang
phát triển. ở nhiều vùng của Đông Nam á và ấn Độ, nếu đủ nớc có thể gieo trồng 2 - 3
vụ/năm. Nơi thiếu nớc có thể thay bằng lúa miến cao sản (Sorgho) không đòi hỏi
nhiều nớc. Một số nơi nh Bắc ấn và Pakixtan thì luân canh lúa vào mùa thu và luân
canh lúa mì vào mùa đông.
Thành tựu của cách mạng xanh là rất lớn, nhng có những hạn chế cần phải vợt
qua, những điều bất ngờ phải lu ý.
114
Cách mạng xanh trong NN ở các nớc đang phát triển gắn liền với tình hình
kinh tế xã hội ở các nớc này. Để phát huy tiềm năng của giống mới cần đủ phân bón,
thuốc trừ sâu, nớc tới, các biện pháp kĩ thuật... nói chung là phải có vốn đầu t lớn.
Nhng các nớc này lại là những nớc nghèo, thiếu vốn đầu t, thiếu năng lợng
nghiêm trọng. Điều này đã hạn chế tác dụng của cách mạng xanh và dẫn các nớc này
từ chỗ phụ thuộc lơng thực đến chỗ phụ thuộc vật t NN (phân hoá học, thuốc bảo vệ
thực vật) và vốn vào nớc ngoài. Sự thâm canh hoá học đã làm suy giảm tài nguyên và
ô nhiễm môi trờng. Mặt khác, cách mạng xanh chỉ thực hiện đợc ở những nơi có
nớc tới hoặc có đủ nớc ma. Ngay ở ấn Độ, còn lại 40% diện tích canh tác thiếu
ma và cha có hệ thống thuỷ lợi.
Còn vấn đề tiềm năng di truyền, việc loại trừ dần các giống cổ truyền địa
phơng có thể làm cho kho dự trữ về tính di truyền (quỹ gen) của cây ngũ cốc và cây
thực phẩm nghèo đi. Vốn gen lại là nguồn tạo ra giống mới. Các quá trình sinh học
thờng diễn biến trong một thời gian dài nên mọi hệ quả khó thấy ngay một lúc; và
trớc những tiến bộ sớm đạt đợc trong cuộc cách mạng xanh, ngời ta khó lờng hết
các mặt hạn chế có thể xuất hiện (ví nh nếu không đảm bảo các mặt tối u mà giống
mới đòi hỏi để phát huy tiềm năng sinh học của chúng thì cái gì sẽ xảy ra trong khi các
giống cổ truyền đã bị loại bỏ).
Mặt hạn chế cuối cùng là tăng dân số, góp phần hạn chế không nhỏ thành quả
do cách mạng xanh đa lại. Nocman Boclâu (Norman Borlaug), ngời đã đợc giải
thởng Noben do tạo ra giống lúa mì cao sản với ớc vọng mang lại sự no đủ cho con
ngời, đã thấy ngay là ớc vọng đó còn xa vời. Giả sử cái no đủ ấy cuối cùng sẽ tới thì
nó cũng đến muộn hơn là cái đói vì mức gia tăng dân số trong vòng 20 năm tới vẫn
vợt mức gia tăng lơng thực.
2.3. Nội dung của tối u hoá sản xuất NN
Con ngời là thành viên quan trọng bậc nhất của HSTNN. Trong sự phát triển
của hệ sinh thái, con ngời giữ vai trò chủ động; trong nhiều khả năng phát triển của hệ
sinh thái, con ngời có thể lựa chọn con đờng duy nhất đúng phù hợp với lợi ích của
mình. Với trí tuệ của mình, con ngời có thể điều khiển hệ sinh thái theo hớng có lợi
nhất cho con ngời. Hệ sinh thái nh thế nào thì con ngời là vậy. Trong sản xuất NN,
con ngời không chỉ giới hạn mục tiêu của mình trong việc tạo ra những sản phẩm có
ích cho con ngời ở giai đoạn trớc mắt mà còn nghĩ đến lợi ích của nhiều thế hệ kế
tiếp về sau:
Thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con ngời về sản phẩm NN, có nghĩa là
đạt đợc năng suất cây trồng - vật nuôi cao, sản lợng NN cao, phẩm chất nông sản tốt
với mức đầu t vật chất ít, đạt hiệu quả kinh tế cao;
Thoả mãn nhu cầu này nhng không làm ảnh hởng đến các nhu cầu khác của
con ngời;
Thoả mãn nhu cầu hiện tại nhng không làm phơng hại đến các nhu cầu tơng
lai;
Con ngời vẫn sống hài hoà với thiên nhiên, con ngời là một bộ phận tích cực
của thiên nhiên.
115
3. Mô hình hệ sinh thái nông nghiệp
3.1. Khái niệm
Mô hình hoặc hình mẫu theo nghĩa rộng thờng là một cái mẫu hay một mô
hình của một vật thể để làm theo.
Trong Điều khiển học, mô hình là sự trừu tợng hoá hay đơn giản hoá hệ thống.
Thực tế hệ thống rất phức tạp, mô hình đơn giản hơn hệ thống, tuy vậy mô hình phải có
thuộc tính chức năng quan trọng của hệ thống nhng không nhất thiết phải có tất cả
các thuộc tính của hệ thống. Nói cách khác, mô hình là phơng tiện để tách ra từ hệ
thống hoạt động khách quan nào đấy các mối liên hệ và quan hệ có quy luật, có trong
thực tế cần nghiên cứu. Trong mô hình không cần phải phản ánh tất cả các đặc điểm
của hệ thống mà chỉ cần phản ánh đợc các mối quan hệ giữa các yếu tố của hệ thống.
Đó là sự trừu tợng hoá hệ thống.
Mô hình là một công cụ nghiên cứu khoa học, khác với khuynh hớng giảm
phân trong khoa học là cô lập và phân tích các thành phần nhỏ của sự vật để nghiên
cứu chúng; phơng pháp mô hình hoá là nghiên cứu hệ thống nh một tổng thể. Mô
hình giúp cho các nhà khoa học hiểu biết, đánh giá và tối u hoá hệ thống.
Hiểu đợc hành vi ở từng bộ phận của hệ thống thì có thể phối hợp các bộ phận
ấy trong một mô hình phức tạp hơn. Làm nh vậy ta thấy đợc các đặc tính mới, nghĩa
là thông tin về hành vi của hệ thống, nhng không thấy đợc hành vi của các bộ phận.
Từ đây có thể xây dựng đợc các giả thuyết mới. Nhờ có mô hình, ta có thể kiểm tra lại
sự đúng đắn của các số liệu quan sát và các giả định rút ra từ các số liệu ấy. Mô hình
không phải là vạn năng nhng là một công cụ cần thiết trong nghiên cứu khoa học. Mô
hình giúp chúng ta hiểu sâu hơn các hệ thống phức tạp.
Mô hình còn giúp chúng ta dự báo, nghĩa là nghiên cứu hệ thống phức tạp trong
các điều kiện mà chúng ta cha thể quan sát hay tạo ra đợc, hoặc không thể quan sát
đợc trong thế giới thực tại. Tiến hành một thí nghiệm quy mô rộng với một hệ thống
tự nhiên rất tốn tiền đòi hỏi thời gian dài, mô hình dự báo sẽ giúp chúng ta giải quyết
khó khăn này. Mô hình dự báo còn đợc dùng để đánh giá tác động của các biện pháp
trong việc quản lí nguồn lợi tự nhiên.
Mục đích khác nữa của mô hình là giúp ta chọn quyết định tốt nhất về quản lí hệ
thống, giúp chọn phơng án tốt nhất để điều khiển hệ thống. Thực ra giữa đánh giá và
tối u hoá sự khác nhau không rõ lắm.
Có hai loại mô hình sinh thái: mô hình phân tích và mô hình mô phỏng. Cả hai
loại mô hình đều nhằm tìm hiểu và dự báo các hệ sinh thái, song mỗi loại dùng các
công cụ toán khác nhau: mô hình phân tích thờng dùng các công cụ toán phức tạp, mô
hình mô phỏng thờng dùng các công cụ toán đơn giản hơn.
Mô hình phân tích mô tả các quá trình trong HST bằng các phơng trình toán
học mà ta đã biết hành vi của chúng. Mô hình phân tích đợc dùng trong một số vấn đề
sinh thái nh quá trình tạo năng suất, sự phát triển của quần thể. Để nghiên cứu toàn bộ
HST, các mô hình này ít tác dụng. Các phơng pháp phân tích chỉ có ích trong một số
điều kiện nhất định nh khi các phơng trình mô tả các quá trình sống là tuyến tính
hay khi có một số ít phơng trình đợc giải cùng một lúc. Chúng chỉ đúng khi mô tả
các quá trình xảy ra liên tục. Mô hình của HST thờng bao gồm hàng chục đến hàng
trăm phơng trình đồng thời và chúng là tuyến tính cũng nh không tuyến tính.
116
Trong mô hình phân tích thờng phải đơn giản hoá các quá trình đợc mô hình
hoá. Ví dụ, lúc xây dựng mô hình của quần thể phải giả thiết rằng tốc độ tăng trởng
của quần thể là không thay đổi. Trong thực tế, tốc độ tăng trởng phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố của bản thân quần thể và ngoại cảnh.
Mô hình mô phỏng không có các lời giải chính xác cho một mô hình nh
phơng trình phân tích và từ đấy sẽ có một số sai lệch do bản chất không chính xác của
cách giải. Mô hình mô phỏng có lợi ở chỗ có thể giải nhiều phơng trình gần nh cùng
một lúc và có thể đa vào đấy tất cả các kiểu không tuyến tính khác nhau.
Mô hình mô phỏng thờng dùng các thuật toán đơn giản nhng có xu hớng
phù hợp với số liệu quan sát.
3.2. Cách xây dựng mô hình
Xây dựng mô hình thờng phải qua các bớc sau:
a) Mô hình quan niệm, trớc khi xây dựng mô hình, ngời nghiên cứu phải suy
nghĩ xem mô hình của mình sẽ nh thế nào. Bằng cách suy luận hay dựa vào thực
nghiệm phải xác định các thành phần, quan hệ giữa chúng và cơ chế hoạt động của hệ
thống.
b) Mô hình sơ đồ, vẽ một sơ đồ trên giấy gồm các hộp và mũi tên. Hộp còn gọi
là ngăn, đại diện cho các thành phần của hệ thống. Mỗi ngăn có số vào (input) và số ra
(output). Số vào gọi là biến điều khiển hay biến mức độ. Nội dung của hộp gọi là biến
trạng thái. Mũi tên đại diện cho sự vận động của dòng năng lợng hay vật chất.
Thu hoạch
Hệ thống vật lí
Các hệ thống
bên ngoài
Cây trồng
Vật nuôi
Đầu vào
Đô thị
Cảnh quan
Sông suối
Nớc ngầm
Động thực vật v.v.
Đất.
Hệ thống quản lý
Hình 41. Mô hình sơ đồ về HSTNN
(Nguồn : Herman Huizing, 1990)
c) Mô hình toán
Ccác mô hình phân tích cũng nh mô phỏng dựa vào mối quan hệ giữa các biến
điều khiển và các biến trạng thái, giữa các biến trạng thái với nhau.
Khi lựa chọn các hàm số và các biến trạng thái quan trọng cần đa vào mô hình,
phải xác định:
Các trị số đầu tiên của các biến trạng thái;
117
Các biến điều khiển sẽ làm thay đổi biến trạng thái;
Các quan hệ hàm số giữa các biến trạng thái.
Hàm số dùng trong các mô hình là các hàm số đại số thông thờng. Kĩ thuật để
tính các hàm số này là hồi quy thờng dùng trong thống kê. Phơng pháp để tính các
thông số của hàm số là bình phơng nhỏ nhất có trong tất cả các giáo trình thống kê.
Muốn xác định mối quan hệ giữu các biến trạng thái ngời ta thờng dùng
phơng pháp hệ số tơng quan. Kĩ thuật tơng quan giúp ta quyết định đợc các quá
trình nào tiến hành cùng nhau và do đấy có mối quan hệ trực tiếp hay gián tiếp. Hai
biến tơng quan cao có thể có mối liên hệ số lợng bằng hồi quy.
Trờng hợp có nhiều biến ảnh hởng đến một quá trình có thể dùng kĩ thuật
phân tích thống kê nhiều chiều để nghiên cứu mối quan hệ giữa các biến. Các phơng
pháp thờng dùng phổ biến là phân tích thành phần chính (principal component
analysis), phân tích nhân tố (factor analysis), phân tích hồi quy từng bớc (stepwise
regression analysis). Nhờ các phơng pháp này, chúng ta có thể loại bớt một số biến
không quan trọng để cho mô hình đợc đơn giản và gọn.
Đối với các mô hình phân tích thờng phân biệt hai loại mô hình:
- Mô hình một mức là các mô hình tĩnh, không kể đến yếu tố thời gian. Loại
này, chẳng hạn là mô hình về ảnh hởng của các yếu tố khí tợng đến năng suất;
- Mô hình nhiều mức, thờng là các mô hình động, gồm cả hệ thống biến trạng
thái và hệ thống hàm số biểu hiện mối quan hệ giữa các biến trạng thái. Ví dụ nh mô
hình quá trình quang hợp của quần thể.
Mô hình động áp dụng với hệ sinh thái là một vấn đề còn tơng đối mới. Hiện
nay có nhiều kiểu mô hình khác nhau đã đợc đề nghị, quá trình tìm tòi và giải quyết
vấn đề này đang đợc tiếp tục.
d) Mô hình máy tính
Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin cho phép chúng ta xây dựng
đợc các mô hình sinh thái bằng những chơng trình máy tính chuyên dụng có ý nghĩa
thực tiễn rất cao. Hầu nh tất cả các loại mô hình đều có thể xây dựng theo các chơng
trình máy tính nhất định. Các loại máy tính mới có thể tính toán hàng triệu phép tính
trong một giây, vì vậy lợi ích của các mô hình này là giúp quá trình tính toán một cách
nhanh chóng và chạy các chơng trình thử nghiệm một cách an toàn và rẻ tiền.
Vì đặc tính của hệ sinh thái là một hệ thống sống nên đáp số cho các mô hình
thông thờng có nhiều lời giải. Khi lập đợc các chơng trình để chạy mô hình toán,
đặc biệt là các mô hình có sử dụng các tập hợp mờ, các hàm phức tạp thì có thể mô
phỏng rất thực tế các hệ sinh thái ngoài tự nhiên.
Một số ứng dụng cơ bản trong Sinh thái học ngày nay đợc các cơ quan nghiên
cứu xây dựng sẵn các chơng trình cho ngời sử dụng. Vì vậy, chúng ta chỉ cần nhập
các dữ liệu dới dạng biến đầu vào, sau đó đa ra câu lệnh để máy tính tự tính toán đầu
ra. Ví dụ cụ thể nh chơng trình tính toán thời vụ gieo trồng của FAO dựa vào lợng
ma và sự bốc hơi nớc. Ví dụ khác là chơng trình phân vùng sinh thái NN (cũng của
tổ chức FAO). Nguyên lí cơ bản của chơng trình này là phân chia các khu vực sản
xuất NN thành các hệ sinh thái đặc trng dựa vào các điều kiện tự nhiên nh bức xạ
mặt trời, đặc điểm nông hóa, chế độ nớc, v.v...
118
Gần đây, các ứng dụng của viễn thám và hệ thống thông tin địa lí (GIS) vào
nghiên cứu Sinh thái học đợc đề cập đến rất nhiều. Đây cũng là một loại mô hình máy
tính đặc trng. Với các chơng trình phầm mềm sẵn có nh ArcView, ILWIS, v.v...
các nhà Sinh thái học có thể mô hình hóa một cách dễ dàng các quá trình phức tạp
ngoài tự nhiên, chẳng hạn nh dự đoán biến động của đa dạng sinh học trong hệ sinh
thái rừng. Thông qua mô hình toán học về mối tơng quan giữa sinh khối thực vật và
các nhóm động vật, giữa thực vật và các điều kiện khí tợng, thổ nhỡng, v.v... để từ đó
chúng ta có tạo một mô hình phân tính hoặc dự đoán bằng cách tạo liên kết toán học
giữa các lớp thông tin với nhau.
Bớc cuối cùng của việc xây dựng là xác định xem mô hình có tợng trng cho
thế giới thực tại không. Có mấy cách để làm công việc này. Trớc hết là mô phỏng và
so sánh, lấy số liệu thực cho vào tính và xem xét kết quả có giống kết quả thực tế
không. Kết quả không đúng với thực tế, cha chắc mô hình đã sai mà có thể do số liệu
cha đầy đủ.
3.3. Mô hình của quá trình tạo năng suất cây trồng
Để điều khiển quá trình tạo năng suất của cây trồng, ngời ta sử dụng rộng rãi
phơng pháp mô hình hoá. Có rất nhiều mô hình hoá của quá trình tạo năng suất cây
trồng, sau đây là một số mô hình chủ yếu.
Mô hình thống kê đơn giản
Loại mô hình này là phơng trình hồi quy của năng suất với một hay vài yếu tố
tơng quan chặt với năng suất nhất. Các yếu tố này có thể là khí tợng, chất dinh
dỡng hay phân bón, biện pháp canh tác (nh mật độ trồng). Các mô hình này không
chú ý đến quá trình tạo năng suất mà chỉ dựa trên kết quả của tính toán thống kê.
Phơng trình đợc chọn để biểu diễn quá trình trên đợc tính bằng phơng pháp thực
nghiệm. Các phơng pháp biểu hiện mối quan hệ này thờng gọi là hàm sản xuất, có
thể có nhiều dạng khác nhau.
Hớng sử dụng hồi quy bội để nghiên cứu quan hệ giữa năng suất và các yếu tố
khí tợng do nhà thống kê ngời Anh Fisher (1925) và nhà khí tợng học Liên Xô
V.M.Obukhốp (1949) mở đầu. Đến nay đã có rất nhiều phơng trình đợc đề nghị để
dự báo năng suất của hầu hết các loại cây trồng.
Về quan hệ giữa năng suất và phân bón, việc sử dụng hàm sản xuất để tính rất
phổ biến. Barker (1977), tính phản ứng của các loại lúa khác nhau với lợng phân bón
theo dạng phơng trình:
y = a + bF - gF2
Trong đó:
y - năng suất lúa (kg/ha);
F - lợng phân bón (kg chất dinh dỡng/ha);
a - năng suất lúc không bón phân;
b - chỉ số phản ứng với phân bón;
g - khả năng chịu các lợng phân rất cao.
119