1. Trang chủ >
  2. Lý luận chính trị >
  3. Triết học Mác - Lênin >

III. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.24 KB, 24 trang )


tiểu luận triết học -



Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống

của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.

b. Lý luận mở đờng và hớng dẫn hoạt động của thực tiễn

Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hớng dẫn con đờng đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự

thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó đợc hớng dẫn bởi lý

luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn,

điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hớng dẫn của

lý luận.

Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đa lại cho thực tiễn các tri thức đúng

đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở

để định ra mục tiêu và phơng pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.

Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống

nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.

c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất

Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ

và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng cờng

lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những nguyên lý

căn bản của triết học Mác- Lênin.

d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn

Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn

nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đờng lối, chính

sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.

*ý nghĩa:

Cần phải tăng cờng, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý luận

xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.

Trớc chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu nh không

có chỗ đứng nào. Nhiều ngời còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của con buôn

(Phơ-Bách). Trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, sau khi

phê phán E. Ma Khơ và một số ngơi khác đã cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận

thức, coi thực tiễn nh một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận, đã

đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi ngời phân biệt đợc ảo tởng với hiện

thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho chủ

nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri.

V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm

thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (V.I.Lênin toàn tập 1980)

Trang 9



tiểu luận triết học -



Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với nớc

ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện nay,

nớc ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội, mà

trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang

nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc là một vấn đề hết sức mới mẻ cha có lời

giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi

vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc

nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng

phát triển.

Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách

quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận

vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là

vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.

e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ

nghĩa Mác- Lênin.

Thực tiễn không có lý luận hớng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà

không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự

quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng

không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý luận

không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần đợc bổ

sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những ngời cộng sản

các nớc phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh

từng lúc và từng nơi (Hồ Chí Minh: toàn tập-1996)

*Con đờng biện chứng của sự nhận thức:

Nhận thức của con ngời diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động,

phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:

- Từ trực quan sinh động đến t duy trìu tợng và từ t duy trìu tợng đến thực tiễn đó là con đờng biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách

quan.

+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình

nhận thức, đợc hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này đợc hình thành thông

qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tợng...

+T duy trì tợng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức

dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.



Trang 10



tiểu luận triết học -



- Nhận thức của con ngời phát triển đến giai đoạn t duy trìu tợng cha phải là

chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với

thực tiễn vì:

+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về

chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.

+Đến giai đoạn t duy trìu tợng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực. Vì

vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt đâu

là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.

+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với thực

tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.

- Từ trực quan sinh động dến t duy trìu tợng, và từ t duy trìu tợng đến thực tiễn là

một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức của con

ngời phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế

giới khách quan.



Chơng II

Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam

I,Vị trí địa lý

-Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dơng, gần trung tâm Đông Nam

á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.

-Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nớc ta có thể dễ dàng

giao lu với các nớc trên thế giới.

+Trên đất liền, nớc ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các tuyến

giao thông (đờng bộ, đờng sắt...) với các cửa khẩu quan trọng, Việt Nam có thể liên hệ

với nhiều nớc trên thế giới.

+ Nớc ta nằm gần các tuyến đờng biển quốc tế. Thông qua đờng biển, có thể

quan hệ với nhiều quốc gia.

+Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.

-Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần

làm giàu bản sắc văn hoá.



Trang 11



tiểu luận triết học -



-Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của thế

giới. Từ đó cho phép nớc ta có thể dễ dàng hội nhập với các nớc trong khu vực và trên

thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học, kinh nghiệm thành công cũng

nh thất bại về phát triển kinh tế của các nớc và vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ

thể của nớc ta.

II, Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam

1.Tình hình:

- Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nớc xã hội

chủ nghĩa lúc đó, nớc ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung

dựa trên chế độ công hữu về t liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ

quốc doanh đợc phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã đợc tổ chức rộng rãi ở

nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, sở hữu t nhân bị

thu hẹp lại, không còn cơ sở cho t nhân phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã đợc

tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập đợc mô hình tổ chức kinh tế của Liên Xô cũ. Với sự nỗ

lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các nớc xã hội chủ nghĩa

lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy đợc những tính u việt đó.

- Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ

kế hoạch hóa, ta đã tập trung đợc vào trong tay một lực lợng vật chất quan trọng về cơ

sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền vốn để

ổn định và phát triển kinh tế.

Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến về

kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với

nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu

trong chiến tranh lúc đó.

- Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng

kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình:

+Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)

+Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)

+Kinh tế thị trờng (đặc trng ở miền Nam).

Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhng chúng ta vẫn tiếp tục

xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nớc. Đó là sự

áp đặt rất bất lợi.

2. Hậu quả:



Trang 12



tiểu luận triết học -



Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý đợc hiệu quả các

nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất nớc.

- Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trờng bị ô nhiễm.

- Nhà nớc bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho nền

kinh tế.

+ Sự tăng trởng kinh tế chậm lại, tăng trởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.

+Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng đợc nhu cầu trong nớc.

+Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nớc ngoài ngày càng tăng và không

có khả năng cho chi trả.

+Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu nh không có.

+Vốn đầu t cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ nớc

ngoài.

- Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con ngời và xã hội.

- Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân khó

khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.

- Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế t bản t nhân, cá thể bị tiêu

diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn của các

thành phần kinh tế này không đợc khai thác và phục vụ cho mục tiêu chung của nền

kinh tế. Ngợc lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồ ạt, tràn lan trên mọi

lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch

vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ yếu).Thời điểm cao nhất,

thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh nghiệp với số tài sản cố định

chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nớc ta tuy có

đạt đợc tốc độ tăng trởng nhất định nhng sự tăng trởng đó không có cơ sở để phát triển

vì đã dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nớc ngoài.

- Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung

nên nhà nớc gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp quốc

doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lợng sản xuất không đợc

giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.

3.Nguyên nhân

Trong nhận thức cũng nh trong hành động, chúng ta cha thật sự thừa nhận cơ cấu

kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tơng đối dài, cha nắm vững và vận

dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nớc ta.



Trang 13



tiểu luận triết học -



Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn cha bị xoá bỏ.

Cơ chế mới cha đợc thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời cha đợc thay

đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tợng vô tổ chức, vô

kỷ luật còn khá phổ biến.

Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là

những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dới.

Chúng ta mới nêu ra đợc phơng hớng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức, bớc đi,

cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề cha giải quyết đợc thoả đáng cả về lý luận và thực

tiễn.

4. T tởng chỉ đạo

Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:Khuynh hớng

t tởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế là bệnh chủ

quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng

chủ quan (Đảng công sản Việt nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI1986). Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, cha thừa nhận thật

sự những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.

Chúng ta đã u tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu quả

kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta cha chú ý đúng mức tới sản xuất nông nghiệp

và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

- Bên cạnh đó, sự tan rã của hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa vào những năm

cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị trờng truyền thống,

nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với sản xuất và đời sống.

- Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực phản động

cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.

Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào những

năm 1979 - 1980 đã đa nớc ta vào tình trạng khủng hoảng, công nghiệp chỉ tăng 0,6%,

nông nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát ở mức siêu cấp năm 1986 : 74%

Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm đợc rút ra trong Văn kiện Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ VI về phát triển kinh tế phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt

động theo quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những khó khăn trên

đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh

dấu một mốc phát triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất nớc.



Trang 14



tiểu luận triết học -



III. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế

Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến đợc tình hình, Đảng ta trớc hết phải thay

đổi nhận thức , đổi mới t duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề ra những chủ

trơng, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc

thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phơng hớng phát triển chung của

xã hội. Mọi chủ trơng, chính sách, biện pháp kinh tế gây tác động ngợc lại đều biểu

hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải đợc sửa đổi hoặc huỷ bỏ.

- Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang tác

động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản cùng với

các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò chủ đạo, đợc

vận dụng trong một thể thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng hoá, đặc biệt là

quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh tranh... Kế hoạch hoá phải luôn luôn

gắn liền với việc sử dụng các đòn bảy kinh tế.

- Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Những quan điểm, đờng lối do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê

Nin, t tởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nớc . Công cuộc đổi mới của Đảng từ

sau Đại hội VI đến nay ở nớc ta không nằm ngoài những quy luật phổ biến của phép

biện chứng, Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào nhận thức hiện thực xã hội, phân

tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm ra các mâu thuẫn đó và tạo

ra động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.

Vì trớc đây, nớc ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều khó khăn phức

tạp, gay gắt, lạm phát phi mã do t duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và thực tiễn có

khoảng cách xa. T duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung quan liêu bao cấp

đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất. Bị chi phối bởi quy luật mâu thuẫn khách

quan nên để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã tiến hành đổi mới và cải cách kinh tế.

- Bớc đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để làm đủ

ăn và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý,

trớc hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy luật về sự phát triển các ngành

sản xuất vật chất, phù hợp với sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế

đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ tăng trởng ổn định. Phải

thông qua việc sắp xếp lại sản xuất, đi đôi với việc xây dựng thêm cơ cấu kinh tế hợp

lý.

- Hớng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu

dùng, xuất khẩu.



Trang 15



tiểu luận triết học -



- Xây dựng và hoàn thiện một bớc quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và

trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa

bao gồm cả khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các biện pháp thích hợp, sử dụng mọi

khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dới sự chỉ đạo

của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nớc ta và

là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một

đặc trng của thời kỳ quá độ. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế

hoạch hoá theo phơng thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc

tập trung dân chủ.

- Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập trung

quan liêu, chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, tự chủ

tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể lao động.



Trang 16



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

×