Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.83 MB, 86 trang )
Khối NHTMQD chiếm ưu thế về vốn và nhà nước vẫn nắm quyền chi phối tại một
số NH đã cổ phần hóa: Các NHTMQD là các NH thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc
đã được cổ phần hóa một phần nhưng chủ sở hữu chính vẫn là Nhà nước. Hầu hết
các NH trong khối này đều có lợi thế về qui mô vốn, với tổng vốn điều lệ của 4
NH lớn tại 31/12/2010 là 64.037 tỷ đồng, dẫn đầu là VBARD với 21.042 tỷ đồng.
Khách hàng truyền thống của khối này là các Tổng công ty nhà nước, tuy nhiên
việc cho vay các DN quốc doanh tiềm tàng nguy cơ nợ xấu nhiều hơn so với các
DN khác. Theo thống kê của NHNN, trong 2,5% nợ xấu toàn ngành của năm
2010, có tới 60% là nợ xấu của các DN quốc doanh. Thị phần tín dụng của khối
này đã sụt giảm đáng kể trong giai đoạn 2005 – 2010 mặc dù vẫn chiếm tỷ trọng
lớn nhất. Riêng 4 NH quốc doanh là BIDV, Agribank (VBARD), Vietcombank
(VCB) và Viettinbank (CTG) chiếm tới 48,3% tổng dư nợ cho vay của toàn ngành
trong năm 2010. Tính thêm NH Phát triển nhà ĐBSCL (MHB), tổng thị phần tín
dụng của nhóm các NHTMQD là 49,3%. Tuy nhiên, con số này thấp hơn nhiều so
với 74,2% tại thời điểm 2005. Thị phần huy động cũng sụt giảm từ 74,2% xuống
47,7% trong giai đoạn 2005 – 2010.
Khối NHTMCP có hoạt động linh hoạt và dần chiếm lĩnh thị phần của khối
NHTMQD: Các NHTMCP có cơ cấu cổ đông đa dạng hơn các NHTMQD, tập
trung vào hoạt động cho vay các DN vừa và nhỏ và hoạt động ngân hàng bán lẻ.
Thị phần của khối này tăng nhanh trong những năm gần đây do chiếm lĩnh được từ
khối NHTMQD, chiếm 37,1% thị phần tín dụng của toàn ngành trong năm 2010
với tổng số vốn điều lệ lên tới 151.590 tỷ đồng. Tuy nhiên, qui mô của nhóm NH
này vẫn nhỏ hơn nhiều so với các NHTM quốc doanh. Dẫn đầu vềvốn điều lệ
trong nhóm này là Eximbank (EIB) với 10.560 tỷ đồng, theo sau đó là ACB với
9.377 tỷ đồng và Sacombank (STB) với 9.179 tỷ đồng. Một số NHTMCP khác
6
cũng có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ đồng bao gồm NH Quân đội (MB), NH Kỹ
thương (TCB), NH Hàng Hải Việt Nam (MSB) và NH Đông Nam Á (SEAB). Hầu
hết các NHTMCP còn lại đều có vốn điều lệ quanh mức 2.000 - 3.000 tỷ đồng.
Trong điều kiện lạm phát tăng cao của năm 2011, nhiều NH yếu về thanh khoản
bắt buộc phải huy động bằng mọi giá để đảm bảo hoạt động, dẫn đến tình trạng
chạy đua lãi suất như thời gian vừa qua.
Khối NHNN & LD Khối NHTM CP Khối NHTM QDCÔNG TY CHỨNG
KHOÁN VIETCOMBANK BÁO CÁO NGÀNH NGÂN HÀNG
Khối NHNNg và liên doanh có những động thái tích cực nhằm thâm nhập
sâu hơn vào thị trường Việt Nam: Thế mạnh của khối NH này là mảng ngân hàng
bán lẻ với chất lượng dịch vụ vượt trội và sản phẩm cung cấp đa dạng hơn so với
các NHTM trong nước. Đây cũng là mảng thị trường còn nhiều tiềm năng phát
triển mà các NH trong nước chưa khai thác được. Trong thời gian vừa qua, các
NH lớn như HSBC, Citibank (Citi), ANZ, Standard Chartered (S.C) và Deutsche
Bank đều không ngừng mở rộng hoạt động của mình. Citi và S.C chính thức triển
khai hoạt động ngân hàng bán lẻ tại Hà Nội vào tháng 10/2010, trong khi HSBC
khai trương 2 chi nhánh mới tại Đà Nẵng và Cần Thơ trong T9.2010. Một loạt các
chi nhánh NHNN khác như Huanan, Chinatrust và Mizuho cũng tăng mạnh vốn
được cấp vào thời điểm cuối năm 2010. Ngoài ra, một vài NHNNg vẫn đang nắm
giữ cổ phần tại các NHTM trong nước.Thị phần của khối NHNNg và liên doanh
không có nhiều biến động, đặc biệt là thị phần huy động do các NHNNg bị hạn
chế về huy động vốn trên mức vốn được cấp. Thị phần huy động và cho vay của
nhóm NH này trong 2010 lần lượt là 8,9% và 13,6%. Mặc dù bắt đầu từ năm 2011,
hạn chế về huy động tiền gửi được xóa bỏ nhưng khối NH này sẽ cần một thời
gian nhất định để có thể thay đổi miếng bánh thị phần do về tương quan qui mô
mạng lưới của các NHNNg vẫn còn rất nhỏ so với các NHTM trong nước.
7
1.2. Diễn biến ngành ngân hàng Q2.2012
Trần lãi suất huy động giảm mạnh. Lãi suất cho vay kỳ vọng tiếp tục giảm
xuống dưới 15%.
Trần lãi suất huy động giảm mạnh 4% trong Q2 và có khả năng ổn định đến
cuối năm. Lãi suất cho vay đang tiệm cận dần tới mức kỳ vọng của doanh nghiệp.
Cùng với đà giảm của lãi suất huy động, lãi suất cho vay cũng được các ngân hàng
giảm mạnh từ mức 20% -22%/năm vào cuối Q1 xuống mức 14% - 17%/năm vào
cuối Q2. Có thể thấy, lãi suất cho vay đang tiệm cận dần với mức chấp nhận được
của doanh nghiệp (14% - 15%). Tuy nhiên, đây chỉ là mức lãi suất dành cho các
khoản cho vay mới, trong khi các khoản vay cũng vẫn phải chịu mức lãi suất cao
hơn tương đối nhiều. Nhằm tháo gỡ khó khăn này, Thống đốc NHNN đã yêu cầu
các NHTM giảm lãi suất các khoản vay cũ xuống 15% từ ngày 15/07/2012.
Tín dụng được cải thiện trong Q2
Tín dụng tăng trưởng dương 0,76% trong 6T2012. Tuy nhiên hoạt động cho vay
chủ yếu tập trung ở một số ngân hàng lớn, chưa được cải thiện đồng đều trên toàn
hệ thống.
Thanh khoản của hệ thống ngân hàng ổn định nhưng dòng tiền vẫn quanh
quẩn trong hệ thống và chưa đến được với doanh nghiệp
8
Sự sôi động của thị trường trái phiếu, tín phiếu với tỷ trọng tham gia cao của các
ngân hàng cho thấy thanh khoản của hệ thống ngân hàng tương đối dồi dào.
(1) Trên thị trường trái phiếu, tổng lượng trái phiếu Kho bạc Nhà nước và Chính
phủ bảo lãnh phát hành trên thị trường sơ cấp đạt 87,464 nghìn tỷ đồng (+22% yo-y). 67,8% tổng số TPCP được mua bởi các NHTM trong nước. Trên thị trường
thứ cấp, tổng giao dịch trái phiếu lên tới 71,112 nghìn tỷ đồng, tăng 2,07 lần so
với cùng kỳ năm trước.
(2) Thị trường tín phiếu sau một thời gian dài chỉ có tín phiếu Kho bạc Nhà nước
được phát hành (giá trị 7.371 tỷ đồng với kỳ hạn 1 năm trong 6T2012), kể từ cuối
Q1, NHNN cũng đã phát hành tín phiếu với các kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, và 6
tháng nhằm rút một lượng tiền lớn đã cung ra nền kinh tế để mua ngoại hối đưa
vào dự trữ.
(3) Thị trưởng mở với hoạt động bơm tiền qua nghiệp vụ thông thường có xu
hướng giảm mạnh trong Q2. Sau khi một lượng tiền lớn được cung ra cho dịp Tết
Nguyên đán, NHNN đã liên tục rút tiền về trên thị trường mở. Theo đó, số dư trên
thị trường này đã giảm mạnh từ mức gần 80 nghìn tỷ đồng sau Tết xuống còn 1
nghìn tỷ đồng vào cuối tháng 6. Tuy nhiên, việc tham gia nhiều vào thị trường trái
phiếu của các ngân hàng hơn mức dùng cho quản trị thanh khoản cũng cho thấy
dòng tiền vẫn quanh quẩn trong hệ thống ngân hàng, chưa đến được với các doanh
nghiệp và do đó, không hỗ trợ được nhiều cho mức tăng trưởng tín dụng trong thời
gian qua. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng tín dụng doanh nghiệp sẽ được mở rộng
thêm khi lãi suất cho vay trong tương quan với rủi ro đã bắt đầu hấp dẫn hơn tỷ
suất sinh lời trên thị trường trái phiếu
Siết chặt hoạt động trên thị trường liên ngân hàng
Ngày 18/06/2012, NHNN ban hành Thông tư 21/2012/TT-NHNN quy định về
hoạt động cho vay, đi vay; mua bán có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, có hiệu lực từ 1/9/2012.Một số điểm chính ảnh
hưởng tới hoạt động của các ngân hàng được đề cập dưới đây:
9
(1) TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được gửi tiền, nhận tiền gửi
(trừ tiền thanh toán) tại TCTD, chi nhánh NH nước ngoài khác. Quan hệ gửi và
nhận tiền được chuyển sang vay và cho vay, kéo theo các NHTM giao dịch liên
ngân hàng sẽ bị hạn chế một số quy định như tăng trích lập dự phòng rủi ro và
phải có hợp đồng mua bán chứ không dựa trên uy tín như trước đây.
(2) Các TCTD muốn được giao dịch liên ngân hàng phải không có các khoản nợ
quá hạn đối với các giao dịch từ 10 ngày trở lên tại thời điểm thực hiện giao dịch
(đối với bên đi vay). Quy định này nhằm hạn chế tình trạng nợ xấu xảy ra trên thị
trường liên ngân hàng như trong thời gian gần đây. Theo đó, việc thực hiện Thông
tư 21 sẽ giúp thị trường liên NH đi vào quy củ, hoạt động lành mạnh, an toàn hơn.
(3) Các TCTD phải thực hiện phân loại, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
các khoản vay theo quy định. Điều này có thể làm tăng chi phí đối với các NHTM.
Nhưng do chưa có hướng dẫn cụ thể phải trích lập dự phòng bao nhiêu, nên chưa
thể xác định được mức ảnh hưởng đối với NHTM.
Nợ xấu tăng mạnh trong Q2 nhưng các biện pháp giải quyết không có
tiến triển mới.
Nợ xấu toàn hệ thống đạt 8,6% vào cuối tháng 4. Việc thành lâp công ty mua bán
nợ xấu sẽ không thể xảy ra trong thời gian ngắn. Một loạt các con số về nợ xấu
được công bố trong Q2, trong đó 2 con số gần đây nhất là 4,47% tại 31/05/2012
(tương đương hơn 117.000 tỷ đồng) theo báo cáo của các TCTD và 8,6% tại
31/03/2012 (tương đương hơn 202.000 tỷ đồng) theo kết quả giám sát của cơ quan
thanh tra NHNN
NHNN công bố một loạt thông tin quan trọng.
Tổng dư nợ cho vay đạt 2.617.320 tỷ đồng tính đến 30/042012. Cho vay xây dựng
và bất động sản chiếm 14,74%. Tổng tài sản của toàn hệ thống là 4.868.650 tỷ
đồng, trong đó khối NHTMQD chiếm 39,8% và NHTMCP chiếm 45,4%. Tỷ lệ
CAR đạt 14,55% với mức cao nhất thuộc về khối NHLD (32,54%). Tổng tín dụng
đối với nền kinh tế đạt 2.617.320 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ cho vay lĩnh vực xây
dựng và bất động sản chiếm 14,74%.
10
1.3. Triển vọng ngành ngân hàng Q3.2012
Lãi suất cho vay tiếp tục hạ, tín dụng kỳ vọng tăng trưởng khả quan
hơn trong Q3.Việc NHNN yêu cầu giảm lãi suất cho các khoản vay cũ xuống
15% sẽ có khả đẩy nhanh việc giảm lãi suất cho vay trên diện rộng. Tiếp tục có sự
phân hóa rõ ràng hơn trong hệ thống ngân hàng Các NH có chi phí vốn thấp,
chất lượng quản lý rủi ro tốt và cơ sở khách hàng chất lượng sẽ có lợi thế. Sự kiện
hạ lãi suất các khoản vay cũ xuống 15% lần này sẽ càng tạo nên sự phân hóa rõ
nét trong hệ thống ngân hàng. Những ngân hàng có thể áp dụng ngay và rộng rãi
việc hạ lãi suất này phải là những ngân hàng có nguồn vốn dồi dào và chi phí vốn
đầu vào tương đối thấp, cơ sở khách hàng khỏe mạnh và chất lượng quản lý rủi ro
tốt. Trong khi đó, các ngân hàng yếu hơn sẽ phải chấp nhận hoặc giảm bớt lợi
nhuận hoặc một bộ phận khách hàng sẽ chuyển qua các ngân hàng đối thủ. Đây sẽ
là cơ hội để các ngân hàng hoạt động hiệu quả giảm bớt một phần gánh nặng nợ
xấu và mở rộng cơ sở khách hàng của mình.
Các ngân hàng có xu hướng đẩy mạnh cho vay cá nhân trong thời gian
tới. Ngay cả những ngân hàng lớn tập trung về hoạt động bán buôn cũng định
hướng đẩy mạnh cho vay tiêu dùng trong thời gian tới.Mặc dù lĩnh vực cho vay
doanh nghiệp bị thu hẹp do tình hình sản xuất đình trệ, nhu cầu vay tiêu dùng hay
mua nhà ở, mua ô tô vẫn ở mức cao. Đây cũng là lĩnh vực có mặt bằng lãi suất cao
hơn và rủi ro thấp hơn so với cho vay doanh nghiệp. Khi mặt bằng lãi suất cho vay
đã giảm dần, các ngân hàng hoàn toàn có thể đẩy mạnh hoạt động này để thúc đẩy
thêm nguồn thu nhập lãi.
Ngân hàng được phép tăng trưởng tín dụng vượt chỉ tiêu, tuy nhiên nhiều
ngân hàng khó có khả năng đạt chỉ tiêu năm 2012
Ngân hàng có kế hoạch tăng tín dụng vượt chỉ tiêu có thể báo cáo để NHNN xem
xét. Tuy nhiên, khả năng sẽ có ít ngân hàng xin thêm chỉ tiêu. Đại diện NHNN chi
nhánh TP. HCM cho biết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của thành phố này đã được
điều chỉnh giảm từ mức 17% xuống còn 8-10%, vì không thể đạt được chỉ tiêu cũ.
Dự báo tăng trưởng tín dụng toàn ngành Ngân hàng cũng chỉ ở mức 12%. Vì vậy,
chúng tôi cho rằng số ngân hàng tăng trưởng cao hơn trung bình ngành là không
nhiều.
11
SBU
dịch vụ
thị phần
A
Dư nợ
dụng
B
Huy động vốn
14
16,2 / 14,8 / 16%
14
C
thẻ
30
42 / 17 / 17
tín 8,1
thi phần top 3 tốc độ
DN
trưởng
17,9 / 11,4 / 8%
11,4
24%
Trong đó dư nợ tín dụng:AGRB 17,9% , BIDV 11,4%, CTG 11,4%
Huy động vốn: CTG 16,2% , BIDV 14,8%, VCB 14%
Thẻ:
VCB 30%,
Donga 17%,
RMS (A) = 8,1 / 17,9 = 0,45
RMS (B) = 14 / 16,2 = 0,86
RMS (C) = 30 / 17 = 1,76
12
AGRB 17%
tăng
Tốc độ tăng trưởng
30%
15%
2X
1X
tín
0
Thị phần
Trong đó:
Tín dụng
thẻ
huy động vốn
13
CHƯƠNG 2: Tổng quan về Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam
1.4.
Giới thiệu về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt
Nam
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) chính thức đi vào hoạt động ngày
01/4/1963, với tổ chức tiền thân là Cục Ngoại hối (trực thuộc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam). Là ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên được Chính phủ lựa
chọn thực hiện thí điểm cổ phần hoá, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính
thức hoạt động với tư cách là một Ngân hàng TMCP vào ngày 02/6/2008 sau khi
thực hiện thành công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát hành cổ phiếu lần
đầu ra công chúng. Ngày 30/6/2009, cổ phiếu Vietcombank (mã chứng khoán
VCB) chính thức được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM
Sở hữu hạ tầng kỹ thuật ngân hàng hiện đại, Vietcombank có lợi thế rõ nét
trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý tự động các dịch vụ ngân hàng,
phát triển các sản phẩm, dịch vụ điện tử dựa trên nền tảng công nghệ cao. Các dịch
vụ: VCB Internet Banking, VCB Money, SMS Banking, VCB Cyber Bill
Payment,…đã, đang và sẽ tiếp tục thu hút đông đảo khách hàng bằng sự tiện lợi,
nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, dần tạo thói quen thanh toán không dùng tiền mặt
(qua ngân hàng) cho khách hàng
Sau gần nửa thế kỷ hoạt động trên thị trường, Vietcombank hiện có trên
12.500 cán bộ nhân viên, với gần 400 Chi nhánh/Phòng Giao dịch/Văn phòng đại
diện/Đơn vị thành viên trong và ngoài nước, gồm Hội sở chính tại Hà Nội, 1 Sở
Giao dịch, 78 chi nhánh và hơn 300 phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con
tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại Singapore, 5
công ty liên doanh, liên kết. Bên cạnh đó, Vietcombank còn phát triển một hệ
thống Autobank với 1.700 ATM và 22.000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS)
trên toàn quốc. Hoạt động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới hơn 1.300
ngân hàng đại lý tại 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với bề dày hoạt động và đội ngũ cán bộ có chuyên môn vững vàng, nhạy
bén với môi trường kinh doanh hiện đại, mang tính hội nhập cao…Vietcombank
luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn và của hơn 6
triệu khách hàng cá nhân.
Bằng trí tuệ và tâm huyết, các thế hệ cán bộ nhân viên Vietcombank đã,
đang và sẽ luôn nỗ lực để xây dựng Vietcombank xứng đáng với vị thế là “Ngân
hàng hàng đầu vì Việt Nam thịnh vượng”
Tên đầy đủ bằng Tiếng Việt: Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt nam
14
Tên đầy đủ bằng Tiếng Anh: Joint Stock Commercial Bank for Foreign
Trade of Viet Nam.
Tên giao dịch: Vietcombank
Tên viết tắt tiếng Anh: Vietcombank – VCB
Trụ sở chính: 198 Trần Quang Khải, Quận Hoàn Kiếm, HN
Điện thoại: (84.4) 9.343.137
Fax: (84.4) 8.241.395
Telex: 411504/411209 VCB VT
SWIFT: BFTV VNVX
Website : www.vietcombank.com.vn
1.5. Tầm nhìn và sứ mạng kinh doanh của Ngân hàng VCB
Trên cơ sở đánh giá môi trường kinh doanh cùng với kinh nghiệm hoạt động trải
qua 45 năm, NHNT đã khẳng định vị thế hàng đầu của mình trên thị trường. Từ
đó, NHTMCP NTVN xác định tầm nhìn và chiến lược kinh doanh như sau:
1.5.1. Tầm nhìn chiến lược
Xây dựng NHTMCP NTVN thành Tập đoàn đầu tư tài chính ngân hàng đa năng
trên cơ sở áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất, duy trì vai trò chủ đào tạo tại Việt
Nam và trở thành một trong 70 định chế tài chính hàng đầu Châu Á vào năm 2015
– 2020, có phạm vi hoạt động quốc tế.
NHTMCP NTVN xác định chiến lược phát triển tập trung vào các nội dung:
• Tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa toàn diện mọi mặt hoạt động - bắt kịp với
trình độ khu vực và thế giới
• Tranh thủ thời cơ, phát huy lợi thế sẵn có của NHNT cũng như của các cổ
đông mới – phát triển, mở rộng lĩnh vực hoạt động một cách hiệu quả theo
cả chiều rộng và chiều sâu.
1.5.2. Sứ mạng kinh doanh của VCB
• Luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt
• Bảo đảm tương lai trong tầm tay của khách hàng
• Sự thuận tiện trong giao dịch và các hoạt động thương mại trên thị trường
15