1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

Lịch sử nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 107 trang )


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1. Lịch sử nghiên cứu

Theo quy định của Bộ GD&ĐT, sau khi tốt nghiệp THCS học sinh

đƣợc tiếp tục theo học tại một trƣờng THPT, các trung tâm giáo dục thƣờng

xuyên, hƣớng nghiệp dạy nghề trong hệ thống giáo dục phổ thông. Quyết định

tiếp tục theo học tiếp tại trƣờng THPT hay lựa chọn theo hƣớng khác của học

sinh phụ thuộc vào kết quả học lực ở THCS hoặc kết quả điểm thi của kì thi

tuyển sinh vào THPT.

Trong thực tế, chúng ta thấy rằng, số lƣợng học sinh đạt điểm cao trong

kì thi tuyển sinh vào lớp 10 chiếm tỉ lệ không nhỏ nhƣng bên cạnh đó có

những em vì nhiều lí do, điều kiện khác nhau mà thành tích chƣa cao. Lý giải

vấn đề trên có rất nhiều ý kiến và quan niệm cho rằng, có sự khác nhau về khu

vực sống điển hình nhƣ học sinh ở khu vực thành thị có điều kiện học tập tốt

nên sẽ đạt kết quả cao hơn trong kì thi tuyển sinh. Một số quan niệm khác cho

rằng sự khác nhau về giới tính cũng ảnh hƣởng tới điểm thi, cụ thể nam giới

có điểm thi tốt hơn nữ giới. Một số quan niệm khác cho rằng, do chỉ số IQ cao

và thể trạng của cá nhân ảnh hƣởng đến điểm thi. Câu hỏi đặt ra có hay không

nếu điểm thi tuyển sinh lớp 10 (đầu vào) của thí sinh cao thì điểm thi tốt

nghiệp THPT (đầu ra) sẽ cao và ngƣợc lại điểm thi đầu vào thấp thì điểm thi

đầu ra sẽ thấp?

Những câu hỏi nghiên cứu đặt ra là trong các quan niệm trên, những

quan niệm nào là đúng. Vì thực tế các kỳ thi tốt nghiệp trong những năm gần

đây tỉ lệ đỗ tốt nghiệp THPT trên cả nƣớc khá cao, số lƣợng học sinh đạt điểm

cao trong kỳ thi này cũng chiếm tỉ lệ tƣơng đối lớn mà hiển nhiên trong kỳ thi

tuyển đầu vào số học sinh có điểm thi cao không hẳn chiếm tỉ lệ lớn. Mặt

khác, các trƣờng ở những địa phƣơng thuộc diện khó khăn, điều kiện kinh tế

12



xã hội không thuận lợi vẫn có tỉ lệ đỗ tốt nghiệp cao và các học sinh ở những

trƣờng này vẫn có nhiều em đạt điểm tốt. Vì vậy việc nghiên cứu xem các yếu

tố nào ảnh hƣởng đến điểm thi là điều cần thiết.

Bàn về chất lƣợng trong giáo dục phổ thông có rất nhiều học giả ở trong

nƣớc và nƣớc ngoài đã nghiên cứu hoặc đƣa ra những nhận định của mình về

vấn đề này. Tuy chƣơng trình, hình thức giáo dục ở mỗi nƣớc là khác nhau

nhƣng tựu chung lại đều hƣớng đến một nền giáo dục hiện đại, tiên tiến và có

chiều sâu về chất lƣợng đảm bảo yêu cầu của xã hội. Có thể đƣa ra một vài

nghiên cứu có đề cập đến những yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng học tập, sự

sẵn sàng theo học trong môi trƣờng mới của học sinh hay mối liên hệ giữa

điểm thi đầu vào và điểm thi đầu ra của học sinh, cụ thể ở trong nƣớc và nƣớc

ngoài nhƣ sau:

1.1 Những nghiên cứu ở nƣớc ngoài

Năm 2010, Tổ chức cộng đồng tại thung lũng Silicon, Mỹ đã nghiên

cứu và đƣa ra đánh giá mức độ sẵn sàng học tập của các học sinh trƣớc khi

bƣớc vào học tập tại trƣờng. Các dữ liệu đánh giá đã giúp cộng đồng hiểu rõ

hơn những kỹ năng, kiến thức các em cần có khi bƣớc vào môi trƣờng học tập

mới. Đặc biệt phân tích ở mức độ cao cũng chỉ ra những trẻ em gái, và trẻ lớn

tuổi thì mức độ sẵn sàng cho học tập cao hơn. Từ đây phụ huynh biết cần cung

cấp và định hƣớng cho con em họ những điều gì để bắt đầu vào học tại môi

trƣờng mới. Nghiên cứu của Huafang Zhao và Shihching Liu (2011) về 7 tiêu

chí học sinh cần đạt đƣợc tại trƣờng Montgomery County Public Schools đã

làm rõ hơn về mức độ sẵn sàng học tập của học sinh. Các tác giả đã đƣa ra

một loạt các phân tích dự đoán về số học sinh đã tốt nghiệp năm 2003 và đƣa

ra đƣợc phát hiện quan trọng là học sinh dù ở chủng tộc hay sắc tộc nào nếu

đạt kết quả cao trong 7 tiêu chí đều sẵn sàng theo học và thành công hơn ở bậc

đại học so với những học sinh không đạt đƣợc kết quả cao trong 7 tiêu chí đó.

13



Và những ngƣời này đối với họ việc hoàn thành hay lấy đƣợc bằng cử nhân

thƣờng mất ít thời gian hơn so với những sinh viên đạt điểm tốt nghiệp trung

học thấp.

Hệ thống 7 tiêu chí đƣa ra xác định các tiêu chuẩn quan trọng để giúp

học sinh đạt đƣợc kiến thức và các kĩ năng cần thiết khi học đại học và học

sinh bắt đầu quá trình lĩnh hội 7 tiêu chí này từ các lớp nhỏ cho đến khi tốt

nghiệp trung học. Nghiên cứu đã chỉ ra mối tƣơng quan giữa các tiêu chí và

đƣa ra nhận định về sự thành công của học sinh khi hội tụ đƣợc nhiều hay ít

các tiêu chí đó. Nghiên cứu đã phân tích chi tiết và trả lời đƣợc các câu hỏi

liên quan đến đối tƣợng là các học sinh tốt nghiệp tại trƣờng, đó là:

-



Những sinh viên chỉ đạt đƣợc 4 trên 7 tiêu chí có thể sẵn sàng bƣớc

vào học đại học hay không?



-



Các tiêu chí liên quan đến kết quả tốt nghiệp trung học có đƣợc đo

bằng kết quả tuyển sinh đại học, duy trì trƣờng đại học đã chọn và

đạt đƣợc bằng cử nhân. Các yếu tố liên quan đến kết quả này là gì?



-



Sau khi tốt nghiệp trung học, thành công ở trƣờng đại học đƣợc đo

bằng thời gian lấy đƣợc bằng cử nhân không? Kết quả đó có liên

quan đến chủng tộc hay dân tộc không?



Một nghiên cứu khác của Robert Mann, Đại học Western Illinois

Macomb, Illinois (2005) còn đƣa ra những nhận định chi tiết và cụ thể hơn

thông qua việc thu thập và phân tích dữ liệu học sinh từ 11 trƣờng trung học ở

Illinois. Dữ liệu bao gồm điểm Toán của tất cả các học sinh đã tốt nghiệp các

năm 2002, 2003, 2004 và 2005 của các trƣờng từ nông thôn, ngoại ô và thành

thị. Nghiên cứu cho phép khám phá các kết nối mạnh mẽ giữa các môn học

với môn Toán và mức độ sẵn sàng theo học các môn đó và chỉ ra thành tích

học của lớp 8 và đạt kết quả cao trong lớp 11 của học sinh. Dữ liệu thu thập



14



cho nghiên cứu này cũng có giá trị cao cho các trƣờng và các nhà hoạch định

chính sách để điều tra khảo sát.

Nghiên cứu cũng nhận định nhiều học sinh tốt nghiệp trung học nhƣng

không có các kỹ năng cần thiết để theo học tốt ở trƣờng đại học. Đặc biệt,

nhiều học sinh vào đại học nhƣng không chuẩn bị tốt để tiếp thu đƣợc các môn

học. Trong thực tế, chỉ có 40% thí sinh là đáp ứng đƣợc cho khóa học đầu tiên

của họ trong các môn đại số. Tác giả đƣa ra mức điểm môn toán của kì thi tốt

nghiệp trung học là 22 hoặc cao hơn để làm điểm chuẩn xác định năng lực có

thể học tốt môn này ở đại học, có thể dự đoán xác suất đạt kết quả tốt môn

toán của sinh viên trong năm học đầu tiên ở đại học. Nghiên cứu này đƣa ra 3

kết luận:

1. Hầu hết các sinh viên chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của môn toán trình

độ đại học khi tốt nghiệp trung học.

2. Các kì thi môn toán ở trung học giúp học sinh chuẩn bị tốt hơn khi

học toán ở đại học.

3. Đặc biệt, học toán nâng cao ở trung học thì khi học toán ở đại học sẽ

đạt kết quả tốt hơn.

Đề tài của Abari Ayodeji Olasunkanmi và Odunayo Olufunmilayo

Mabel phân tích về đầu vào – đầu ra của trƣờng trung học công và tƣ thục ở

Lagos, Nigeria đƣợc đăng trên Tạp chí International Journal of Humanities

and Social Science tháng 10 năm 2012 cũng đã đƣa ra các yếu tố tác động đến

thành tích học tập của học sinh trong quá trình học tập tại hai môi trƣờng học

tập khác nhau là trƣờng công và trƣờng tƣ thục. Nghiên cứu này tiến hành

nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2010. Tác giả coi giáo viên, học sinh, cơ sở

hạ tầng, chƣơng trình giảng dạy đã đƣợc sử dụng nhƣ là các biến đầu vào,

trong khi kết quả học tập của học sinh là các biến đầu ra. Đề tài nghiên cứu

4.000 giáo viên và 400 hiệu trƣởng theo mẫu lựa chọn thông qua kỹ thuật

chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng từ các trƣờng trung học ở bang Lagos. Hai



15



câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết đã đƣợc đặt ra trong nghiên cứu. Các dữ liệu

đƣợc thu thập thông qua việc sử dụng các công cụ đo lƣờng và đáng tin cậy,

đó là các bảng hỏi cho các giáo viên và hiệu trƣởng với tên “Phát triển giáo

dục trung học” với hệ số độ tin cậy dành cho mỗi bảng hỏi lần lƣợt là 0,89 và

0,90. Phân tích dữ liệu cho thấy có sự khác biệt đáng kể tồn tại trong các

phƣơng tiện của các cơ sở hạ tầng giữa các trƣờng trung học công và tƣ thục.

Nghiên cứu kết luận rằng sự pha trộn trong sự khác biệt của đầu vào giữa các

trƣờng trung học công và tƣ thục thúc đẩy các biến thể trong kết quả học tập

và đạo đức của các sản phẩm. Những phát hiện này cung cấp bằng chứng sống

động cho các khuyến nghị nhƣ cải thiện chất lƣợng đầu vào thông qua đào tạo

và đào tạo lại của nhà nƣớc ở các trƣờng trung học từ đo áp dụng các biện

pháp đảm bảo chất lƣợng theo hƣớng tăng hiệu quả nội bộ của các trƣờng. Các

tác giả cũng đƣa ra mô hình hệ thống về chất lƣợng giáo dục trung học sau:

Cải tiến liên tục chất lƣợng trƣờng

trung học



Đầu vào

- Trình độ của học

sinh

- Cải thiện trình độ

giảng dạy

- Cải thiện kĩ thuật

quản lí và lập kế

hoạch

- Chiến lƣợc phát

triển hiệu quả của

giáo viên

- Phát triển cơ sở

hạ tầng

- Dịch vụ cung cấp

trang thiết bị cho

trƣờng



Quản lí trƣờng học



Quản lí

tài nguyên



Đo lƣờng

Phân tích

Cái tiến



Tạo sản phẩm



Sự hài lòng của

khách hàng

- Học sinh vƣợt

qua ít nhất 5 mức

- Tính kỉ luật đƣợc

nâng cao

- Những ngƣời

quản trị tƣơng lai

- Những kĩ năng xã

hội



Sản phẩm



Đầu vào



Đầu ra



Mô hình hệ thống chất lượng của giáo dục trung học

16



Anne T. Henderson và Karen L. Mapp (2002) nghiên cứu tác động của

nhà trƣờng, gia đình và mối quan hệ cộng đồng đến thành tích học tập của

sinh viên. Mục đích nghiên cứu của các tác giả là khảo sát các minh chứng thu

đƣợc từ mối liên hệ giữa gia đình và cộng đồng với nhà trƣờng tạo nên sự

khác biệt về thành quả học tập của sinh viên. Một số câu hỏi đƣợc đặt ra là

liệu các chƣơng trình hỗ trợ sinh viên và những nỗ lực thực hiện để cam kết

với gia đình sinh viên có thật sự đúng nhƣ vậy không? Các hoạt động học

đƣờng gắn kết với gia đình và cộng đồng nhƣ thế nào? Tác động gì từ cha mẹ

và cộng đồng để cải thiện nhà trƣờng tốt hơn?... Tác giả chia bài viết thành 3

nhóm nghiên cứu gồm tác động của cha mẹ và cộng đồng đối với thành tích

học tập của sinh viên; đề ra kế hoạch hiệu quả để liên kết nhà trƣờng, gia đình

và cộng đồng; Những nỗ lực phối hợp gia đình và cộng đồng để cải thiện

trƣờng học. Trong nghiên cứu này, các tác giả nhận thấy bằng chứng thuyết

phục nhất là các yếu tố gia đình có thể cải thiện hoạt động giáo dục của học

sinh ở trƣờng học, gia đình còn tác động mạnh đến một số yếu tố chính nhƣ sự

chăm sóc, cách cƣ xử, đối xử có ảnh hƣởng đến thành quả học tập. Kết quả

nghiên cứu đƣa ra một vài phƣơng pháp để nhà trƣờng có thể giúp gia đình

phát triển kỹ năng của họ để hỗ trợ giáo dục học sinh nhƣ sau:

- Ràng buộc phụ huynh với trƣờng học để biết những gì học sinh đang

học.

- Cho phụ huynh biết những gì xảy ra đối với học sinh tại trƣờng.

- Cung cấp cho phụ huynh thông tin về cách hỗ trợ học sinh tại nhà.

- Phát triển mối quan hệ xã hội giữa gia đình và nhà trƣờng.

- Gắn kiến thức gia đình vào hệ thống giáo dục và hƣớng dẫn học sinh

cách thực hiện nhƣ thế nào để thành công.

- Khuyến khích tham gia dịch vụ xã hội và cộng đồng.

- Xây dựng tập thể vững mạnh trong gia đình.

17



Ở Anh, Kerchoff (1980) đã thu thập dữ liệu từ nhóm mẫu các trẻ

em ngƣời Anh và phát hiện ra rằng: Việc tham gia một trong số các

trƣờng trung học cao cấp hơn (trung học, trƣờng kỹ thuật, hay trƣờng tƣ)

sẽ đem lại tỉ lệ thành tích học tập cao hơn. Thành tích học tập đƣợc hiểu

là việc vƣợt qua G.C.E (Giấy chứng nhận chung của Giáo dục (GCE) là một

trình độ học vấn mà hội đồng thi ở Vƣơng quốc Anh và một vài trong số các

thuộc địa cũ của Anh hoặc các nƣớc Khối thịnh vƣợng chung, đặc biệt là Sri

Lanka và Singapore, trao cho sinh viên. GCE truyền thống bao gồm hai cấp

độ: Cấp thông thƣờng (O Level) và độ Cao cấp (A Level)) của kỳ thi ở mức

cao cấp. Tƣơng tự, các phát hiện của Madaus (1979) cũng cho rằng: Sự

khác biệt trong đặc điểm trƣờng học tạo nên sự khác biệt trong thành tích

học tập của các học sinh.

Ở các nƣớc phát triển, Heyneman and Loxley (1983) đã quan sát và

nhận thấy rằng các mô hình phát triển dựa trên Báo cáo Coleman và các

khảo sát khác tại các nƣớc công nghiệp đem lại các kết quả rất khác nhau

khi áp dụng rộng rãi. Mức độ chi trả cho giáo dục ở các nƣớc đang phát

triển ít hơn các nƣớc phát triển, điều này có thể dẫn đến tác động đáng kể

đến thành tích đạt đƣợc. Fuller (1987) trong bài phê bình các nghiên cứu

liên quan đã lƣu ý rằng ở các nƣớc đang phát triển, đầu vào đơn giản, đặc

biệt là các đầu vào tập trung vào quá trình giảng dạy đem lại mức độ tiếp

thu cao hơn, và chất lƣợng của giáo viên ở các nƣớc Thế giới thứ 3, đặc

biệt là số năm giáo dục ở đại học và đào tạo giáo viên có ảnh hƣởng đến

kết quả học tập của học sinh.

Trong khi các nghiên cứu đƣợc thực hiện tại các nƣớc đang phát

triển dƣờng nhƣ nhấn mạnh rằng đặc điểm trƣờng học tạo nên sự khác

biệt trong kết quả học tập của những học sinh khác nhau, thì một số



18



nghiên cứu ở các nƣớc phát triển lại chỉ ra rằng các yếu tố gia đình có ảnh

hƣởng lớn hơn.

Schiefelbein và Simmons (1981) trong một bài phê bình dựa trên 25

nghiên cứu của các nƣớc phát triển nhấn mạnh rằng: Trong số 123 yếu tố

quan trọng quyết định thành tích học tập, những yếu tố liên quan đến đặc

điểm học sinh dƣờng nhƣ đem lại nhiều kết quả hơn là giáo viên hoặc đặc

điểm trƣờng học. Các phát hiện của Conte's (1980) đƣa ra thêm bằng

chứng chứng tỏ rằng so với trƣờng học, yếu tố môi trƣờng gia đình có ảnh

hƣởng lớn hơn đến kết quả học tập.

Alexander và Simmons (1975) trong một phê bình mở rộng đối với

các nghiên cứu cả ở nƣớc phát triển và đang phát triển cho thấy: Sự tƣơng

đồng giữa các phát hiện từ cả nƣớc phát triển và đang phát triển đó là nền

tảng kinh tế xã hội của học sinh là yếu tố chính quyết định thành tích học

tập ở tất cả các cấp độ trƣờng học ngoại trừ cấp trung học phổ thông. Tuy

nhiên ở các nƣớc đang phát triển, yếu tố này lại có ảnh hƣởng ít hơn các

nƣớc đang phát triển. Ở các nƣớc phát triển một số yếu tố trƣờng học lại

có ảnh hƣởng lớn hơn đến kết quả học tập của một số môn học chẳng hạn

nhƣ khoa học. Tuy nhiên, tác động của các yếu tố liên quan đến trƣờng

học và phụ thuộc việc kiểm soát chính sách... nhìn chung sẽ không có ý

nghĩa (tác động) ở cấp trung học phổ thông.

1.2 Những nghiên cứu ở trong nƣớc

Trần Thị Tuyết Oanh (2009) khi nghiên cứu về quan điểm giáo dục học

cho rằng: Kết quả giáo dục là thành tố biểu hiện tập trung kết quả vận động và

phát triển của quá trình giáo dục nói chung và kết quả làm hình thành thói

quen hành vi, thái độ nói riêng ở học sinh theo mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu

giáo dục của nhà trƣờng. Nếu mục đích giáo dục là dự kiến mô hình giáo dục

– đào tạo mong muốn thì kết quả giáo dục là đích cần đạt đƣợc, là mục tiêu

19



thực tế của quá trình giáo dục. Giữa mục đích giáo dục (M) và kết quả giáo

dục (Kq) sẽ có các mối tƣơng quan nhƣ sau:

Kq → M; Kq ≈ M; Kq < M; Kq trái (lệch hoặc ngƣợc) với M.

Ở học tập cũng vậy, quá trình học tập là chuỗi hoạt động học tập có

định hƣớng theo mục đích học tập của cá nhân để đạt đƣợc kết quả mong

muốn. Quá trình học tập và kết quả học tập có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

Kết quả học tập còn là 1 nhân tố trong quá trình học tập. Kết quả học tập là

sản phẩm, thành quả của quá trình học tập và khẳng định quá trình học tập,

quá trình học tập cũng đƣợc tác động bởi yếu tố bản thân và yếu tố gia đình,

ngoài ra còn có sự tham gia của yếu tố môi trƣờng giáo dục, điều kiện địa lý,

môi trƣờng tiếp xúc cộng đồng,… Kết quả học tập biểu hiện khả năng của bản

thân và sự hỗ trợ của các yếu tố bên ngoài trong quá trình học tập.

Khi nghiên cứu tác động của một số yếu tố đến điểm tuyển sinh đại học

tác giả Đỗ Đình Thái (2011) khảo sát khoảng 1000 sinh viên ở các khối thi

khác nhau đã trúng tuyển vào Trƣờng ĐH Sài Gòn các năm 2009, 2010. Tác

giả phân tích các yếu tố chủ yếu liên quan đến cá nhân sinh viên và gia đình

sinh viên cũng nhƣ điểm TSĐH của sinh viên theo các khối thi vào ĐH Sài

Gòn từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các yếu tố nhƣ thành tích học tập ở bậc phổ

thông gồm học lực lớp 12 và ĐTB các môn học; Động cơ thi vào trƣờng đại

học Sài Gòn; Sự đầu tƣ cố gắng của cá nhân; Môi trƣờng gia đình; tác giả coi

các yếu tố trên là biến độc lập và coi yếu tố tổng điểm TSĐH là biến số phục

thuộc. Khi phân tích tác động của các yếu tố trên, tác giả đã đƣa ra kết luận:

- Thành tích học tập ở bậc phổ thông: Xếp loại học lực lớp 12 cao thì

tổng điểm TSĐH đạt kết quả cao. Nhƣ vậy, học lực lớp 12 và ĐTB các môn

học lớp 12 có tác động tích cực đến điểm TSĐH.

- Động cơ thi vào đại học Sài Gòn: Động cơ thi vào trƣờng đại học là

yếu tố để HS nỗ lực phấn đấu để đạt đƣợc. Các yếu tố tạo nên động cơ để sinh

20



viên thi vào ĐH Sài Gòn gồm các yếu tố: Trƣờng có ngành nghề yêu thích;

Tốt nghiệp dễ tìm việc làm; Trƣờng ĐH Sài Gòn là trƣờng công lập; Điểm

chuẩn các năm trƣớc vừa sức thi; Điều kiện học tập tốt; Dịch vụ hỗ trợ sinh

viên tốt; Cơ hội làm việc và ở lại thành phố Hồ Chí Minh.

Trong đó, yếu tố trƣờng ĐH Sài gòn là trƣờng công lập có động cơ

mạnh nhất tác động tích cực đến việc chọn trƣờng thi của học sinh, từ động cơ

này các học sinh mới nỗ lực, cố gắng để thi đậu vào trƣờng. Bên cạnh đó, yếu

tố điểm chuẩn vừa sức thi cũng tạo động cơ mạnh để học sinh chọn thi vào

trƣờng ĐH Sài Gòn. Các yếu tố còn lại chủ yếu hỗ trợ, góp phần tác động vào

quyết định chọn trƣờng thi của học sinh.

- Sự đầu tƣ cố gắng của bản thân: Đầu tƣ cho học tập là yếu tố quan

trọng tác động đến kết quả học tập, thi, kiểm tra.

- Môi trƣờng gia đình: Luận văn xem xét các yếu tố: Điều kiện học tập

ở nhà; Ngƣời thân trong gia đình học tại ĐH Sài Gòn; Cha mẹ quan tâm đến

việc con mình thi vào ĐH Sài Gòn; Thành phần gia đình; Đời sống gia đình;

Cha mẹ kiểm tra, đôn đốc việc học. Các yếu tố nêu trên đều có ít nhiều tác

động đến điểm TSĐH.

Nguyễn Hồng Quang (2006) nghiên cứu vấn đề: Trong sự biến đổi

nhanh chóng của môi trƣờng tự nhiên và xã hội, con ngƣời đang phát triển nhƣ

thế nào. Theo ông, hiện trạng của môi trƣờng văn hoá giáo dục trong phạm vi

trƣờng học cần đƣợc đánh giá cùng với sự tác động của các yếu tố môi trƣờng

hoàn cảnh đến ngƣời học đang diễn ra theo quy luật nào và sự kiểm soát của

giáo dục đến đâu. Môi trƣờng giáo dục rất đa dạng, có thể phân chia một cách

tƣơng đối thành môi trƣờng xã hội (gồm môi trƣờng gia đình, môi trƣờng nhà

trƣờng...) và môi trƣờng tự nhiên. Tác giả đã đề cập một số yếu tố tác động

đến SV nhƣ sau:

Các yếu tố tác động bên ngoài, gồm:

21



- Môi trƣờng (không gian vật chất và tâm lí, thời gian, ánh sáng,…).

- Ngƣời dạy (hình thức bên ngoài, đời sống nội tâm, phƣơng pháp sƣ

phạm, kĩ năng giao tiếp... ) ảnh hƣởng tới ngƣời học.

- Ngƣời học, đặc biệt là tập thể học sinh với không khí học tập thi đua

của lớp... ảnh hƣởng tới ngƣời dạy, nhà trƣờng.

- Gia đình, tính di truyền, tập tính của cha mẹ, những giá trị truyền

thống, sự quan tâm của cha mẹ.

Các yếu tố tác động bên trong, gồm:

- Tiềm năng trí tuệ.

- Những cảm xúc.

- Những giá trị của cá nhân.

- Vốn sống.

- Phong cách học và dạy.

- Tính cách.

Trong môi trƣờng giáo dục gia đình, các quan hệ gia đình nhƣ: cha mẹ, anh - em, ngƣời thân trong gia đình... là các yếu tố cơ bản tạo nên môi

trƣờng giáo dục gia đình. Môi trƣờng gia đình có ý nghĩa quan trọng trong sự

phát triển nhân cách con ngƣời, bầu không khí tâm lí trong gia đình là yếu tố

“môi trƣờng sạch” trong giáo dục gia đình. Tính tích cực của hoạt động học

tập ở trẻ em phụ thuộc vào thói quen đƣợc rèn luyện từ nhỏ nhƣ: Khả năng

kiên trì trong một thời gian nhất định, ý thức chấp hành yêu cầu của ngƣời lớn

về nhiệm vụ học tập, sự trung thực và thái độ ham học hỏi.

Qua khảo sát các nghiên cứu tác giả thấy rằng: Các nghiên cứu chủ yếu

nghiên cứu các yếu tố tác động đến quá trình học tập của học sinh trung học,

chủ yếu đề cập đến môi trƣờng bên trong và bên ngoài tác động đến học sinh,

các tác động đến tâm sinh lí, phong cách học. Một số nghiên cứu đề cập đến

khả năng học và chất lƣợng học ở bậc học cao hơn của học sinh sau khi tốt

22



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

×