1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

Cơ sở lí luận nghiên cứu của đề tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 107 trang )


trực tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng),

tức là Trƣờng Trung học phổ thông ngang với Phòng Giáo dục quận huyện.

Quy chế hoạt động do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Cấp học giáo dục phổ thông có mục tiêu là giúp học sinh phát triển toàn

diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển

năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con ngƣời

Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tƣ cách và trách nhiệm công dân; chuẩn

bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mục tiêu chung của cấp học này thì trình độ

trung học phổ thông có mục tiêu cụ thể là nhằm giúp học sinh củng cố và phát

triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có

những hiểu biết thông thƣờng về kỹ thuật và hƣớng nghiệp, có điều kiện phát

huy năng lực cá nhân để lựa chọn hƣớng phát triển, tiếp tục học đại học, cao

đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Trong chiến lƣợc phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của mỗi

quốc gia, câu hỏi đầu tiên, và đột phá chú trọng đầu tiên bao giờ cũng nói tới

giáo dục phổ thông, vì giáo dục phổ thông là nền tảng cơ bản của hệ thống

giáo dục quốc dân và chính nó sẽ là cơ sở đem đến chất lƣợng cho cả hệ thống

giáo dục.

Tùy theo đặc điểm và hoàn cảnh, mỗi nƣớc trên thế giới có những quan

điểm và mô hình giáo dục khác nhau, tuy nhiên về hệ thống giáo dục của từng

nƣớc, chúng ta thấy có những điểm tƣơng tự nhau là: giáo dục mầm non (hay

còn gọi là giáo dục tiền học đƣờng), giáo dục phổ thông, giáo dục dạy nghề và

đại học…Giáo dục mầm non là giáo dục giành cho trẻ từ lọt lòng đến 5 tuổi,

đây là cấp học mở đầu cho quá trình phát triển của mỗi con ngƣời với nhiệm

vụ chủ yếu mang tính dẫn dắt giúp trẻ có đƣợc những kiến thức ban đầu để có

thể làm quen, thích nghi dần với cuộc sống và phát triển tiếp theo. Giáo dục

24



phổ thông giành cho lứa tuổi từ 6 đến 18 tuổi, cấp học này cung cấp những

kiến thức phổ thông, cơ bản ban đầu giúp tuổi trẻ có thể tiếp tục học nghề

hoặc học lên và cũng có thể đi vào cuộc sống tự nuôi sống mình và cống hiến

cho xã hội. Giáo dục dậy nghề và giáo dục đại học là giáo dục chuyên sâu và

nâng cao, tiếp tục vũ trang cho ngƣời học những kiến thức và kỹ năng chuyên

biệt giúp ngƣời học trƣởng thành một cách toàn diện, có thể chủ động đi vào

cuộc sống theo nhiều hƣớng phát triển phong phú, đa dạng để cống hiến cho

xã hội… Nhƣ vậy có thể nói, các cấp học trong hệ thống giáo dục là một chỉnh

thể thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một dòng chảy liên

tục có chủ đích cho quá trình phát triển của mỗi con ngƣời. Trong hệ thống

này công bằng mà nói chúng ta có thể khẳng định, giáo dục phổ thông có một

vị trí hết sức quan trọng, nó là chiếc cầu nối cơ bản, nó là cấp học mang tính

nền tảng của cả hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia. Chất lƣợng của giáo dục

phổ thông do vậy trƣớc tiên ảnh hƣởng rất lớn tới chất lƣợng giáo dục dậy

nghề và đại học, sâu xa hơn, mở rộng hơn, chính nó là nguồn gốc góp phần

quan trọng quyết định chất lƣợng của nguồn lực lao động từng nƣớc. Bởi vậy

trong chiến lƣợc phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc

gia, câu hỏi đầu tiên, trọng tâm đột phá đầu tiên là chú trọng chăm lo cho cấp

học phổ thông.

Nhận thức rõ vị trí quan trọng này của giáo dục phổ thông, ngày từ khi

mới giành đƣợc chính quyền, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc ta đã hình

thành một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh và toàn diện. Hệ thống giáo dục do

Nhà nƣớc ta quản lý, bên cạnh giáo dục mầm non, giáo dục bổ túc văn hóa

cho ngƣời lớn tuổi không có điều kiện học hết phổ thông, giáo dục dậy nghề

và giáo dục đại học là giáo dục phổ thông. Giáo dục phổ thông nƣớc ta, đã qua

nhiều thời kỳ cải cách và tổ chức dậy học theo các mô hình chủ yếu nhƣ hệ

giáo dục 9 năm trong kháng chiến chống Pháp, hệ giáo dục 10 năm trong

25



kháng chiến chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hệ giáo

dục 12 năm từ khi nƣớc nhà thống nhất đến nay. Quán triệt các quan điểm cơ

bản của Đảng ta về phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục phổ

thông nói riêng, nhà nƣớc ta, nhân dân ta nói chung và ngành giáo dục nói

riêng đã chăm lo không ngừng cho giáo dục phổ thông. Giáo dục phổ thông đã

tạo nên những thành tựu hết sức quan trọng và to lớn, cung cấp cho xã hội

nhiều lớp thế hệ trẻ, thông minh, sáng tạo, trung thành, dũng cảm, giầu lòng

nhân ái, sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, vì dân tộc, hoàn thành xuất sắc các nhiệm

vụ đƣợc giao, góp phần chiến đấu và xây dựng tổ quốc phát triển nhƣ hôm

nay…

2.2 Lí luận về kỳ thi tuyển sinh đầu vào

Tuyển sinh là một quá trình tuyển chọn ngƣời học đáp ứng đƣợc những

điều kiện nhất định của cơ sở đào tạo và đƣợc cơ sở đào tạo lựa chọn, bao

gồm: công tác chuẩn bị, thi tuyển, xét tuyển, nhập học. Trong sự quan tâm của

luận văn, tác giả hƣớng đến 2 vấn đề chủ yếu là thi tuyển sinh THPT và điểm

thi tuyển sinh.

2.2.1 Thi tuyển sinh

Tuyển chọn thí sinh (ngƣời dự thi, dự tuyển) đạt tiêu chuẩn yêu cầu của

một đơn vị tổ chức tuyển chọn trong một kì thi. Thi tuyển sinh trung học phổ

thông hàng năm do Sở GD&ĐT địa phƣơng tổ chức theo quy chế và các văn

bản hƣớng dẫn của Bộ GD&ĐT, trong đó có một số nguyên tắc và phƣơng

thức tuyển sinh đƣợc quy định theo thông tƣ số: 02/2013/TT-BGDĐT ngày 30

tháng 01 năm 2013 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành

Quy chế tuyển sinh THCS, THPT nhƣ sau:

- Nguyên tắc tuyển sinh, tuổi học sinh

1. Hàng năm tổ chức một lần tuyển sinh vào trƣờng trung học cơ sở và

trƣờng trung học phổ thông.

26



2. Tuổi của học sinh trƣờng trung học cơ sở, trƣờng trung học phổ thông

thực hiện theo Điều lệ trƣờng trung học cơ sở, trƣờng trung học phổ thông và

trƣờng phổ thông có nhiều cấp học.

3. Bảo đảm chính xác, công bằng, khách quan.

- Phƣơng thức tuyển sinh

1. Tuyển sinh trung học cơ sở theo phƣơng thức xét tuyển.

2. Tuyển sinh trung học phổ thông theo ba phƣơng thức:

a) Xét tuyển;

b) Thi tuyển;

c) Kết hợp thi tuyển với xét tuyển.

Căn cứ tuyển sinh THPT là: Ngƣời học đã tốt nghiệp trung học cơ sở

hoặc tốt nghiệp bổ túc trung học cơ sở có trách nhiệm cung cấp hồ sơ về kết

quả rèn luyện, học tập của 4 năm học ở trung học cơ sở của cá nhân để làm

căn cứ tuyển sinh vào trung học phổ thông, nếu lƣu ban lớp nào thì lấy kết quả năm

học lại của lớp đó.

2.2.2 Điểm tuyển sinh THPT

Điểm tuyển sinh THPT là kết quả thí sinh đạt đƣợc trong kì thi tuyển

sinh. Điểm thi tuyển là tổng điểm ba bài thi đã tính theo hệ số và điểm cộng

thêm cho đối tƣợng ƣu tiên, khuyến khích. Thí sinh trúng tuyển phải không có bài

thi nào bị điểm 0. Thí sinh tham gia kỳ thi tuyển sinh THPT phải làm 3 bài thi viết

gồm môn Ngữ văn, Toán và môn thứ 3. Môn thứ 3 đƣợc chọn trong số những

môn học còn lại, phù hợp cho các đối tƣợng tuyển sinh theo căn cứ tuyển sinh.

Giám đốc Sở GD&ĐT chọn và công bố môn thi thứ 3 sớm nhất 15 (mƣời lăm)

ngày trƣớc ngày kết thúc năm học căn cứ biên chế năm học của Bộ GD&ĐT.

Để trúng tuyển vào trƣờng THPT trong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 học

sinh phải đạt đƣợc cơ số điểm nhất định, là mức điểm tối thiểu học sinh phải

đạt đƣợc nếu muốn trúng tuyển. Đây chính là điểm chuẩn trúng tuyển hay mốc

27



trúng tuyển. Bàn về điểm chuẩn này Nguyễn Kim Dung, Phạm Xuân Thanh

cho rằng: Ngày nay, benchmark và benchmarking đƣợc dùng nhiều trong giáo

dục. Trong từ điển Anh - Việt benchmark đƣợc giải nghĩa: 1. dấu làm chuẩn;

2. điểm chuẩn. Trong khảo sát trắc địa benchmark là một điểm mốc mà dựa

vào đó ngƣời ta có thể đo đạc vị trí của các vật thể khác. Theo một nghĩa khác

thì benchmark là một điểm tham khảo hay tiêu chí dựa vào đó ngƣời ta đo

lƣờng một đối tƣợng khác. Benchmark còn dùng để chỉ mức độ suất xắc hoặc

điểm ƣu tú trong một sản phẩm hoặc dịch vụ (Jackson, 2000)

Tuyển sinh đầu vào là công tác quan trọng đối với tất cả các bậc học

trong hệ thống giáo dục của nƣớc ta. Thông qua công tác này giúp các cơ sở

giáo dục lựa chọn, tìm ra đƣợc những học sinh, sinh viên tốt nhất đáp ứng

đƣợc theo yêu cầu của đơn vị mình. Nếu nhƣ bậc Mầm non, Tiểu học, THCS

đều đã đƣợc phổ cập trên phạm vi toàn quốc và hầu hết các trƣờng chỉ nhận hồ

sơ xét tuyển vào trƣờng mà không thông qua thi tuyển sinh thì bậc THPT đến

đại học hoặc sau đại học thí sinh đều phải trải qua ít nhất một kì thi xác định

năng lực cá nhân để bƣớc vào trƣờng. Tuyển sinh THPT, đại học, sau đại học

đều có Thông tƣ ban hành quy chế riêng, quy định hƣớng dẫn cách thức tổ

chức kỳ thi tuyển sinh.

Kỳ thi tuyển sinh THPT với tính chất phân luồng học sinh sau THCS là

việc lựa chọn, sắp xếp mang tính xã hội để học sinh sau khi tốt nghiệp tiếp tục

đƣợc giáo dục và đào tạo theo những khuynh hƣớng và ngành học khác nhau

phù hợp với nguyện vọng, năng lực học sinh và nhu cầu xã hội hoặc tham gia

lao động sản xuất. Học sinh sau tốt nghiệp THCS đƣợc phân chia theo bốn

luồng khác nhau đó là: Giáo dục phổ thông (luồng chính); giáo dục thƣờng

xuyên; giáo dục nghề nghiệp và tham gia lao động sản xuất (các luồng phụ).

Phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS là chủ trƣơng lớn của Đảng

và Nhà nƣớc, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị để bảo đảm yêu cầu nguồn

28



nhân lực trong thời gian tới. Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ

Chính trị cũng đã đặt chỉ tiêu đến năm 2020, có ít nhất 30% số học sinh sau

khi tốt nghiệp THCS đi học nghề.

Tại hội thảo “Các trình độ dạy nghề, liên kết dạy nghề và cơ chế, chính

sách thực hiện xã hội hóa dạy nghề” do Bộ Lao động – TB&XH tổ chức vào

cuối tháng 4/2013, Bộ đặt ra mục tiêu giảm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS

tiếp tục vào học THPT xuống còn 50- 60%; số còn lại sẽ đƣợc huớng vào học

nghề; đồng thời, giảm tối đa số học sinh tốt nghiệp THCS tham gia thị trƣờng

lao động mà không qua đào tạo nghề; giảm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT

vào Cao đẳng, Đại học xuống còn khoảng 50% so với số học sinh tốt nghiệp

THPT hàng năm; tăng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT vào giáo dục nghề

nghiệp.

Trong phiên thảo luận của hội nghị cấp cao về kinh doanh tại Việt Nam

diễn ra ngày 3/5/2013 tại Hà Nội, Thứ trƣởng Bộ GD&ĐT Trần Quang Quý

cho biết: “Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, nhưng chất lượng lao động

còn hạn chế do thiếu nguồn nhân lực có tay nghề, vì vậy đào tạo nghề sẽ là

một trong những ưu tiên số 1của ngành giáo dục trong những năm tới nhằm

giải quyết tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”.

Do đó công tác tuyển sinh THPT có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về

mặt chính trị và chất lƣợng giáo dục. Nếu thực hiện không tốt công tác này

dẫn đến việc phân luồng học sinh sau THCS là chúng ta vô tình xô đẩy một bộ

phận đông đảo học sinh sau THCS yếu thế về học lực và hoàn cảnh, điều kiện

gia đình không đƣợc tiếp tục học mà phải nghỉ học, phải tham gia lao động

sản xuất mà trong tay không có nghề qua đào tạo. Phân luồng học sinh sau

THCS cũng không phải là ép buộc những học sinh sau THCS yếu thế về học

lực và hoàn cảnh kinh tế về phía những phƣơng thức học tập bất lợi mà là tạo

ra phƣơng thức học phù hợp và cơ hội học tập có hiệu quả đáp ứng đƣợc nhu

29



cầu nguyện vọng đƣợc học, nguyện vọng có nghề nghiệp của họ. Thực hiện

phân luồng học sinh sau THCS lành mạnh, đúng hƣớng thông thoáng thực

chất là nâng cao hiệu quả giáo dục và hiệu quả xã hội (mặt bằng chất lƣơng

giáo dục phổ thông đƣợc nâng lên, cơ cấu nhân lực đƣợc cải thiện, tránh đƣợc

lãng phí xã hội trong giáo dục, …). Nhƣ vậy, phân luồng học sinh sau THCS

chẳng những không làm triệt tiêu các cơ hội học lên của học sinh mà còn đa

dạng hoá phƣơng thức học, luồng học cho ngƣời học, tạo điều kiện thích hợp

cho nhiều ngƣời học và cho cả việc học lên của học sinh. Nếu học sinh có nhu

cầu nguyện vọng và năng lực thì việc học lên có nhiều cơ hội - nhƣ học liên

thông, liên kết, từ xa, vừa học vừa làm…

Qua những lí luận trên ta thấy đƣợc tuyển sinh THPT nhằm mục đích

phát huy năng lực của ngƣời học tốt nhất theo khả năng, hoàn cảnh, điều kiện

mà họ có đƣợc, là biện pháp thực hiện hợp lý hoá xu hƣớng phân hoá của học

sinh sau THCS trên cơ sở năng lực học tập, nguyện vọng của học sinh và nhu

cầu xã hội. Sau khi tốt nghiệp THPT các em có những hiểu biết và sẵn sàng đi

tiếp con đƣờng đã chọn bằng nhiều cách, trong đó có thể học lên tiếp thông

qua kỳ thi tuyển sinh đại học.

2.3 Lí luận về kỳ thi đầu ra (tốt nghiệp THPT)

Kỳ thi đầu ra nói chung và thi tốt nghiệp THPT nói riêng chính là khâu

cuối cùng trong quá trình học tập rèn luyện của học sinh. Tại Việt Nam, tốt

nghiệp THPT là kỳ thi quốc gia do Bộ GD&ĐT chỉ đạo và tổ chức. Mục đích

của kỳ thi này nhƣ Điều 2 của Thông tƣ số 10/2012/TT-BGDĐT, ngày 06

tháng 3 năm 2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế thi tốt

nghiệp THPT nêu rõ:

a) Đánh giá, xác nhận trình độ của ngƣời học theo mục tiêu giáo dục sau

khi học hết chƣơng trình trung học phổ thông;



30



b) Làm cơ sở để chuẩn bị cho ngƣời học tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc

sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;

c) Làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả dạy và học của trƣờng phổ thông;

đánh giá công tác chỉ đạo của cơ quan quản lý giáo dục.

Có thể thấy đƣợc trên đây là những cơ sở pháp lý khi nghiên cứu về kỳ

thi tốt nghiệp THPT. Sau đây tác giả đƣa ra cơ sở lí luận về vấn đề này:

Kết quả của khâu này dùng để đánh giá quá trình học tập của học sinh,

chỉ ra chất lƣợng của hoạt động dạy, hoạt động học tại một cơ cở giáo dục và

của cả hệ thống giáo dục quản lí quá trình đó. Đây là một trong nhiều căn cứ

nhằm đƣa ra các nhận xét, dự báo từ đó có những kinh nghiệm, chính sách phù

hợp thực tế với mục đích cuối cùng là đƣa chất lƣợng dạy và học đạt kết quả

tốt hơn.

Trƣớc hết kỳ thi tốt nghiệp THPT hay có thể gọi là kỳ thi đầu ra của học

sinh THPT. Trong khuôn khổ của đề tài này tôi muốn làm rõ đầu ra của học

sinh nên hiểu nhƣ thế nào? Quan niệm đó là chuẩn đầu ra, kết quả đầu ra hay

kết quả học tập hoặc một cách hiểu nào khác?

Theo Vũ Thị Phƣơng Anh, để hiểu đƣợc bối cảnh dẫn đến hai cách hiểu

khác nhau của cụm từ “learning outcomes” tại Việt Nam, cần bắt đầu từ khái

niệm “outcomes-based education” (hoặc “outcome-based education”, tức

outcome viết ở dạng số nhiều hoặc số ít). Khái niệm này thƣờng đƣợc nhắc

đến dƣới tên viết tắt là OBE, tạm dịch: “giáo dục dựa trên kết quả/đầu ra”.

Một cách vắn tắt, OBE là một quan điểm khá mới mẻ trong giáo dục,

với hai đặc điểm cốt lõi: (1) Sự quan tâm đến đầu cuối hay “kết quả” cuối

cùng (outcome) của quá trình giáo dục, thay vì quan tâm đến “đầu vào”

(input) hoặc “quá trình” (process) nhƣ trong những quan điểm truyền thống;

(2) Sự nhấn mạnh vai trò của việc đo lƣờng, đánh giá chính xác và có giá trị

để đƣa ra những phán đoán về mức độ đạt kết quả.

31



Mặc dù cùng dựa trên một quan điểm lấy “đầu ra” làm trọng và cùng sử

dụng tên gọi OBE, nhƣng khi triển khai thành những phong trào cụ thể thì

OBE lại có nhiều phiên bản khác nhau với những cách hiểu cụ thể về

“outcomes” khác nhau. Chính vì vậy theo các tác giả Biggs và Tang, OBE là

một khái niệm chƣa tƣờng minh, và cần phải làm rõ xem chúng ta đang sử

dụng OBE với ý nghĩa nhƣ thế nào.

Ở đây, có thể hiểu OBE chính là một bƣớc phát triển tất yếu của quan

điểm và phƣơng pháp sƣ phạm lấy ngƣời học làm trọng tâm, nhấn mạnh

những gì ngƣời học thực sự đạt đƣợc sau quá trình học, chứ không chỉ quan

tâm đến những gì do các giáo viên thực hiện trong lớp học mà không cần biết

những mục tiêu đã đề ra có đạt đƣợc hay không.

Tuy nhiên, việc xác định các “kết quả” cần đạt sao cho có thể đo đạc

đƣợc chúng – thông qua các biểu hiện (hành vi) quan sát đƣợc (measurable

behaviours) – là trách nhiệm của từng giáo viên, chứ không phải và cũng

không thể là của ai khác. Việc đào tạo giáo viên theo OBE, vì vậy, rất chú

trọng việc cung cấp cho họ những kỹ năng viết learning outcome (LO) sao cho

có thể đánh giá đƣợc một cách chính xác những gì ngƣời học đã đạt đƣợc sau

quá trình học.

Đến đây, ta có thể thấy rõ yêu cầu công bố CĐR của Bộ Giáo dục và

Đào tạo chính là cách hiểu “outcome” theo phiên bản thứ hai (quan điểm nhìn

từ bên ngoài nhà trƣờng, liên quan chủ yếu đến công việc của nhà quản lý),

chứ không phải là cách hiểu theo phiên bản thứ hai (quan điểm nhìn từ bên

trong, liên quan chủ yếu đến các giáo viên trực tiếp giảng dạy). Tất nhiên giữa

các “đầu ra” của một chƣơng trình đào tạo và các “kết quả” của từng môn học

cũng phải có sự liên kết chặt chẽ, nhƣng đây là một nội dung sẽ đƣợc thảo

luận ở nơi khác.



32



Tuy vậy, hiện nay ở Việt Nam không có sự tách bạch giữa hai quan

điểm nói trên, và từ “outcome” (hoặc “learning outcome”) đang đƣợc hiểu

một cách mơ hồ, nhập nhằng và lẫn lộn giữa hai cách hiểu (phiên bản 2 và 3).

Có thể nói, một trong những nguyên nhân của việc hiểu sai này là do sự trùng

lặp về ngôn ngữ, vì cả hai cách hiểu khác nhau đều dùng từ outcome (hoặc

learning outcome – LO).

Vì vậy, để tránh sự nhầm lẫn, cần thiết phải có hai cách dịch khác nhau.

Chúng tôi đề nghị sử dụng từ “kết quả (học tập)” - (learning) outcome - để

chỉ cách hiểu của phiên bản 3 (quan điểm nhìn từ bên trong, dƣới góc nhìn

của giáo viên), còn CĐR (theo cách dùng của Bộ), hoặc đúng hơn là “đầu

ra” hay “kết quả đầu ra” sẽ đƣợc dùng để chỉ cách hiểu theo phiên bản 2

(quan điểm nhìn từ bên ngoài, dƣới góc nhìn của nhà quản lý).

Đến nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về chuẩn đầu ra:

Theo Jenkins và Unwin: "Chuẩn đầu ra là sự khẳng định của những

điều kỳ vọng, mong muốn một người tốt nghiệp có khả năng LÀM được nhờ

kết quả của quá trình đào tạo".

Chuẩn đầu ra là lời khẳng định của những điều mà chúng ta muốn sinh

viên của chúng ta có khả năng làm, biết, hoặc hiểu nhờ hoàn thành một khóa

đào tạo. (Univ. New South Wales, Australia)

Theo GS. Nguyễn Thiện Nhân "Chuẩn đầu ra là sự khẳng định sinh

viên tốt nghiệp làm được những gì và kiến thức, kỹ năng, thái độ hành vi cần

đạt được của sinh viên";...

Có thể hiểu rằng, chuẩn đầu ra có thể đƣợc xem nhƣ lời cam kết của

nhà trƣờng đối với xã hội về những kiến thức, kỹ năng, thái độ hành vi, qua đó

khẳng định những năng lực lao động cụ thể mà sinh viên sẽ thực hiện đƣợc

sau khi đƣợc đào tạo tại nhà trƣờng



33



Kết quả học tập cũng có thể đƣợc hiểu là năng lực đầu ra (NLĐR) của

ngƣời học. NLĐR là một khái niệm rộng, đầu ra bao gồm nhiều nhiều năng

lực cụ thể mà một ngƣời học có thể đạt đƣợc có thể là năng lực nhận thức

hoặc năng lực phi nhận thức.

Một số quan niệm về kết quả học tập. “Kết quả học tập là bằng chứng

sự thành công của học sinh/sinh viên về kiến thức, kĩ năng, năng lực, thái độ

đã đƣợc đặt ra trong mục tiêu giáo dục” (James Madison University, 2003;

James O. Nichols, 2002). Một quan niệm khác là “Kết quả học tập là kết quả

của một môn học, một chuyên ngành hay của cả một khóa đào tạo”, hay “Kết

quả học tập bao gồm các kiến thức, kĩ năng, thái độ mà ngƣời học có đƣợc”.

Các kiến thức, kĩ năng này đƣợc tích lũy từ các môn học khác nhau trong suốt

quá trình học đƣợc quy định cụ thể trong chƣơng trình đào tạo. Trƣờng

Cabrillo quan niệm về kết quả học tập của sinh viên “là kiến thức, kĩ năng và

thái độ sinh viên đạt đƣợc và phát triển trong suốt khóa học”. Những quan

niệm này tuy cách nói khác nhau nhƣng tất cả đều cho rằng kết quả học tập

gồm các kiến thức, kĩ năng và thái độ mà ngƣời học có đƣợc trong quá trình

học tập và rèn luyện tại trƣờng.

NLĐR là những thay đổi hoặc những lợi ích về mặt cá nhân do kết quả

của việc học. Những thay đổi hoặc lợi ích đó có thể đo lƣờng đƣợc trên cơ sở

những khả năng hoặc những thành tích cụ thể. Otter (1992, trang i) định nghĩa

NLĐR là “những gì ngƣời học biết đƣợc hoặc có thể làm do kết quả của việc

học”.

NLĐR mô tả những gì sinh viên thực sự đạt đƣợc, tƣơng phản với

những gì nhà trƣờng muốn dạy cho sinh viên (Allan, 1996). Theo Eisner

(1997, tr. 203), NLĐR “là những gì sinh viên thực sự đạt đƣợc khi tốt nghiệp,

dù điều đó có nằm trong ý định của nhà trƣờng hay không, sau khi tham gia

học tập”. Nhiều tác giả định nghĩa NLĐR là những gì có thể quan sát, chứng

34



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

×