1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

1 Chủ nghĩa khu vực và các lý thuyết về hội nhập khu vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 93 trang )


Trong các thập niên 1970 và 1980, một loạt tác phẩm nhƣ “Quyền lực

và sự tùy thuộc lẫn nhau: Chính trị quốc tế trong quá trình chuyển đổi”

(Keohane và Nye, 1977) và “Tiếp sau bá quyền: hợp tác và bất đồng trong

nền kinh tế chính trị thế giới” (Keohane, 1984) đã cho thấy các chủ thể phi

nhà nƣớc nhƣ các tổ chức phi chính phủ, phong trào xã hội, các công ty

v.v…đang trở thành những tác nhân chủ yếu của quá trình khu vực hóa, thúc

đẩy các mối quan hệ xuyên quốc gia và tùy thuộc lẫn nhau, hình thành cái mà

Keohane và Nye (1977) gọi rằng “sự tùy thuộc lẫn nhau phức tạp” (complex

interdependence). Những phát hiện này đã tạo cơ sở cho chủ nghĩa khu vực

mới xuất hiện trong thập kỷ 1980.

Chủ nghĩa khu vực mới coi khu vực hóa là một quá trình đến từ phía

dƣới, thúc đẩy bởi các chủ thể phi nhà nƣớc, thay vì bị nhà nƣớc áp đặt từ

phía trên. Nó khắc phục hạn chế của chủ nghĩa khu vực truyền thống vốn chỉ

coi trọng hội nhập kinh tế, cho rằng thƣơng mại và kinh tế không thể tách rời

khỏi phần còn lại của xã hội, và phát triển kinh tế cần đi cùng với phát triển

xã hội để thành công.

Bảng 1.1 : So sánh chủ nghĩa khu vực mới và chủ nghĩa khu vực truyền thống



Chủ nghĩa



Chủ nghĩa



khu vực mới



khu vực truyền thống



Chủ thể



Quản trị



Chính phủ



Hệ thống vận hành bởi



Quá trình



Cấu trúc



Hình thức tổ chức



Mở



Đóng



Quan hệ giữa các thành

viên



Phối hợp



Điều phối



Chuẩn mực



Tín nhiệm lẫn nhau

(trust)



Trách nhiệm giải trình

(accountability)



Mục tiêu



Nâng cao khả năng

(empowerment)



Quyền lực (power)



Chủ nghĩa khu vực mới còn thể hiện qua sự ra đời của hàng loạt thoả

thuận tự do hoá thƣơng mại song phƣơng và khu vực trong vòng 10 năm trở

lại đây khi các vòng đàm phán của WTO về tự do hóa thƣơng mại đa phƣơng

tại Seattle, Cancun và Đôha thất bại. Tính đến tháng 12 năm 2008, đã có

khoảng 421 hiệp định tự do thƣơng mại khu vực (RTA) đƣợc thông báo cho

WTO. Trong số đó, 230 RTA đã có hiệu lực và khoảng 400 RTA sẽ đƣợc thi

hành vào năm 2010. 90 phần trăm số RTA nói trên là các hiệp định tự do

thƣơng mại (FTA), khoảng 10 phần trăm là các liên minh thuế quan khu vực

(WTO, 2009). Hầu hết các nƣớc thành viên WTO hiện nay đều đã tham gia ít

nhất một FTA, thậm chí có những nƣớc đã tham gia trên 20 FTA (WTO,

2003). Ngay cả Mỹ vốn trƣớc đây chỉ ủng hộ tiến trình tự do hoá thƣơng mại

đa phƣơng cũng tham gia vào các thoả thuận thƣơng mại song phƣơng. Sự

bùng nổ của các thỏa thuận tự do hóa thƣơng mại khu vực dẫn đến hiện tƣợng

mà Jagdish Bhagwati (1995, 2003) gọi là ”Bát mỳ ống” (spaghetti bowl), để

chỉ việc các bán sản phẩm và linh kiện bị di chuyển lòng vòng một cách kém

hiệu quả giữa các điểm sản xuất trong một mạng lƣới FTA đan xen và chồng

chéo.

Mặc dù chủ nghĩa khu vực mới là sản phẩm của quá trình toàn cầu hóa

song đến nay vẫn chƣa có sự thống nhất nào về vai trò của khu vực hóa trong

quá trình toàn cầu hóa: liệu nó có thể là “bƣớc tiến quan trọng” (stepping

stone) tới chủ nghĩa toàn cầu, hay nó là “khối trở ngại” (stumbling block) đối

với quá trình hội nhập ở quy mô rộng lớn hơn? Tuy nhiên, ngƣời ta cho rằng

chủ nghĩa khu vực xuất hiện là “hợp lý” trong bối cảnh hiện tại khi mà các

giải pháp ở tầm quốc gia đã trở nên lỗi thời còn các giải pháp ở quy mô toàn

cầu chỉ là mới là sơ khai và quản trị khu vực là một hình thức quản trị quan

trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa (Hurrell, 1995).

Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa khu vực mới là sự định nghĩa lại

một loạt khái niệm liên quan đến quá trình liên kết khu vực nhƣ chủ nghĩa

khu vực (regionalism) và khu vực hóa (regionalization). Khu vực hoá là quá

trình gia tăng tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế một cách tự nhiên thông qua tăng

cƣờng trao đổi thƣơng mại, đầu tƣ, công nghệ và di dân trong khu vực mà



không có một cơ chế hợp tác chính thức nào. Khu vực hoá là sự hội nhập do

thị trƣờng thúc đẩy (market-driven) vì nó diễn ra khi các kinh tế tự nguyện

mở cửa và thực thi các cam kết tự do hoá đa phƣơng. Đây là bƣớc mở đầu cho

sự hình thành ý thức về khu vực, tiếp đó là sự hợp tác chủ động giữa các nƣớc

để tạo ra hội nhập khu vực. Chủ nghĩa khu vực là sự hợp tác và hội nhập

chính thức (formal) nhƣ việc hai chính phủ thoả thuận thúc đẩy phát triển

kinh tế hai nƣớc thông qua tự do hoá thƣơng mại và đầu tƣ (Hurrell, 1995:

334). Chủ nghĩa khu vực mới không chỉ là một khái niệm địa lý mà nó còn

thể hiện một quá trình năng động, bao gồm từ sự tập trung của các mối quan

hệ kinh tế cho đến các mối quan hệ về chính trị và văn hóa-xã hội.

Có thể nói, chủ nghĩa khu vực mới là sự lan truyền của chủ nghĩa khu

vực từ châu Âu ra toàn thế giới, thoát ra khỏi những khuôn khổ của các liên

minh chính trị-an ninh trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Một mặt, nó thể hiện

qua sự thành lập của Khu vực tự do thƣơng mại Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực

tự do thƣơng mại Nam Mỹ (MERCOSUR), Khu vực tự do thƣơng mại vùng

Caribê (CARICOM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dƣơng, các

ý tƣởng xây dựng Khu vực tự do thƣơng mại toàn châu Mỹ (FTAA), và Cộng

đồng kinh tế Đông Á…Mặt khác, nó kéo theo sự cải tổ của các liên kết khu

vực đã đƣợc hình thành nhƣ liên kết khu vực ở châu Âu để trở thành Liên

minh châu Âu (EU), của Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU) để trở thành

Liên minh châu Phi (AU). Đối với Đông Nam Á, chủ nghĩa khu vực mới có

thể đƣợc nhìn nhận thông qua việc chuyển hƣớng hợp tác của ASEAN từ

chính trị sang kinh tế và tiến tới thành lập một cộng đồng.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang tạo ra những hố sâu phân cách giữa

“tính hiện đại” phổ quát và “bản sắc” truyền thống, giữa “phát triển” và “kém

phát triển”, có thể dự đoán rằng sẽ có hai khuynh hƣớng chi phối sự phát triển

và đặc điểm của chủ nghĩa khu vực trong thế kỷ 21. Khuynh hƣớng thứ nhất,

phù hợp với luận điểm của chủ nghĩa kiến tạo xã hội, cho thấy rằng chủ nghĩa

khu vực sẽ ngày càng hƣớng đến một “tính chất khu vực” (regionness) nhiều



hơn. Nói một cách khác, xét dƣới góc độ chính trị-xã hội, chủ nghĩa khu vực

sẽ ngày càng nhấn mạnh vai trò của văn hóa, chuẩn mực (norms) và bản sắc

(identity) trong quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa khu vực trong thế kỷ 21 nhƣ việc

hình thành Cộng đồng ASEAN sẽ không hẳn do nhu cầu hợp tác kinh tế khu

vực thúc đẩy mà sẽ do yêu cầu cần một bản sắc khu vực thúc đẩy nhiều hơn.

Các lý thuyết về hội nhập khu vực

Hội nhập quốc tế là hiện tƣợng xuất hiện trên cơ sở phát triển của quan

hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế bắt đầu trở thành hiện tƣợng quan trọng trong

quan hệ quốc tế từ nửa cuối thế kỷ XIX. Cho đến trƣớc Chiến tranh Thế giới

II, việc nghiên cứu hiện tƣợng hội nhập chỉ đƣợc tiến hành lẻ tẻ. Sau năm

1945, những thất bại của hội nhập trƣớc đó và yêu cầu tăng cƣờng hội nhập

trong thời hậu chiến đã khiến việc nghiên cứu hiện tƣợng này phát triển mạnh

mẽ. Trong số các xu hƣớng lý luận về hội nhập quốc tế, nổi bật hơn cả Chủ

nghĩa Chức năng Mới, Chủ nghĩa Liên bang, Chủ nghĩa Xuyên quốc gia, Chủ

nghĩa liên chính phủ và chủ nghĩa liên chính phủ tự do.

Chủ nghĩa Chức năng Mới (Neo-functionalism)

Chủ nghĩa Chức năng Mới đƣợc bắt đầu xuất hiện vào cuối những năm

1950 của thế kỷ XX. Chủ nghĩa Chức năng Mới vẫn dựa trên nền tảng lý luận

cơ bản và cách tiếp cận tới hoà bình của Chủ nghĩa Chức năng cổ điển là quan

niệm về con đƣờng hợp tác kinh tế-xã hội là nơi quốc gia có nhiều lợi ích

chung. Hợp tác chức năng kinh tế-xã hội có tác động tới các lĩnh vực khác.

Cách thức hội nhập vẫn dựa trên việc xây dựng các tổ chức chuyên môn. Các

tổ chức này dần dần sẽ vƣợt lên trên quốc gia để có thể thực thi hiệu quả sự

hợp tác liên quốc gia. Trong quá trình này, các giá trị và lòng trung thành với

quốc gia dân tộc sẽ dần bị xói mòn và chuyển sang các thể chế hợp tác chung.

Một sự vận động nhƣ vậy sẽ thúc đẩy tiến tới hoà bình và hội nhập chính trị.

Điểm khác biệt quan trọng đầu tiên giữa Chủ nghĩa Chức năng Mới với

Chủ nghĩa Chức năng cổ điển là Chủ nghĩa Chức năng Mới cho rằng hội nhập

theo con đƣờng hợp tác chức năng không mang tính tất nhiên mà chỉ là một



khả năng và quá trình này phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Để hội nhập có thể

trở thành hiện thực, các quốc gia cần phải có những điều kiện nhất định nhƣ

xã hội công nghiệp, dân chủ, đa nguyên chính trị, sự thống nhất các giá trị tƣ

tƣởng chủ yếu... Có thể những điều kiện hội nhập của Chủ nghĩa Chức năng

Mới còn phải tranh luận nhƣng tính điều kiện của hội nhập rõ ràng là cần

thiết.

Nếu con đƣờng hội nhập của Chủ nghĩa Chức năng cổ điển dựa trên sự

hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, kỹ thuật và dần dần

tiến tới củng cố nhận thức về hội nhập chính trị thì con đƣờng của Chủ nghĩa

Chức năng mới đƣợc quan niệm bắt đầu bằng các dự án kinh tế lớn. Những

ngƣời theo Chủ nghĩa Chức năng Mới cho rằng điều này dễ đạt đƣợc hơn nếu

các dự án này khái quát đƣợc lợi ích quốc gia trong những lĩnh vực cụ thể mà

không động chạm đến chủ quyền quốc gia. Khi đó, sự hợp tác sẽ không bị tản

mác trong nhiều tổ chức chức năng chuyên môn mà đƣợc tập trung vào các cơ

quan trung ƣơng cũng nhƣ trong giới tinh hoa kinh tế. Trong quá trình này,

chủ quyền quốc gia cũng sẽ đƣợc chuyển dần sang cho những cơ quan mới có

vai trò trung tâm hợp tác. Nhƣ vậy, khác với Chủ nghĩa Chức năng cổ điển,

Chủ nghĩa Chức năng Mới có sự quan tâm nhiều hơn tới xây dựng thể chế và

có xu hƣớng tiến tới thể chế trên quốc gia rõ ràng hơn.

Vai trò của cơ quan trung ƣơng và sự liên hợp lợi ích của giới tinh hoa

kinh tế sẽ giúp hình thành và phát triển quan niệm hội nhập đầu tiên trong

giới lãnh đạo và giới tinh hoa. Cùng với sự tăng cƣờng hội nhập, quan niệm

này sẽ đƣợc phổ biến từ trên xuống đến nhân dân và dần đƣợc củng cố. Con

đường nhận thức hội nhập của Chủ nghĩa Chức năng Mới là quá trình xây

dựng nhận thức từ trên xuống.

Chủ nghĩa Chức năng Mới cũng nhấn mạnh hơn tới khía cạnh chính trị

của hội nhập. Chủ nghĩa Chức năng Mới cho rằng không thể tách các vấn đề

kinh tế-xã hội ra khỏi chính trị cũng nhƣ không thể đặt phúc lợi ra ngoài

quyền lực đƣợc. Bản thân quyết định hội nhập ngay từ đầu đã mang trong



mình một áp lực chính trị lớn. Vì thế, những ngƣời theo Chủ nghĩa Chức năng

Mới chủ trƣơng đẩy mạnh hợp tác để giải quyết các vấn đề chính trị chứ

không né tránh chúng. Khác biệt này là cố gắng nhằm khắc phục nhƣợc điểm

của Chủ nghĩa Chức năng cổ điển.

Điểm khác biệt tiếp theo là về quy mô hội nhập. Chủ nghĩa Chức năng

Mới thiên về hội nhập khu vực nhiều hơn là toàn cầu. Ra đời trên sự thất bại

của Hội Quốc Liên, Chủ nghĩa Chức năng cổ điển mƣu tìm một cách tiếp cận

toàn cầu khác thay cho mô hình tổ chức thế giới này. Trong khi đó, Chủ nghĩa

Chức năng Mới ra đời trong thực tiễn và kinh nghiệm của hội nhập Tây Âu

nên mục tiêu, lý luận và cách thức hội nhập của nó hầu hết xoay quanh giới

hạn không gian khu vực.

Điểm khác biệt cuối cùng là Chủ nghĩa Chức năng Mới mang dáng dấp

một lý thuyết hội nhập nhiều hơn là cách tiếp cận hoà bình của Chủ nghĩa

Chức năng cổ điển. Tuy là một phƣơng án của Chủ nghĩa Chức năng cổ điển,

Chủ nghĩa Chức năng Mới đã có sự tập trung nhiều hơn vào vấn đề hội nhập,

có sự phát triển hơn về lý luận hội nhập, có mục tiêu hội nhập rõ ràng hơn,

các cách thức hội nhập đề ra cũng cụ thể hơn.

Hạn chế lớn nhất của của Chủ nghĩa Chức năng Mới chính là căn

nguyên thực tiễn của nó. Thứ nhất, Chủ nghĩa Chức năng Mới dựa hoàn toàn

trên điều kiện thực tế ở Tây Âu trong khi hầu hết các khu vực khác trên thế

giới lại không hội đủ những cơ sở và điều kiện nhƣ vậy. Sự khác nhau là rất

lớn từ điều kiện thành viên tới lịch sử quan hệ, từ hình thái chế độ tới hệ

thống giá trị, từ chủ nghĩa quốc gia tới quan niệm về chủ quyền,… Ngay nhƣ

Bắc Mỹ là nơi có nhiều sự tƣơng đồng với Tây Âu hơn cả nhƣng cho đến nay

vẫn chƣa lựa chọn con đƣờng hội nhập nhƣ của Tây Âu. Thứ hai, bản thân

việc áp dụng Chủ nghĩa Chức năng Mới ở Châu Âu cũng tỏ ra không dễ dàng

và bộc lộ nhiều vấn đề trên con đƣờng hội nhập nhƣ con đƣờng nhận thức từ

trên xuống chƣa tỏ ra hiệu quả, những tranh cãi xung quanh bản hiến pháp

Châu Âu, sự bất đồng trong chính sách tài chính và nông nghiệp, …Thứ ba,



trong sự kết hợp giữa kinh tế và chính trị, Chủ nghĩa Chức năng Mới cũng

chƣa có sự chú ý đầy đủ đến tính đa dạng chính trị trong lòng mỗi quốc gia,

giữa các thành viên tham gia hội nhập và giữa thể chế chung với thế giới bên

ngoài. Kết quả là EU ngày nay vẫn thƣờng xuyên phải đối phó với bài toán

này.

Chủ nghĩa Liên bang (Federalism)

Lập luận quan trọng của những ngƣời theo Chủ nghĩa Liên bang là cho

rằng liên bang tồn tại cao hơn quốc gia. Khi hội nhập vào liên bang, quốc gia

không còn nữa nhƣng con ngƣời sẽ dễ tồn tại hơn, các di sản quốc gia cũng sẽ

an toàn hơn bởi không còn chiến tranh nữa. Lập luận này có cơ sở lý luận gần

giống với quan điểm của nhà thần học Fransisco de Victoria (1480-1546) cho

rằng sự phân chia thành quốc gia chỉ là thứ nguyên và nhân tạo, bản chất con

ngƣời là thống nhất và cần đặt trên quốc gia. Mục tiêu tối hậu của Chủ nghĩa

Liên bang hoàn toàn trùng với ý kiến của Albert Einstein: “Không có sự cứu

tế nào cho nền văn minh hay cho cả loài ngƣời hơn là việc tạo ra một chính

phủ thế giới”1.Mục tiêu này khác hẳn với Chủ nghĩa Chức năng Mới và càng

khác với Chủ nghĩa Chức năng cổ điển.

Những ngƣời theo Chủ nghĩa Liên bang cho rằng nguyên nhân của

xung đột và chiến tranh là do hệ thống đa quốc gia và môi trƣờng quốc tế vô

chính phủ. Các quốc gia vốn có lợi ích quá khác nhau nên dễ xung đột, đặc

biệt là xung đột quyền lực. Môi trƣờng vô chính phủ tạo điều kiện cho xung

đột khi thiếu vắng một chính quyền ở trên các quốc gia để ngăn chặn xung đột

giữa chúng giống nhƣ vai trò của Nhà nƣớc bên trong quốc gia. Việc tập hợp

các quốc gia vào trong thể chế có tính liên bang sẽ làm mất đi những đe doạ

từ bên ngoài cũng nhƣ sẽ tạo nên nhiều giá trị chung và thúc đẩy sự thịnh

vƣợng. Một cơ cấu chính quyền liên bang về mặt chính trị nhƣ vậy sẽ là cơ sở

quan trọng để đạt đƣợc hoà bình khi hạn chế đƣợc tình trạng vô chính phủ.



1



Charles W.Kegley, Jr & Eugene R. Wittkoft, “World Politics: Trends and Transformation”,

Fourth Edition, St.Martin‟s Press, New York 1993, pp. 525



Đó cũng là một cách thức chia sẻ quyền lực, hạn chế đƣợc mâu thuẫn quyền

lực vốn là nguyên nhân chủ yếu của xung đột trong quan hệ quốc tế theo cách

nghĩ của Chủ nghĩa Hiện thực.

Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Liên bang là chủ trƣơng hội nhập các

quốc gia vào trong một liên minh chính trị trên cấp độ khu vực hoặc toàn cầu.

Liên minh chính trị này có thể theo thiết chế liên bang kiểu Mỹ hoặc là một

hệ thống chính phủ quốc gia nào đó. Đó chính là con đƣờng hội nhập toàn

phần từ dƣới lên vì mục tiêu hoà bình. Nhƣ vậy, khác với các lý thuyết trên,

Chủ nghĩa Liên bang đi vào chính trị trực diện và mạnh mẽ hơn hẳn. Nó

hƣớng tới hội nhập chính trị trên cơ sở giải quyết vấn đề chủ quyền và lợi ích

quốc gia bằng còn đƣờng chia sẻ quyền lực vào trong một cơ cấu ở trên quốc

gia.

Theo quan điểm của những ngƣời Chủ nghĩa Liên bang, thể chế hoá

trung tâm này là một quá trình quan trọng và không thể thiếu trên con đƣờng

hình thành liên bang. Trung tâm này chính là sự phân tán quyền lực quốc gia

về mặt cơ cấu. Tuy nhiên, một thiết chế liên bang nhƣ vậy không hoàn toàn là

siêu quốc gia trong quan hệ với các trung tâm cũ là quốc gia. Chính phủ trung

ƣơng và chính phủ địa phƣơng vẫn có thể song song tồn tại. Quyền hành và

luật pháp của chính phủ trung ƣơng đƣợc đảm bảo bằng hiến pháp. Trong khi

đó, các chính phủ địa phƣơng vẫn có quyền hành và sự tự chủ nhất định mặc

dù sức mạnh và vai trò của chúng không còn nhƣ trƣớc. Vấn đề quan trọng ở

đây là sự phân quyền giữa chúng. Trong điều kiện tồn tại cả chính quyền

trung ƣơng và địa phƣơng nhƣ vậy, công dân trong liên bang sẽ theo chế độ

hai quốc tịch.

Quá trình thể chế hoá trung tâm, hình thành cơ cấu liên bang là một

quá trình nhận thức từ trên xuống. Nó có thể đƣợc tiến hành qua những hành

động thể chế hoá có tính cách mạng hoặc qua các giai đoạn hiệp thƣơng quá

độ. Lực lƣợng cơ bản khởi động quá trình này là các nhà lãnh đạo và giới cầm

quyền quốc gia. Nhƣ vậy, cách thức hội nhập của của Chủ nghĩa Liên bang có



sự khác biệt khá rõ so với Chủ nghĩa Chức năng. Nếu con đƣờng hội nhập của

Chủ nghĩa Liên bang là từ trên xuống thì con đƣờng của Chủ nghĩa Chức

năng là từ dƣới lên. Nếu Chủ nghĩa Liên bang sẵn sàng đối mặt ngay với hội

nhập chính trị thì Chủ nghĩa Chức năng tìm cách tránh né, coi đó nhƣ mục

tiêu lâu dài và tìm cách đạt đƣợc một cách gián tiếp thông qua hội nhập kinh

tế-xã hội. Nếu cách tiếp cận của Chủ nghĩa Liên bang là tổng thể thì Chủ

nghĩa Chức năng là từng phần thông qua hợp tác chức năng. Nếu cách thức

thể chế hoá của Chủ nghĩa Liên bang là xây dựng trực tiếp thể chế siêu quốc

gia có tính bao trùm thì cách thức của Chủ nghĩa Chức năng lại là sự tiệm tiến

thông qua các cơ cấu liên quốc gia có tính chức năng. Nó cũng không giống

Chủ nghĩa Chức năng Mới khi quan tâm nhiều hơn tới khía cạnh chính trị đối

ngoại của hội nhập ...

Chủ nghĩa Liên bang phản đối mô hình quốc gia thông thƣờng đang tồn

tại. Chính điều này đã gây ra những phê phán mạnh mẽ từ những ngƣời phản

đối Chủ nghĩa Liên bang, đặc biệt là những ngƣời theo chủ nghĩa quốc gia.

Họ cho rằng quốc gia vẫn là hạt nhân và hệ thống quốc gia vẫn là bất biến.

Mặt khác, họ cũng chứng minh bằng việc nhân dân hầu nhƣ không ủng hộ

chủ trƣơng liên bang và điều này cho thấy Chủ nghĩa Liên bang khó đi đƣợc

từ trên xuống dƣới. Bên cạnh đó, họ cũng chỉ ra rằng một kế hoạch nhƣ vậy

cũng tạo ra nguy cơ xung đột giữa lực lƣợng ủng hộ liên bang với lực lƣợng

chủ trƣơng duy trì quốc gia.

Một hình thái hiện đại của Chủ nghĩa Liên bang xuất hiện gần đây là

Chủ nghĩa Siêu quốc gia (Supranationalism). Về cơ bản, Chủ nghĩa Siêu quốc

gia không khác Chủ nghĩa Liên bang. Nó cũng quan tâm tới việc dựa trên luật

pháp và thể chế hoá để lập ra các cơ quan hoạch định chính sách chung cho

các quốc gia thành viên. Có khác chăng chỉ là ở chỗ nó có quan niệm rộng rãi

hơn về cái đích cuối cùng của quá trình hội nhập. Theo đó, thể chế siêu quốc

gia có thể có nhiều mức độ và hình thức chứ không nhất thiết phải là liên

bang. Xu hƣớng này đƣợc sự cổ vũ của những ngƣời ủng hộ toàn cầu hoá khi



cho rằng toàn cầu hoá là một biểu hiện của quá trình này.

Cho đến hiện nay, Chủ nghĩa Liên bang ít đạt đƣợc kết quả trong thực

tiễn. Mặc dù vậy, chủ nghĩa này vẫn đang hi vọng vào những cố gắng nhất

định của Liên minh Châu Âu trên con đƣờng hội nhập chính trị cho dù quá

trình này chịu ảnh hƣởng nhiều của Chủ nghĩa Chức năng Mới. Đó là việc

hình thành những cơ sở ban đầu có hơi hƣớng của một Nhà nƣớc liên bang

nhƣ Nghị viện, Uỷ ban Châu Âu, Hội đồng Châu Âu,... bên cạnh hệ thống các

cơ quan chuyên ngành. Đó là sự phân chia quyền hạn giữa Liên minh và quốc

gia thành viên và trao một số quyền có tính siêu quốc gia cho các cơ quan của

Liên minh. Đó là cố gắng tăng cƣờng hợp tác chính trị nội khối. Đó là những

cố gắng thể chế hoá nhƣ Đạo luật Châu Âu năm 1984, Hiệp ƣớc Maastrict

năm 1992,... Tuy nhiên, con đƣờng Liên minh Châu Âu đang đi liệu có dẫn

đến Liên bang Châu Âu vẫn còn là câu hỏi ngỏ.

Nhìn chung, mô hình của Chủ nghĩa Liên bang ít có cơ hội trong tƣơng

lai gần, đặc biệt trên quy mô toàn cầu. Lý do chủ yếu là bởi chủ nghĩa quốc

gia vẫn còn quá mạnh, thế giới vẫn còn đầy mâu thuẫn và chia rẽ. Hay nói

theo kiểu của những ngƣời Chủ nghĩa Liên bang, quốc gia đem lại khả năng

tồn tại cao hơn là liên bang. Ngay cả những nơi chủ nghĩa quốc gia không quá

mạnh mẽ thì Chủ nghĩa Liên bang cũng không có nhiều cơ hội trở thành hiện

thực. Sự bất thành của Chủ nghĩa toàn Phi trong những năm 1900-1960 là ví

dụ cho thấy điều này. Nói chung, tính khả thi của xu hƣớng này còn kém xa

so với Chủ nghĩa Chức năng.

Chủ nghĩa xuyên quốc gia (Transnationalism)

Xuất phát nguồn từ Chủ nghĩa Đa nguyên ra đời vào giữa những năm

1950. Xu hƣớng lý luận này quan niệm về sự đa nguyên nhƣ sau: Thứ nhất,

quốc gia rất khác nhau trên trƣờng quốc tế; thứ hai, quốc gia không phải là

chủ thể duy nhất mà bên cạnh đó còn các chủ thể phi quốc gia nhƣ công ty đa

quốc gia hay tổ chức quốc tế; thứ ba, bản thân quốc gia cũng không phải là

nhất thể mà bao gồm các cá nhân, các nhóm lợi ích, thậm chí là các phe phái



khác nhau; thứ tƣ, những vấn đề quốc tế ngày nay cũng rất đa dạng gồm cả

chính trị-an ninh tới kinh tế, văn hoá, xã hội và nhiều vấn đề phát sinh từ sự

phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các quốc gia. Những ngƣời theo Chủ

nghĩa Đa nguyên coi các vấn đề này đều có vai trò nhƣ nhau.

Cũng dựa trên những luận điểm căn bản của Chủ nghĩa Đa nguyên,

Chủ nghĩa Xuyên quốc gia đã có sự điều chỉnh và phát triển hơn so với Karl

W. Deutsch. Ra đời muộn hơn trong bối cảnh sự phụ thuộc lẫn nhau ngày

càng tăng và sự nổi lên của các chủ thể phi quốc gia, Chủ nghĩa Xuyên quốc

gia nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau thay cho sự tƣơng tác đơn thuần, nhấn

mạnh vai trò ngày càng tăng của các chủ thể phi quốc gia chứ không chỉ ghi

nhận giản đơn về tính đa nguyên của thế giới. Trong đó, hội nhập đƣợc xem

nhƣ kết quả của sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng trong sự tƣơng tác

mạnh mẽ giữa các loại hình chủ thể khác nhau.

Do xuất hiện muộn hơn và lại đƣợc chứng kiến những thực tiễn hội

nhập phong phú đang diễn ra ngày nay, đặc biệt sự phát triển trong công nghệ

thông tin và giao thông vận tải, Chủ nghĩa Xuyên quốc gia dƣờng nhƣ mang

tính toàn diện và thực tiễn cao hơn so với các xu hƣớng lý luận trên. Nếu các

xu hƣớng lý luận trên quan tâm nhiều tới mục đích chính trị của hội nhập

quốc tế còn những thứ khác chỉ là phƣơng tiện thì Chủ nghĩa Xuyên quốc gia

đã xem xét hội nhập theo nhiều góc độ khác nhau, cả về chính trị, kinh tế, xã

hội, cơ cấu thể chế lẫn ý thức cộng đồng. Nếu các xu hƣớng trên quan tâm

nhiều tới việc tìm tòi con đƣờng và cách thức tiến đến hội nhập, Chủ nghĩa

Xuyên quốc gia cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng chính là con

đƣờng chủ yếu của hội nhập. Với quan niệm coi hội nhập là mức độ liên kết

đã phát triển tới mức nhất định chứ không phải một hình thức liên kết nào đó,

các học giả của Chủ nghĩa Xuyên quốc gia quan tâm nhiều tới việc đƣa ra

những tiêu chí đánh giá mức độ hội nhập trong các lĩnh vực cơ bản và các tác

động của nó.

Trong hội nhập kinh tế, Robert O. Keohane và Joseph S. Nye (1977)



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

×