1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

2 Chủ nghĩa kiến tạo và các kiến giải về cộng đồng từ góc nhìn của chủ nghĩa kiến tạo xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 93 trang )


Các nhà lý luận chính trị: Nicolas Onuf, Friedrich Kratochwill,

Alexander Wendt

Xét trên góc độ cộng đồng:

Chủ nghĩa kiến tạo cho rằng Cộng đồng là một sự kiến tạo mang tính

chất xã hội trong quan hệ quốc tế ở khu vực, trong đó nhấn mạnh khía cạnh

mặt nhận thức về cộng đồng trong hợp tác khu vực.

Chủ nghĩa kiến tạo cho rằng các quốc gia có mối tƣơng tác về mặt xã

hội nên chúng là những thực thể xã hội, có bản sắc và lợi ích xã hội

Chủ nghĩa kiến tạo xã hội cho rằng văn hóa và chuẩn mực là những yếu

tố quan trọng tạo nên môi trƣờng quan hệ quốc tế, và chính môi trƣờng này

tạo cho quốc gia những nhận thức nhất định về lợi ích. Do bản sắc xã hội và

lợi ích đƣợc hình thành trong một quá trình và theo nhận thức, nên quá trình

“ra hiệu – diễn giải – phản ứng” sẽ chi phối hành vi của các nƣớc.

Bảng tổng hợp dƣới đây sẽ phân tích rõ hơn về chủ nghĩa kiến tạo trong

mối tƣơng quan so sánh giữa các trƣờng phái nghiên cứu.

Bảng 1.2 So sánh các quan điểm trƣờng phái



Trong các trƣờng phái kể trên xét trên một khía cạnh nào đó, chủ nghĩa

hiện thực dƣờng nhƣ có thể lý giải đƣợc phần nào hợp tác khu vực ở Đông

Nam Á. “Chủ nghĩa hiện thực ngoại vi” (peripheral realism) (Escude, 1998)

và “chủ nghĩa hiện thực cấp dƣới” (subaltern realism) (Ayoob, 1999) cho rằng

một hệ thống liên kết khu vực ở thế giới thứ ba không phải lúc nào cũng ở

tình trạng vô chính phủ mà có thể tồn tại theo một “thứ bậc” (hierarchy),

trong đó có những nƣớc nhỏ và những nƣớc lớn; có những mối liên hệ mật

thiết giữa chính trị trong nƣớc và chính trị quốc tế, và giữa hòa bình và ổn

định ở trong nƣớc với ảnh hƣởng từ bên ngoài. Nhƣng chủ nghĩa hiện thực

này cũng cho rằng do các nƣớc thuộc thế giới thứ ba là những nƣớc yếu và lệ

thuộc về mặt kinh tế và quân sự vào bên ngoài nên họ thƣờng quan tâm đến

lợi ích so sánh và ngắn hạn hơn là lợi ích dài hạn và tuyệt đối. Các nƣớc này

cũng hạn chế khả năng hoạt động quốc tế trong phạm vi láng giềng khu vực

và ít quan tâm hơn đến các vấn đề an ninh ở mức độ toàn cầu. Điều này có thể

đúng với ASEAN trong buổi đầu thành lập khi các nƣớc thành viên luôn quan

ngại về an ninh và ổn định ở trong nƣớc trƣớc các sức ép và mối đe dọa từ

bên ngoài, và cho cả đến hiện nay ASEAN cũng luôn là nơi cạnh tranh ảnh

hƣởng của các nƣớc lớn từ bên ngoài khu vực.

Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực cũng chưa lý giải được sức ép đối với ASEAN

trước diễn biến nhanh chóng trong xu thế hợp tác khu vực ở Đông Á và châu ÁThái Bình Dương: hoặc ASEAN sẽ bị hoà tan; hoặc ASEAN cần phải tăng cường

bản sắc và liên kết chặt chẽ hơn nữa.



1.2.2 Các kiến giải của cộng đồng từ góc nhìn của chủ nghĩa kiến tạo

Khái niệm về „cộng đồng‟ lần đầu tiên đƣợc Ferdinand Tönies đƣa ra

vào cuối thế kỷ 19. Tönies (1887) phân biệt hai thuật ngữ xã hội học

„Gesellschaft‟ và „Gemeinschaft‟ đƣợc dịch tƣơng ứng là tổ chức hoặc hiệp

hội và cộng đồng. „Gemeinschaft‟ đƣợc hình thành dựa trên các mối liên hệ

theo hợp đồng vì lợi ích chung, còn „Gesellschaft‟ đƣợc hình thành dựa trên

các mối liên hệ về văn hóa, truyền thống, chuẩn mực và bản sắc chung. Trong

quan hệ quốc tế, khái niệm về “cộng đồng” (community) thƣờng đƣợc dùng

để chứng tỏ sự hợp tác sâu trong nhiều lĩnh vực. Karl Deutsch (1961) là ngƣời

đầu tiên đƣa ra khái niệm này thông qua cách diễn giải về sự tồn tại của một

"cộng đồng an ninh" giữa Mỹ và Tây Âu. Theo Deutsch (1961: 68), cộng

đồng an ninh không hoàn toàn hàm ý hợp tác an ninh quân sự giữa các quốc

gia mà để chỉ một nhóm nƣớc đã hội nhập đủ sâu sắc để bảo đảm có sự thay

đổi yên bình giữa các nƣớc thành viên trong một thời kỳ dài.

Amitav Acharya (2009) cho rằng có hai hiểu lầm về cộng đồng mà

nhiều ngƣời mắc phải, nhất là về cộng đồng an ninh. Một là các quốc gia hay

những ngƣời sống trong một cộng đồng không xung đột nhau. Sự thực thì ý

tƣởng về cộng đồng không ngăn cản xung đột mà nó chỉ yêu cầu rằng các

xung đột phải đƣợc giải quyết một cách hoà bình. Hai là cộng đồng phải cùng

nhau tự vệ chống lại những ngƣời ngoài nhóm. Thực tế là một số cộng đồng

có thể làm nhƣ vậy và mang bản chất của một đồng minh song cộng đồng

không luôn luôn giống với đồng minh.

Trong liên kết kinh tế, khái niệm “cộng đồng kinh tế” thƣờng đƣợc

dùng để chỉ một trong các hình thức hợp tác kinh tế là việc thành lập một khu

vực thƣơng mại tự do, liên minh thuế quan, thị trƣờng chung hoặc liên minh

kinh tế. Thí dụ, Hiệp ƣớc Rôma (Điều 2) thành lập Cộng đồng kinh tế châu

Âu (EEC) năm 1957 xác định EEC là một “thị trƣờng chung” và “từng bƣớc

hài hoà chính sách kinh tế” của các nƣớc thành viên để tiến tới một liên minh

thuế quan và xoá bỏ các trở ngại đối với tự do di chuyển của ngƣời, lƣu

chuyển của dịch vụ và vốn giữa các nƣớc thành viên (Điều 3).



Bảng 1. 3: Các hình thức liên kết kinh tế khu vực

Giảm thuế

quan trong

nhóm



Loại bỏ thuế

quan trong

nhóm



Thuế quan

chung đối

với ngoài

nhóm



Dịch chuyển

tự do lao

động và vốn

trong nhóm



Chính sách

kinh tế

chung và

đồng tiền

chung



Hiệp định thương mại ưu

đãi

Khu vực thương mại tự do

Liên minh thuế quan

Thị trường chung

Liên minh kinh tế



Bàn về "cộng đồng văn hoá-xã hội," theo Amitav Acharya (2009), sự

gần gũi, các mối quan hệ lịch sử và nền văn hoá chung không phải lúc nào

cũng tạo ra đƣợc cộng đồng, nhƣng chúng có thể tạo ra động lực ban đầu để

xây dựng cộng đồng. Khái niệm "cộng đồng văn hoá-xã hội" không chỉ có

nghĩa là thừa nhận những điểm giống nhau hiện tại về văn hoá và xã hội giữa

các quốc gia mà nó đòi hỏi phải có niềm mong mỏi và nỗ lực muốn tham gia

vào các quan hệ xã hội nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và tạo ra một

"cảm nghĩ chung." Các cộng đồng văn hoá xã hội đích thực phải đƣợc xây

dựng từ dƣới lên (bottom-up) chú không phải từ trên xuống (top-down). Do

đó, sự đa dạng về văn hoá, ngôn ngữ và tôn giáo (thứ mà thƣờng đƣợc coi là

rào cản cuối cùng đối với một cộng đồng khu vực) có thể không quan trọng

bằng việc ý thức đƣợc rằng phải nỗ lực xã hội hoá và tạo dựng sự đồng nhất

trên cơ sở tập hợp các mục tiêu chung.

Cộng đồng là kết quả của hội nhập quốc tế. Quá trình này có thể đƣợc

tiếp cận từ một số trƣờng phái lý thuyết phổ biến kể trên. Tuy nhiên, những lý

thuyết nêu trên đều xuất phát từ quá trình hội nhập khu vực ở châu Âu và

nhằm giải thích cho quá trình này là chính. Rõ ràng rằng, khả năng hình thành

một liên bang hay một tổ chức siêu quốc gia là quá xa vời trong tƣơng lai hợp



tác khu vực ở Đông Nam Á. Cho đến gần đây, mức độ thể chế hóa và mô hình

hợp tác của ASEAN vẫn còn thua kém xa nhiều liên kết khu vực khác trên thế

giới. Ngƣợc lại, chủ nghĩa đa nguyên và chủ nghĩa xuyên quốc gia chƣa đủ

“mạnh” để giải thích quyết tâm nâng hợp tác khu vực lên mức độ “cộng

đồng,” nhất là khi các nƣớc Đông Nam Á lại phụ thuộc vào bên ngoài về các

mặt kinh tế và chính trị nhiều hơn. Chủ nghĩa chức năng mới cũng chỉ lý giải

đƣợc phần nào quá trình hợp tác theo “chức năng” của ASEAN trong những

thập niên 1980 và 1990, song cũng chƣa thể giải thích đƣợc thực tế rằng

ASEAN vốn bắt đầu từ hợp tác vì mục đích chính trị rồi chuyển sang lĩnh vực

kinh tế trƣớc khi có quyết tâm đột phá mạnh mẽ xây dựng một cộng đồng

toàn diện hiện nay.

Xét một khía cạnh nào đó, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa liên chính

phủ dƣờng nhƣ có thể lý giải đƣợc phần nào hợp tác khu vực ở Đông Nam Á.

“Chủ nghĩa hiện thực ngoại vi” (peripheral realism) (Escude, 1998) và “chủ

nghĩa hiện thực cấp dƣới” (subaltern realism) (Ayoob, 1998) nói về một hệ

thống khu vực ở thế giới thứ ba không phải lúc nào cũng ở tình trạng vô chính

phủ mà có thể tồn tại theo một “thứ bậc” (hierarchy), trong đó có những nƣớc

nhỏ và những nƣớc lớn; có những mối liên hệ mật thiết giữa chính trị trong

nƣớc và chính trị quốc tế, và giữa hòa bình và ổn định ở trong nƣớc với ảnh

hƣởng từ bên ngoài. Những loại chủ nghĩa hiện thực này cũng cho rằng do là

những nƣớc yếu và lệ thuộc về mặt kinh tế và quân sự vào bên ngoài, các

nƣớc thế giới thứ ba thƣờng quan tâm đến lợi ích so sánh và ngắn hạn hơn là

lợi ích dài hạn và tuyệt đối. Các nƣớc này cũng hạn chế khả năng họat động

quốc tế trong phạm vi láng giềng khu vực, và ít quan tâm hơn đến các vấn đề

an ninh ở mức độ toàn cầu. Điều này có thể đúng với ASEAN trong buổi đầu

thành lập khi các nƣớc thành viên luôn quan ngại về an ninh và ổn định ở

trong nƣớc trƣớc các sức ép và mối đe dọa từ bên ngoài, và cho cả đến hiện

nay ASEAN cũng luôn là nơi cạnh tranh ảnh hƣởng của các nƣớc lớn từ bên

ngoài khu vực.



Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực chƣa thể giải thích đƣợc sức ép đối với

ASEAN trƣớc diễn biến nhanh chóng trong xu thế hợp tác khu vực ở Đông Á

và châu Á-Thái Bình Dƣơng: hoặc ASEAN sẽ bị hoà tan; hoặc ASEAN cần

phải tăng cƣờng bản sắc và liên kết chặt chẽ hơn nữa. Tháng 12 năm 1997,

trong bối cảnh ASEAN chuẩn bị bƣớc sang thế kỷ 21, các nhà lãnh đạo

ASEAN đã đƣa ra “Tầm nhìn 2020,” khẳng định quyết tâm chính trị theo đuổi

những mục tiêu cuối cùng mà ba thập kỷ trƣớc Tuyên bố Băng Kốc đã đặt ra

là hƣớng tới một ASEAN là “một khối hài hoà các dân tộc ở Đông Nam Á,

hướng ra bên ngoài, chung sống trong hoà bình, thịnh vượng, gắn bó với

nhau bằng mối quan hệ đối tác, trong sự phát triển năng động và trong một

cộng đồng gồm các xã hội đùm bọc lẫn nhau” (Ban thƣ ký ASEAN, ASEAN

Vision 2020). Trong đó, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nêu rõ: “Chúng tôi hình

dung đến năm 2020 toàn bộ Đông Nam Á sẽ là một Cộng đồng ASEAN nhận

thức được các mối liên hệ lịch sử của mình, hiểu rõ di sản văn hoá của mình

và gắn bó với nhau bằng một bản sắc chung của khu vực.”

Tầm nhìn 2020 về Cộng đồng ASEAN đã chia sẻ phần nào quan điểm

của chủ nghĩa kiến tạo xã hội (social constructivism). Quan điểm này cho

rằng các quốc gia có mối tƣơng tác về mặt xã hội nên chúng là những thực thể

xã hội, có bản sắc và lợi ích xã hội. Bản sắc (identity), theo nghĩa là những

nhận thức cụ thể về vai trò của mình và mong muốn về mình, là lợi ích cơ bản

của quốc gia và lợi ích này có thể dần thay đổi trong quá trình tƣơng tác giữa

các nƣớc. Cấu trúc chủ quan liên thông (inter-subjective structure), theo nghĩa

hiểu biết ngƣời khác và đƣợc ngƣời khác hiểu mình, về bản sắc và lợi ích sẽ

chi phối hành động của quốc gia (Wendt, 1992). Những ngƣời theo chủ nghĩa

kiến tạo xã hội cho rằng văn hóa và chuẩn mực là những yếu tố quan trọng tạo

nên môi trƣờng quan hệ quốc tế, và chính môi trƣờng này tạo cho quốc gia

những nhận thức nhất định về lợi ích. Do bản sắc xã hội và lợi ích đƣợc hình

thành trong một quá trình và theo nhận thức, nên quá trình “ra hiệu – diễn

giải – phản ứng” sẽ chi phối hành vi của các nƣớc (Wendt, 1992).



Xét từ quan niệm xã hội học, Barry Buzan (1993) cho rằng quá trình

hình thành “cộng đồng” (Vergemeinschaftung) và việc xây dựng một hiệp hội

hay tổ chức (Vergesellschaftung) không thể tách rời nhau. Trong đó, việc hình

thành các thỏa thuận và hợp đồng trong một tổ chức và hiệp hội sẽ tạo nền

tảng cho việc hình thành các kinh nghiệm và bản sắc chung của một nhóm các

quốc gia trong quá trình xây dựng cộng đồng.

Chủ nghĩa kiến tạo và các lý thuyết xã hội học cho rằng “cộng đồng”

đƣợc hình thành qua ba giai đoạn tiến triển về nhận thức và hành vi đối xử với

nhau giữa các thành viên. Giai đoạn thứ nhất là xây dựng một tình cảm dung

thứ (tolerance), thể hiện qua việc khép lại quá khứ, hƣớng tới tƣơng lai cùng

với sự ngƣỡng mộ, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Giai đoạn thứ hai là sự đối

xử tƣơng hỗ (reciprocity), theo Robert Putnam (2000), thể hiện qua việc “tôi

sẽ làm việc này cho bạn bây giờ mà không trông đợi sự đáp trả tức thời, thậm

chí không cần phải biết bạn là ai, và tự tin rằng sau này bạn hoặc một ai đó sẽ

đáp trả.” Nói một cách khác, trong ngắn hạn, đối xử tƣơng hỗ xuất phát từ sự

thật lòng và trong dài hạn chính là vì lợi ích bản thân. Giai đoạn thứ ba là có

đƣợc một mức độ tín nhiệm (trust), thể hiện qua sự tự tin rằng mọi ngƣời và

các thể chế sẽ hành động một cách thống nhất, trung thực và hợp lý. Tín

nhiệm không loại trừ sự góp ý và chỉ trích với mục đích tốt.

Khi nghiên cứu về ASEAN, Amitav Acharya (2009) cho rằng cộng

đồng này có hai đặc điểm chính. Thứ nhất, nó chỉ một quan hệ xã hội, chứ

không phải một quan hệ chỉ thuần tuý mang tính phƣơng tiện. Những thuộc

tính chính yếu của cộng đồng là sự tin cậy, tình hữu nghị, sự bù đắp và tinh

thần trách nhiệm. Thứ hai, cộng đồng không phải chỉ là một nhóm những

ngƣời có cùng văn hoá mà cũng là nhóm ngƣời có tinh thần trách nhiệm

chung, sự tin tƣởng, quí trọng, và tự giác nhận thức đƣợc về sự đồng nhất.

Việc phát triển một cộng đồng thƣờng liên quan đến ý thức về sự đồng nhất

chung song các cộng đồng cũng có thể tạo dựng đƣợc sự đồng nhất và mục

tiêu chung bằng cách thu hút và hấp dẫn những ngƣời ngoài chứ không phải



là loại trừ hoặc chống lại họ. Thực tế cho thấy, ASEAN đã có một lịch sử lâu

dài về các mối quan hệ hƣớng ra bên ngoài với các nƣớc lớn bên ngoài khu

vực. Tuy nhiên, theo Acharya (2009), động lực của chủ nghĩa khu vực Đông

Nam Á không chỉ do sức ép hay sự đe doạ từ bên ngoài mà nó phức tạp hơn

nhiều, đƣợc hình thành trong quá trình „xã hội hoá‟ (socialization) các chuẩn

mực và gây dựng tính đồng nhất. Vì thế, để trở thành một cộng đồng theo

đúng nghĩa, thì các nƣớc ASEAN cần tăng cƣờng quan hệ hơn nữa bằng cách

gạt ra những mối quan tâm thuần tuý mang tính phƣơng tiện đi liền với chủ

quyền quốc gia.



CHƢƠNG 2

CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CỦA

CHỦ NGHĨA KIẾN TẠO

2.1. Nội dung của Cộng đồng kinh tế ASEAN

Mục tiêu của Cộng đồng kinh tế ASEAN

Tầm nhìn 2020 của ASEAN khẳng định “tạo ra một Khu vực kinh tế

ASEAN ổn định, thịnh vƣợng và cạnh tranh cao có sự tự do lƣu chuyển hàng

hoá, dịch vụ và đầu tƣ, tự do di chuyển vốn hơn, phát triển kinh tế bình đẳng,

giảm đói nghèo và khác biệt về kinh tế-xã hội”

Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II) nêu:

- “Cộng đồng kinh tế ASEAN là việc thực hiện mục tiêu cuối cùng là hội

nhập kinh tế nhƣ tầm nhìn ASEAN 2020 đã vạch ra, nhằm tạo ra một

Khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vƣợng và cạnh tranh cao có tự

do lƣu chuyển hàng hoá, dịch vụ và đầu tƣ, tự do di chuyển vốn hơn,

phát triển kinh tế bình đẳng, giảm đói nghèo và khác biệt về kinh tế xã

hội vào năm 2020”(Phần B.1).

- “Cộng đồng kinh tế ASEAN cần biến ASEAN thành một thị trƣờng và

cơ sở sản xuất duy nhất 3 biến sự đa dạng của khu vực thành những cơ

hội phát triển kinh doanh, đƣa ASEAN trở thành một mắt xích năng

động và mạnh mẽ hơn trong dây chuyền cung ứng toàn cầu…Để bƣớc

đầu thực hiện Cộng đồng kinh tế ASEAN, ASEAN cần thi hành các

khuyến nghị về hội nhập kinh tế ASEAN của Nhóm đặc nhiệm cao

cấp” (Phần B.3)

Nhóm đặc nhiệm cao cấp (HLTF) khuyến nghị thêm tự do di chuyển

3



Nguyên văn là “a single market and production base” (Mục 3, Phần ASEAN Economic Community, Tuyên bố Hoà



hợp ASEAN II), có thể cũng đƣợc hiểu là “một thị trƣờng và cơ sở sản xuất thống nhất.” Chúng tôi dịch là “một thị

trƣờng và cơ sở sản xuất duy nhất” để so sánh với European Sỉngle Market, vẫn thƣờng đƣợc dịch là Thị trƣờng châu Âu

duy nhất.



lao động có tay nghề chƣa đƣợc đề cập trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II.

Lộ trình tổng thể AEC (Mục 8, phần II) tiếp tục khẳng định AEC dựa

trên bốn trụ cột chính là: i) một thị trƣờng và cở sở sản xuất duy nhất; ii) một

khu vực kinh tế cạnh tranh cao; iii) một khu vực phát triển kinh tế bình đẳng;

và iv) một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu.

So với Tuyên bố Hoà hợp ASEAN về thành lập AEC và Đề cƣơng

AEC, mục tiêu tiến tới “Khu vực kinh tế ASEAN” đặt ra trong Tầm nhìn

2020 có nghĩa rộng hơn. Khu vực kinh tế ASEAN có thể là một khu vực tự do

thƣơng mại (FTA), liên minh thuế quan, thị trƣờng chung, hoặc cao hơn nữa

là liên minh kinh tế-tiền tệ. Trong khi đó, AEC đặt mục tiêu là trở thành “một

thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất ” nghĩa là trong đó có tự do thƣơng

mại và tự do chuyển các yếu tố sản xuất (nhƣ vốn và lao động có tay nghề)

(Bảng 2.1). Theo đó, ASEAN sẽ trở thành một thị trƣờng có giá cả thống

nhất, bao gồm giá hàng hoá và dịch vụ lẫn giá của các yếu tố sản xuất (Lloyd

và Smith, 2004: 19).

Bảng 2.1: Mục tiêu kinh tế của AEC

X



Tập trung hóa chính sách kinh tế - tiền tệ

Hài hòa hóa chính sách kinh tế



X



X



Tự do di chuyển yếu tố sản xuất



X



X



X



X



X



X



X



X



Thuế quan chung

Tự do hóa thƣơng mại giữa các thành viên



X



Liên

FTA



minh

thuế

quan



Thị

trƣờng

chung



X



X



Liên

minh

kinh tế



AEC



tiền tệ



Nguồn: Đề án chính phủ (Nam, 2006: 7)



Một mục tiêu hết sức quan trọng khác của AEC là “giảm đói nghèo và

khác biệt về kinh tế-xã hội” và đảm bảo đƣợc sự “phát triển kinh tế bình

đẳng” của các thành viên. Điều đó cho thấy đúng hơn bản chất “cộng đồng”



mang tính “nhân văn” của tập hợp các nền kinh tế ASEAN chứ không phải

chỉ là một “khu vực” gồm những nền kinh tế chỉ theo đuổi sự phát triển của

chính mình. Tuy nhiên, AEC không đặt ra mục tiêu là phải thành lập một

cộng đồng gồm những nền kinh tế phát triển ngang nhau.

Ngoài ra, AEC có mục tiêu là nâng cao vị thế của nền kinh tế ASEAN

trong kinh tế toàn cầu. Nhƣ thế, ASEAN vừa phải tham gia “năng động” và

“mạnh mẽ” hơn vào hệ thống sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu song cả Tầm

nhìn ASEAN 2020 và Tuyên bố Bali II đều nhấn mạnh rằng ASEAN và mỗi

nƣớc thành viên vẫn phải đảm bảo sự “tự cường” (resilience) để khỏi bị lệ

thuộc vào những biến động bên ngoài.

Nội dung và hình thức của Cộng đồng kinh tế ASEAN

Với mục tiêu trở thành “một thị trường và cơ sở sản xuất duy nhất” có

tự do thƣơng mại và tự do chuyển các yếu tố sản xuất, AEC chỉ có thể đƣợc

xem là một Thị trường chung trừ (trừ đi hai nội dung gồm thuế quan chung và

hài hòa chính sách kinh tế) hoặc một FTA cộng (cộng thêm nội dung di

chuyển tự do các yếu tố sản xuất). Công thức của AEC là:

AEC = FTA+

= CM –

(về cơ bản)



= AFTA (gồm cả AFAS và AICO) + AIA + IAI



Trong khi đó,Hiệp ƣớc Rôma thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu

(EEC) năm 1957 lại xác định ngay EEC là một “thị trƣờng chung” và “từng

bƣớc hài hoà chính sách kinh tế4” của các nƣớc thành viên (Điều 2, Hiệp ƣớc

Rôma) nhƣ sau:

- xoá bỏ thuế quan, các hạn chế về số lƣợng hoặc các biện pháp có tác

dụng tƣơng tự đối với xuất nhập khẩu hàng hoá giữa các nƣớc thành

viên

4



Nguyên văn là “progressively approximating economic policies of the Member States” (Điều 2, Hiệp ƣớc

Rôma)



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

×