Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.31 MB, 130 trang )
thơ cần đặt hình thức nghệ thuật trong tính quan niệm và đặc điểm kiểu tư duy
nghệ thuật của chủ thể.
Ở chương này, chúng tôi nghiên cứu một số yếu tố phong cách thơ Chế Lan
Viên trong sự vận động, biến đổi cùng với sự vận động của cái tôi trữ tình tạo
nên một cá tính sáng tạo độc đáo.
4.1. T Ư DUY T H Ơ Đ Ặ C SẮC.
“Tư duy thơ là một phương thức biêu liiện của tư duy nghệ thuật, nhưng nó
mang trong mình một khả nâng biểu hiện phong phú". “Đặc điểm quan trọng
nhất của tư duy thơ là sự th ể hiện của cái tôi trữ tình, cái tôi cám xúc, cái tôi
dang tư d u y . Nguyễn Bá Thành)[49,56]. Chế Lan Viên là người ý thức rất rõ
về tầm quan trọng của tư duy nghệ thuật và vận dụng các phương thức tư duy
nghệ thuật bằng năng lực của cá nhân làm nên nét riêng, nét độc đáo. Nhà thơ
đã từng phát biểu '.“
''Nghe ngóng, quan sát, lấy tài liệu cũng chỉ giúp ta nắm
chân lý lấy một nửa. Còn một nửa là phải biết vận dụng tư duy...Tư duy phải
làm nghìn triệu phép tính, bộ óc phải vận dụng từ sức quan sát, sự phán đoán,
trí tưởng tưựng”[ố3,97].ííTư duy ỷ và tư duy hình cần song song nảy nở và bồi
đắp lẫn nhau"[63,45]. Như vậy, Chế Lan Viên đánh giá rất cao tư duy thơ và
vận dụng các phương thức tư duy nghệ thuật một cách có hiệu quả nhất. Ở
phần này, chúng tôi chỉ tập chung vào hai năng lực độc đáo của tư duy thơ Chế
Lan Viên: Liên tưởng, tưởng tượng và đối lập.
4.1.1. Liên tưởng, tưởng tượng:
Trí tưởng tượng có thể coi là một năng lực đặc biệt quan trọng góp phần vào
nhận thức nghệ thuật, chắp cánh cho tâm hổn thơ bay bổng. Chế Lan Viên là
người có ý thức sử dụng tưởng tượng như một năng lực tư duy. Nhà thơ đã từng
phát biểu về trí tưởng tượng: “Thơ chấp nhận sự phản ánh thực tế bằng lung
linh, bằn ạ dường cong cho nên nhà thơ rất cần trí tưởng tượng”, “ cần ìấy cái
do đ ể hỗ trợ cái chân ” đ ể tạo ra cái “vừa giống mà không được giống lắm,
96
như thực vù như m ơ thì mới nói dược cái chân £/£/”[63,107]. Ớ Điêu tàn, thê
giới nghệ thuật kỳ quái được tạo dựng bằng trí tưởng tượng kỳ lạ, mạnh mẽ
hiếm có, bàng hư tưởng gây ấn tượng kinh dị, đập mạnh vào giác quan người
đọc. Trí tưởng tượng cũng được đẩy đến mức cao nhất đê đủ khả năng thêu dột
bức tranh hư ảo. Xương trắng, mổ khống, thành quách đổ nát... đều là hiện thân
của sự đau buồn, nuối tiếc. Đó cũng chính là nơi ẩn náu cho cuộc chạy trốn
thực tại của thi nhân. Những dấu vết ít ỏi của hiện thực trong Điêu tàn được
chắp cánh từ trí tưởng tượng hư ảo cũng là khát vọng hướng tới cái đẹp của nhà
thơ. Qua hiện thực đó, Chế Lan Viên nói lên những tình cảm, cảm xúc của thời
đại. Từ Á nh sáng và phù sa đến Di cảo thơ, thơ Chế Lan Viên đã thoát khỏi tư
duy quen thuộc, tự do bay lượn trên bầu trời của nghệ thuật. Nhà thơ tưởng
tượng về quá khứ, tưởng tượng về tương lai, nhưng có lẽ khó hơn cả là tưởng
tượng về hiện tại, ngay trong hiện tại. Tưởng tượng về quá khứ, Chế Lan Viên
tưởng tượng về đất nước Chiêm thành hoang tàn, đổ nát với những Chiêm
nương, lâu đài, điện ngọc... Tưởng tượng về tương lai: tương lai trồng cây,
tương lai hải cảng, tương lai chiến thắng...
Ôi! Tương lai như hài cảng lắm tàu
Những con tàu chở đấy hạnh phúc
Ôi! Tương lai như mùa chiêm lổm thóc
Lắm tiếng cười, lắm cánli bồ câu
(C him lượn trăm vòng
-
Á nh sán g
vđ
ph ù sa).
Ngay cả trong hiện tại, nghĩ về sự hổi sinh trong dựng xây ở miền Bắc những
năm sáu mươi, ông có Á nh sáng và phù sa, Cành phong lan bê\ Tàu đến, Tàu
đ i...Chính nhờ có sự tưởng tượng mà thơ Chế Lan Viên luôn mới: “Những đêm
trăng, đủ suy nghĩ như người"; “Tuyết bên ngoài nghĩ suy trong yên lặng
“Con cá song cầm đuốc dần thơ về'... Nhà thơ tưởng tượng ở bất kỳ nơi đâu,
thời điểm nào, nơi ngàn sâu, trên đường hành quân, trên bờ biển hay giữa trận
địa... ở cánh rừng xa “ Con suôi rừng cũng mến chị văn công”, cũng như bên bờ
sông Xen “Nỗi buồn Việt Nam sao chảy dưới cầu sông Xen nước Pháp?"; Vừa
97
nghe “Trong xóm tiếng gà cục tác”, nhìn ra ngoài, trời quang mây tạnh, thi
nhân liền liên iưởng đến^í/í/ mảy, tiếng nắng mặt trời". Ngay cả khi viết về
Bác, hình tượng con người vĩ đại ây cũng biến hoá lung linh theo trí tưởng
tượng của nhà thơ (Hoa trước láng Người). Quả là một tâm hổn thơ nồng nàn
cảm xúc tưởng chừng như chỉ cần một âm thanh, một hương sắc cũng đủ để
bùng nổ những liên tưởng, tưởng tượng. Dường như, sự tưởng tượng của nhà
thơ là không có giới hạn. Nét nổi bật trong tưởng tượng của Chế Lan Viên so
với các nhà thơ khác là sự tưởng tượng pha nét siêu thực. Tuy nhiên, cái siêu
thực này không phải là yếu tố thần bí xưa kia mà tưởng tượng trên cơ sở thực
tế, xuất phát từ cái nền của hiện thực. Đó là sự iưởng tượng ảo- thực, kết hợp
giữa lô gic và phi lô gic. Thơ ca chấp nhận s\f*phì lý tính”. Chế Lan Viên cũng
đã sử dụng nhiều trí tưởng tượng“p/z/ lý tính”. Ông đã từng nỏ'\\“Vấn đề là phải
biết tưởng tượng th ế nào, tưởng tượng phải có sự giám sát của lý / r f ’[63,108].
Bài Con cò là một hình ảnh tượng trưng được bổi đắp bằng trí tưởng tượng phi
lý tính và nhiều liên tưởng. Trong Di cảo thơ, ta bắt gặp khá nhiều tưởng tượng
phi lý tính như vậy (Tìm đường, T ừ thê chi ca...)
Liên tưởng cũng được coi như một quy luật của nhận thức, quy luật của cảm
xúc. Liên tưởng làm cho cảm xúc biến hoá, phát triển. Hà Minh Đức đã chỉ ra
những dạng liên tưởng th& 'phổ biến là những liền tưởng đối lập và liên tưởng
tương đồng, liên tưởng trực tiếp và liên tưởng gián tiếp"[9,126]. Chế Lan Viên
đã sử dụng nhiều dạng liên tưởng rất phong phú, khá độc đáo: Vừa đối lập vừa
liên kết; Liên tưởng đi về trong không gian, thời gian; Liên tưởng tương đồng,
tương phản; Liên tưởng trực tiếp; Liên tưởng gián tiếp... Những liên tưởng ấy
liên kết, đan cài vào nhau rất linh hoạt. Từ hiện thực, bằng cảm xúc chân thật
của mình, nhà thơ nhập hổn vào đối tượng và liên tưởng đến một vấn để, một
đối tượng nào đó cho cuộc sống(trong Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thườngChim báo bão, Đối thoại m ới, Chế Lan Viên đã thành công đáng kể ở phương
diện này).
Đời tươi mát như ao sen mùa hạ
98
Anlì em bôn bên mà ta ở iỊÍữa
Có dược trái cây thơm ta biết quỷ cả mùa lành.
(Người th ay dôi dời tôi, Người thay dổi th ơ tô i - H oa ngày thường - Chim báo bão).
Nhà thơ đã dùng sức tưởng tượng dựa trên sự gần nhau, giống nhau hoặc
nhân qua...có khi là liên tưởng ngẫu hứng để tạo ra nghĩa mới, độc đáo. Bởi thơ
là nghệ thuật kỳ diệu của trí tưởng tượng. Trong thơ chống Mỹ, Chế Lan Viên
m
ngợi ca tổ quốc, nhân dân và vạch mặt kẻ thù bằng những liên tưởng bất ngờ:
'V ành vạnh vầng trăng nghìn năm vẫn là gương mặt Việt Nam cười”. Có
những liên tưởng đột xuất, kỳ lạ tạo nên những biểu iượp.g độc đáo, thú vị:
Xưa ở sông Ngỏ ta đánh mất vàng
Đánh mất tâm hồn ta. Nhưng hiện tại
N hư sông tương dã trả vàng ta lại
Khắp đôi bờ tư tưâníỊ chói hào quang
( V àng của lòng tin - Á n h sán g và ph ù sa).
Cũng có khi, nhà thơ vận dụng cả những liên tưởng gần, liên tưởng xa,
những đối lập mới bên cạnh những đối lập có sẵn để tạo ra sự tương đổng,
tương phản mới lạ đem lại hiệu quả nghệ thuật cao.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta di đất đã hoá tâm hồn
(
Tiếng hát con tàu - Á n h sáng và ph ù sa).
Nhìn hoa lau mà chợt nhận ra mình và ký ức hoa lau trong lịch sử, hiện ra từ
chiến tranh:“Ô/ hoa lau đường máu/ Trắng làm chi anh buồn/ Giá được màu
hoa tím/ Hồn hẳn nhẹ đau hơn”, rồi lại liên tưởng đến xa xưa thuở Cờ lau Đinh
bộ Lĩnh ‘T ô / chỉ là nhà thơ cưỡi trâu/ Đánli trận giặc cờ lau", để rồi nhà thơ
ao ước được trở về:“C/ỉo tôi về với cành lau. Vàng vọ/ v ề với con trâu nghé ọ” .
Nhìn hoa gạo đỏ, Chế Lan Viên liên tưởng đến “Người tình nhân đỏ chói mỏi
liôn”, nhìn trời trong đêm ông nghĩ đến “Những đêm trăng, đá suy nghĩ như
ngắm ngàn lau cười trong nắng nhà thơ thấy “/ỉỡ/2 mùa thu lại về”... Sự
liên tướng trong thơ Chế Lan Viên luôn đa chiều: liên tưởng gần, liên tưởng xa,
*
liên tướng thực- ảo, liên tưởng lô gic và phi lô gic... nhưng đéu dựa trên một cơ
99
sỏ nhất định. Ông có cả một thế giới liên tưởng, liên kết chằng chịt làm thành
ve đẹp kỳ ảo cho thơ.
Trí tưứng tượng cùng với sự liên tưởng là cơ sở để tạo ra những hình ảnh đạc
trưng vừa thực vừa ảo, tạo nên cảm giác nửa mơ, nửa tỉnh, những khung cảnh
do, hư h i / \ cái thê giới vừa hư vừa thực đã làm nên chất thơ độc đáo của
Chế Lan Viên.
4.1.2. Đối lập.
Đối iập là mội phương thức tu duy bao trùm hơn mang dấu ấn cá tính sáng
tạo rất rõ trong phong cách thơ Chế Laii Viên. Cùng với sự liên tưởng tưởng
tượng, Chế Lan Viên sử dụng tối đa biện pháp đối lập tương phản tạo ra hiện
tượng độc đáo bất ngờ, tứ thơ, dòng thơ kỳ ảo ngân vang. Nguyễn Văn Hạnh đã
nhận định:‘7//'/ỉ/ỉ thức cơ bản, p h ổ biến trong tư duy nghệ thuật của C h ế Lan
Viên là sự đối lập. Đối lập trong thời gian, trong không gian, trong lòng
người... Qua đối lập, nhà thơ nói lên một quy luật phát triển cơ bản của sự vật,
tác động mạnh m ẽ đến trí tưởng tượng của người đọc, khêu gợi, củng c ố hứng
thú thẩm m ỹ của họ, bâng cách cho họ tiếp xúc với những bất ngờ và tương
phản trong ý thơ, trong hình ảnh thơ, trong kết cấu, trong nhạc điệu, từ yêu
thương đến giận dữ, từ yên tĩnh đến bàng hoàng, từ trang nghiêm đến trào
lộnq"[34,102]. Quả đúng vậy, đi vào khảo sát toàn bộ các kiểu đối lập trong
thơ Chế Lan Viên ta thấy có rất nhiều dạng đối lập được sử dụng đa dạng, linh
hoạt: Đối lập về sự vật hiện tượng; Đối lập về con người; Đối lập về không
gian, thời gian; Đối lập về ngôn ngừ; Đối lập về hình ảnh, ý, cấu tứ ; Đối lập ở
hai dòng thơ, câu thơ, hai khổ thơ, thậm chí đối lập cả ở tên bài thơ, tập thơ...
Ngay từ tên các bài thơ, tập thơ, Chế Lan Viên đã sử dụng đối chọi đến mức tối
đa: Hoa ngày thường - chim báo bão; Ánh sáng và phù sa; Hoa trên đá; Thơ
bỉnh phương, đời lập phương; Củ mới; Đêm và ngày; Tro và lửa; R ủ i và
may; Rễ... Hoa;... Nhà thơ rất hay dừng đối lập ngược nhau tạo nên sự đối chọi
đa dạng trong cái bình thường đê đào sâu năng lực suy nghĩ. Phổ biến nhất
100
trong thơ Chế Lan Viên là đối lập trong cùng một cầu:“Tặng bạn gần gửi
iiliữniỊ bạn xa"; Xưa cha ông di mà nay con cháu bắt dầu bay"; “Xi(a phù du
mù nay cỉã phù sa"; “Viết câu thơ sáng trCri giữa nhà lao bóng p h ủ ‘T ră m cơn
mơ khỏnq chống nổi một đêm clay”; “Một viên gạch hồng Bác chỏng lại cả một
mùa bủng giá”; “Một cái hôn cân vạn ngày đụn lửa”;... Có khi đối lập cả bốn
câu trong một khổ thơ, hoặc nhiều cặp câu đối nhau trong một bài thơ, đặc biệt
là kiểu đối lập trong không gian và thời gian:
Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm
Tiếng hát lẩn với im lìm của đất
Vườn lặng yên mà thơm mùi mít mật
Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân.
(G iọng trầm - D i cảo thơ I).
Cũng có khi đối lập cả đoạn thơ hay một cặp câu thơ: “Nửa nước hoà bình/
Nửa nước chiến tranli/ Một tai lổng nghe chim! Một tai nghe chừng đạn nổ/
Phông ngoài chớ ngủ yên/ Phòng trong dang bốc lửa”... Nhờ có tương phản mà
ý nghĩa thơ, hình tượng thơ nổi bật. Trong các bài thơ: Cái hẩm chông giản dị,
M ảy và hoa trên vạn lý trường thành, Tôi đi từ... tôi đến... Chế Lan Viên đều
vận dụng tối đa biện pháp này, có khi mang tính chất mạnh mẽ, quyết liệt:
Một người tù làm ta phá cửa nhà giam
Một kẻ lưu vong gắn lòng ta vào đất nước
Một trái tim đau chia phần cho ta hạnh phúc
Một tiếng thét căm hờn làm ta muốn yêu thương.
( 60 tuổi của m ột nhà thơ lưu vong nước Thổ).
Nhưng có khi lại rất kín đáo, khó nhận ra vì tương phản thuận chiều:
Giữa clĩiều náo nhiệt p h ố phường
Vụt nhớ ngàn cao Yên Tử
Vắng tanh vạn gốc tùng im
Thiếu bóng mình cỉi dưới dó.
Nhà thơ sử dụng linh động biến ảo biện pháp này ở bất kỳ đâu, khi nào, cả
đối lập từ gần đến xa, trên- dưới, xưa- nay, hiện tại- quá khứ- tương lai...Có cá
101
kiểu đối lập kết cấu của bài \hơ:Người đi tìm hình của nước; Người thay đổi
đòi tói, Người thay đổi thơ tôi; Đối thoại mới vê càu chuyện cổ; Ngoảnh lại
mười lăm năm ...tạo ra những biểu trưng và liên tưởng tương đổng, tương phản
làm giàu cho hình tượng thơ, làm cho người đọc tiếp nhận được nhiều tri thức
mới mẻ, mang dấu ấn sáng tạo riêng.Tất cả những giá trị của biện pháp đối lập
đó được điều khiển bởi một tư duy duy lý sắc sảo, nhậy cảm, làm nên vẻ đẹp
riêng của thơ Chế Lan Viên, tạo nên một phong cách thơ khổng thể trộn lẫn.
4.2. H ÌNH ẢNH T H Ơ ĐA DẠNG, P H O N G PHÚ.
Hình ảnh thơ là một dạng vật chất hoá hình ảnh tinh thần của cái tôi trữ tình.
Cái tôi trữ tình tồn tại vô hình, vô ảnh trong thế giới tinh thần đã tự biểu hiện,
tự hình dung bằng thế giới hình ảnh trong thơ. Tô Đông Pha khi nhận xét về
thơ Vương Duy đã nói:‘T hi trung hữu hoạ'Xtrong thơ có hoạ). Chế Lan Viên
cũng đã từng nói:“T h ơ là phải có hình ảnh”,“T h ơ nghĩ bằng hình ứ7ỉ/ỉ” [63,74].
Thế giới hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên vận động cùng với sự vận động và
biến đổi của cái tôi trữ tình. Từ một thế giới hình ma, bóng quỷ, sọ dừa, xương
khô đến một thế giới tràn ngập niềm vui và ánh sáng, với muôn sắc màu tươi
xanh của sự sống rồi trở về với cuộc đời thường muôn màu, muôn vẻ. Tiếp cận
hình ảnh thơ Chế Lan Viên từ góc độ cái tôi trữ tình, chúng tôi không theo
hướng tìm hiểu kỹ thuật xây dựng hình ảnh mà theo hướng coi hình ảnh là một
yếu tố biểu hiện của cái tôi trữ tình. Ở phần này, chúng tôi chỉ tập trung vào
một số hình ảnh tạo nên một phong cách thơ, một cá tính sáng tạo độc đáo.
4.2.1. Hình ảnh tượng trưng siêu thực.
Ở chương 2, chúng tôi đã nói đến sự ảnh hưởng của nền mĩ học phương Tây
thế ký XIX(Bôđơle) đối với “Trường thơ loạn" trong đó có Chế Lan Viên. Đó
là sự ảnh hưởng của khuynh hướng lãng mạn, tượng trưng siêu thực trong thơ
Pháp thế kỷ XIX. Các nghệ sĩ siêu thực có xu hướng đi tìm cái cảm giác ngoài
cảm giác thực tại. Họ đi tìm tình cảm và cái đẹp chân chính của con người đích
thực. Nguyễn Tân Long ỉrong“Khuynh hướng thi ca”
102
N/lững diều họ nghĩ,
những líiéu họ cảm giác phải vượt lên trên những suy tư, những cảm giác tầm
ilurừniỊ do sự đụn ÍỊ chạm với đời SÔIÌÍỊ xã hội loài người mà có. Họ cho rằng có
như th ế nghệ thuật mới trường tổn, còn nghệ thuật như là sản phẩm của xã hội
tliì luôn luôn thay đổi".“Khi tâm hồn họ dã thoát ra khỏi thực t ế thì những diều
họ nqhĩ, những gì họ nói không còn là sự thật, hoàn toàn lệ thuộc vào ấn tượng
trong Cíim giác liọ... Người nghệ sĩ siêu thực không th ể tìm ra cái dẹp trong xã
hội hiện hữu. Họ rời cái khung cảnh giá tạo và đi tìm cái dẹp trong th ế giới
riênẹ của /ỉọ”[35,551-552]. Do ảnh hưởng của phái tượng trưng siêu thực, đặc
hiệt là ảnh hưởng của Bôđơle khá rõ nên ngay từ Điêu tàn Chế Lan Viên đã
quan niệm thi sĩ không phải là người thường mà là người phi thường, là người
Mơ, người Say, người Điên. Vì vậy, ý tưởng của Chế Lan Viên trong Điêu tàn
cũng là những ý tưởng siêu thực thoát ra ngoài không gian và thời gian. Ở Điêu
tàn, dường như ta thấy một Chế Lan Viên thoát lốt, không còn là một người
dàn Việt nữa mà là một người Chiêm Thành, khóc thương cho giống dân Hời.
Thế giới hình ảnh trong Điêu tàn toàn là cõi âm, nấm mổ, oan hồn vất vưởng,
xương khô, huyệt tối, xác chết, đầu lâu...và những hình ảnh mang tầm vóc vũ
trụ: Trăng, sao, Ngân hà, cung quảng...Vì thế mà có người cho rằng Chế Lan
Viên là một người bị bệnh thần kinh, bệnh điên.
Theo thống kê của chúng tôi: Trong tổng số 36 bài thơ của tập Điêu tàn thì
có tới 31 bài nhà thơ miêu tả hình ảnh cõi âm, bóng đêm. Loại hình ảnh này
xuất hiện 136 lần; 8 bài miêu tả hình ảnh vũ trụ. Loại hình ảnh này xuất hiện
25 lần. Như vậy, loại hình ảnh miêu tả không gian cõi âm, bóng đêm xuất hiện
với tần số nhiều nhất. Những hình ảnh này là hiện thân của một quá khứ đau
buồn mà nhà thơ muốn lẩn trốn vào đó để quên đi thực tại.
Cả d ĩ vãng là chuỗi mồ vỏ tận
Cả tươn ÍỊ lai là chuỗi huyệt chưa thành
Và hiện tại, biết cùng chăng hỡi bạn
Cũng dương chôn lặn ẹ lẽ chuỗi ngày xanh
(
A
'hững nấm m ổ
103
-
Điêu tàn).
Hiện thực trong thơ Chế Lan Viên ở Điêu tàn là hiện thực tưởng tượng, hiện
thực tâm trạng. Thế giới hình ảnh trong Điêu tàn là một thế giới siêu thực được
tạo bằng tướng tượng, bằng hư tưởng gủy ấn tượng kinh dị. Quá khứ nước
Chàm trong thơ ông trở thành một khách thể tưởng tượng để Chế Lan Viên thế
hiện tư tưởng siêu hình.
Ta s ẽ nhập khớp xương lên đỉnh sọ
Ta s ẽ ca những giọng của hồn nhiên
Đ ể máu cạn, hồn tan, tim tan vỡ
Đê trôi đi ngày tháng nặng lãi phiền.
( Đ iệu nhạc diên cu ồn g
Loại liình
-
Đ iêu tàn).
ảnh miêu tả không gian cõi âm, bóng đêm được nhà thơ miêu tả chi
tiết, kỹ càng. Dường như, các hình ảnh được Chế Lan Viênthổi linh
hổn vào
đó, chúng biết trò chuyện, đi đứng, nhớ thương giống như một con người đích
thực vậy.
- Sọ muôn người lần lượt đuổi nhau rơi
- Có tưởng lại mảnh hồn mi đau khổ
- Hay mi nhớ những đêm mờ rùng rợn
( Điêu tàn).
Có lúc chúng hiện hình thành bóng ma, bóng nàng trên cỏ biếc vừa hư ảo,
vừa hiện hữu nét đẹp nữ tính“Swổĩ tóc dài". Nhưng hiển hiện đằng sau nét
duyên ấy là nỗi đau, nỗi sầu bi tha thiết. Đôi khi cõi âm hiện lên đồng loạt, một
thế giới đông đúc của hồn ma.
- Muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi
- Muôn cô hồn tử sĩ íhét gầm vang
- Nliững chiêm nữ m ơ màng trong tiếng sáo...
- Mù tiêng cười ghê rợn dậy vang mồ
( Điêu tàn).
Chế Lan Viên miêu tả cõi âm bằng trí tưởng tượng bay bổng của một hồn
thơ trí tuệ, đặc biệt là từ quan điểm của‘7 'rườ/iq thơ loạn". Với họ, làm thơ là
làm sự phi thường. Thế giới của cõi âm, yêu ma, sọ dừa... chính là thế giới khác
104
thường. Hình ảnh vũ trụ cũng luôn ử trong một trạng thái không bình thường
như chính tâm hồn thi nhân vậy: Trăng điên, trãng lả tả, sao rơi, sao rụng...
Trong thơ Chế Lan Viên, hình ảnh tượng trưng siêu thực được coi như một sở
trường của nhà thơ. Cách tạo ra hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng của ông rất
đa dạng, linh hoạt, đặc sắc mang rõ dấu ấn, cảm xúc riêng của tác giả. Ta bắt
gặp những hình ảnh khái quát tượng trưng được đan cài, xen kẽ linh hoạt với
nhiều tầng bậc ý nghĩa, câu thơ giàu hàm ngôn.
Hãy nghĩ đến việc bìnlì thường này: Cái chết
Sau mỏm đá cuối cùng, nó đấy, trùng khơi
Cái cien thẳm lặng câm mà sóng vổ liên hồi.
( D i chúc của Người - H oa trước lãng Người).
Hình ánh cái chết- trùng khơi- cái đen thẳm lặng câm mà sóng vỗ liên hồi là
hình ảnh tượng trưng cho sự đe doạ khủng khiếp của vô cùng. Cách tạo hình
ảnh tượng trung trong thơ Chế Lan Viên cũng có khi lại trở thành ấn tượng.
Và Bác đã thắng tên khổng lồ điện tử
N hờ màu hồng ngọn cờ, sắc đỏ trái tim.
Ngọn cờ hồng, sắc đỏ trái tim tượng trưng cho ánh sáng của Đảng, của lý
urởng Cách mạng. Còn“khổng lồ điện từ ' ám chỉ Đ ế quốc Mỹ. Nhưng đây quả
là hình ảnh mới lạ, đặc sắc. Từ hình ảnh: Một trái tim hồng, một ngọn cờ hồng,
Chế Lan Viên đã khắc hoạ thành“ một viên gạch hồng” tượng trưng cho sự kiên
cường, bất chấp gian khổ, khó khăn của thế lực thù địch.
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba lê
Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá.
( Người đ i tìm hình của nước - Á n h sán g và ph ù sa).
Nhiều trường hợp Chế Lan Viên sử dụng thành công hình ảnh tượng trưng,
nếu thiếu nó câu thơ sẽ giảm đi sức gợi cảm rất nhiều. Có dạng hình ảnh tượng
trưng để biểu đạt sự việc hiện tượng, một hoàn cảnh xu thế hoặc một trạng thái
cam xúc, tư tưởng tình cảm.
Anh tặng em yêu cliùm hoa sắc trắng
105
Nhưng khi yêu anh yêu dỏ hoa hồng
Tuổi năm mươi lòng yêu nliư lửa dỏ
Nhưng bên ngoài sắc vẫn irắng như không.
( H oa trắn g dỏ
-
H oa trén đá).
Bài thơ nói về tình yêu đàm thắm vào buổi hoàng hôn của tuổi đời. Nhưng cái
mãnh liệt của tình yêu lại được cụ thể hoá bằng hình ảnh “lòng yêu như lửa đỏ"
và tượng trưng ở “anh yên dó hoa hồn ạ". Quả là một sự tinh tế, tình ý không
đơn giản chút nào.
Có những dạng tưựng ỉrưng cho khái niệm, íư tưởng đầy sức thuyết phục và
hấp dẫn V I lối nói hình tượng.
Ớ
Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng
Chớ ngồi trong phồng mà ăn bọt b ể anh ơi
Phải cám lấy ván bài nhân loại
Không đ ể dòng nước chảy trôi x u ô i.
Ta bắt gặp những mảnh suy tư triết lý thâm trầm nào đó qua hình ảnh tượng
trưng trong những bài thơ thời chống Mỹ, thể hiện được cái bản lĩnh của con
người Việt Nam: B úp lộc vừng, Vừa thấy môi hoa, N ội dung và hình thức,
Hoa gạo son , Từ đất đến bình, Thời gian không đợi, Rễ... hoa...“Một bông
hoa chợt n â \ một “chồi non lá nhỏ", “ một vùng hương bay”, từ rễ đến hoa là
sự chắt chiu đau đớn: “ Uống từng giọt nước dời quên. Ăn từng thớ đá dựng nên
sắc hổng" là sự bừng nở một sức xuân bất diệt Hoa trên đá. Sự xanh non của
cây đời chính là sự tuần hoàn vô tận của cuộc đời được gửi vào đó. Những suy
tư triết lý này gắn với tự nhiên nên rất gần với triết lý hồn nhiên của cội nguồn
văn học dân gian truyền thống.
Nhiều hình ảnh tượng trưng theo hướng triết luận với những sự kiện đời
thường có dáng vẻ bình dị: M ùa ve, Đ ề từ, Vũng tàu nhớ và quên, Người thợ
chạm, Kỷ niệm có gì... Đây là những bài thơ đậm màu triết lý dường như đã
đúc kết được những trải nghiệm về cuộc đời, về nghề làm thơ, cho ta nhận rõ
diện mạo, tài năng đích thực và cá tính sáng tạo của nhà thơ.
106