Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 110 trang )
Gam màu tươi sáng chủ yếu được thể hiện trong sự vận động phát triển
của Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN) và một số Đài địa phương mạnh như Đài
Tiếng nói Nhân dân TP Hồ Chí Minh, Đài Tiếng nói Nhân dân tỉnh Phú Yên,
Đài Phát thanh và Truyền hình các tỉnh Vĩnh Long, Bình Dương, Quảng Ninh,
Hải Phòng v.v. Ở các đài này, phát thanh vẫn tiếp tục phát huy hiệu quả và có
được lượng công chúng thính giả thường xuyên và đông đảo.
Hiện nay, mỗi ngày Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng trên 200 giờ trên 8
hệ phát thanh chủ yếu. Cụ thể:
VOV1: Hệ thời sự - chính trị tổng hợp, phát sóng 19 giờ/ngày trên sóng
trung và sóng ngắn, tần số từ (594, 630, 648, 655, 666, 675, 690, 711) kHz và
(5975, 9530, 7210) kHz, và trên sóng FM 100 MHz.
VOV2: Hệ chương trình chuyên đề văn hóa và đời sống xã hội, phát sóng
19giờ/ngày trên sóng trung tần số (549, 558, 580, 702, 729, 738, 783, và 1089)
kHz và (9875, 5925, 6020) kHz, và trên sóng FM 102,7 MHz
VOV3: Hệ âm nhạc, thông tin và giải trí, phát sóng 24 giờ/ngày trên sóng
FM dải tần số (88, 108) MHz: 100, 101, 103, 104, 105, 106 MHz.
VOV4: Kênh dành cho đồng bào dân tộc ít người. Hiện đang phát các
chương trình tiếng Khmer, H'Mông, Ê-đê, Gia-rai, Ba-na, K'Ho, Thái và Xêđăng; phát sóng 12 giờ/ngày trên sóng trung và sóng ngắn trên các tần số
690kHz, 747 KHz, 819 KHz, 873kHz, 1089kHz, 5035kHz và 6165 kHz, 6020
kHz, 7210 kHz.
VOV5: Kênh dành cho cộng đồng người nước ngoài ở Việt Nam bằng 12
thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Nhật, Quan thoại, Đức, Lào, Thái,
Khmer, Indonesia và tiếng Việt trên sóng FM, tần số 105,5MHz, nghe được ở
Hà Nội, Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận.
VOV 6: Kênh dành cho người Việt Nam và người nước ngoài ở các nước
trên thế giới.
VOV-GT: Kênh thông tin giao thông, bắt đầu lên sóng vào 18/5/2009, từ
5:30 đến 2:00 ngày hôm sau. Phát trên hệ FM, tần số 91,0Mhz, phủ sóng ở Hà
Nội, vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực phụ cận. Ngày 02/01/2010, kênh
34
chính thức phát sóng tại Thành Phố Hồ Chí Minh, phủ sóng miền Tây và miền
Đông Nam bộ, cự ly cách TP.HCM 200Km.
VOVTV: Hệ Phát thanh có hình, phát sóng từ 6 giờ đến 24 giờ hàng
ngày. Được phát sóng từ Cột phát sóng analog tại Mễ trì, Hà Nội, công suất
20KW, phủ sóng đồng bằng Bắc bộ và vùng phủ cận.VOVTV hiện phát trên
truyền hình cáp Việt Nam ở 54 tỉnh thành trong cả nước.
“Đài đã trang bị hàng trăm máy phát sóng có công suất từ 10KW đến
2000KW vận hành đúng chế độ, đảm bảo an toàn. Đến nay, Đài TNVN đã và
đang quản lý số thiết bị có tổng công suất 8700 KW trong đó có máy phát công
suất 2000KW lớn nhất khu vực Đông Nam Á được đặt tại các đài phát sóng
phát thanh trải dài từ Nam tới Bắc, từ miền đồng bằng tới miền núi, vùng biển
của Tây Nguyên, Tây Bắc, Đồng Bằng song Cửu Long. Để có thể phủ sóng tới
các vùng khó khăn địa hình phức tạp, đài TNVN đã trang bị nhiều máy phát
sóng trung bằng sóng FM. Trung tâm âm thanh của đài TNVN hiện nay có 40
studio trong đó có 34 studio được sản xuất theo công nghệ số và 400 trạm làm
việc âm thanh bằng kỹ thuật số tại các ban biên tập. Đây được coi là trung tâm
kỹ thuật phát thanh hiện đại nhất khu vực Đông Nam Á hiện nay” [20, tr17].
Có thể lấy ví dụ về một kênh phát thanh rất thành công hiện nay của đài
Tiếng nói Việt Nam là Kênh VOV Giao thông phát trên sóng FM 91Mhz. Với
hơn 40% tổng thời lượng phát sóng trực tiếp, mục đích chính của VOV giao
thông FM 91 MHz là Thông tin, Chỉ dẫn tình trạng ùn tắc và tai nạn giao thông
tại Hà Nội, TPHCM. Thời lượng còn lại của Kênh sẽ cung cấp cho thính giả
những thông tin hết sức bổ ích liên quan đến giao thông, văn hóa giao thông,
giao thông đô thị, phương tiện giao thông, thời tiết, ảnh hưởng của giao thông
đối với môi trường, sức khỏe… Xen kẽ là các thông tin kinh tế, chính trị, xã hội,
thể thao, quốc tế, thương mại, quảng cáo và ca nhạc.
Ngay từ khi ra đời, VOV Giao thông lập tức đã trở thành bạn đồng hành
thân thiết, là nơi giao lưu, tương tác, trao đổi tình cảm của hàng trăm nghìn
người lái xe ô tô - nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí
35
Minh. Chương trình phát thanh hiện đại này vừa là phát thanh trực tiếp, vừa là
phát thanh tương tác, phát thanh thực tế và được phát đồng thời trên cả sóng FM
và trong chương trình của Hệ phát thanh có hình của Đài TNVN trên mạng
interrnet.
Như vậy, trong xu hướng chung của báo chí hiện đại là hội tụ tất cả các
phương tiện biểu đạt (lời nói, âm nhạc, tiếng động, hình ảnh, màu sắc, bố cục,
giao diện trang báo…), phát thanh ở Việt Nam không đứng ngoài cuộc và bước
đầu đã tìm được cách thích ứng hợp lý.
Những người làm phát thanh Việt Nam hiện nay đang cố gắng nâng cao
hiệu quả của thông tin phát thanh trong đời sống xã hội, đảm bảo vai trò định
hướng và hướng dẫn dư luận xã hội; hoàn thiện và tăng thêm các hệ chương
trình phát thanh; chú trọng nâng cao chất lượng nội dung các hệ chương trình,
vừa toàn diện vừa chuyên sâu, đáp ứng nhu cầu thông tin của mọi đối tượng
thính giả; tăng thời lượng, nâng cao chất lượng nội dung chương trình để đáp
ứng nhu cầu thông tin và mục tiêu giáo dục cộng đồng, nhất là đối với vùng
đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường phát thanh đối ngoại, tập trung vào tuyên
truyền đường lối đối ngoại của Việt Nam, phản ánh công cuộc xây dựng phát
triển của nhân dân ta; tăng cường hợp tác quốc tế, phát triển có trọng điểm các
cơ quan thường trú ở nước ngoài, đảm bảo thông tin quốc tế nhanh nhạy, chính
xác, hấp dẫn…
Tuy nhiên, đó là với Đài Quốc gia và các Đài địa phương có truyền thống
và có tiềm lực mạnh, còn với hệ thống phát thanh cấp tỉnh, cấp huyện trong cả
nước thì vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được giải quyết để phát thanh tiếp tục
tồn tại và phát triển. Ngay cả với Đài TNVN, việc vận dụng các phương thức
sản xuất chương trình phát thanh hiện đại cũng đang còn nhiều câu hỏi đặt ra cả
về lý luận và thực tiễn chưa được trả lời. . Đến năm 2002, vẫn có 70% chương
trình phát thanh tại đài TNVN được sản xuất theo phương thức truyền thống,
giống như phương thức đã được áp dụng ở các nước phương Tây từ những năm
50 của thế kỷ trước.
36
Phát thanh VN không được tôi luyện dần dần trong cuộc cạnh tranh với
các PTTTĐC như phát thanh thế giới đã trải nghiệm, mà ngay lập tức phải đối
diện với sự phát triển mạnh mẽ, đồng loạt của tất cả các phương tiện TTĐC.
Trong khi đó, sức ì đã hình thành hơn nửa thể kỷ phát triển của phát thanh VN,
không dễ gì vượt qua một sớm một chiều.
Bước vào thế kỷ XXI, phát thanh Việt Nam đang đứng trước những thử
thách lớn lao, mà việc quan trọng nhất là thu hút được thính giả, những người
đã ít nhiều lãng quên phương tiện truyền thông mù này trong thời đại đa dạng
màu sắc và âm thanh của internet. Trong tình hình đó, việc nghiên cứu để chỉ ra
những đặc điểm cơ bản của phương thức sản xuất các chương trình phát thanh
hiện đại, khẳng định xu hướng vận động phát triển của phát thanh Việt Nam và
những giải pháp giúp cho hệ thống phát thanh Việt Nam phát triển đúng hướng,
phù hợp với hoàn cảnh và những điều kiện cụ thể của Việt Nam đang là một yêu
cầu bức xúc đặt ra không chỉ cho thực tiễn mà còn cho cả công tác lý luận báo
chí, truyền thông nói chung và lý luận chuyên ngành báo phát thanh ở Việt
Nam.
1.3.2 Sự phát triển của phát thanh phi truyền thống tại VN
Phát thanh phi truyền thống mới xuất hiện không lâu và còn khá mới mẻ
tại Việt Nam. Hiện tại ở nước ta, phương thức phát thanh hình ảnh và phát
thanh kỹ thuật số chưa xuất hiện. Phát thanh internet và phát thanh di động mới
chỉ bước đầu manh nha.
Tiềm năng cho phát thanh internet ở Việt Nam phát triển vô cùng lớn.
VN chính thức hòa mạng Internet toàn cầu vào tháng 11/1997. Nguyên thứ
trưởng bộ Bưu chính viễn thông (nay là bộ Thông tin truyền thông) Mai Liêm
Trực từng nhận định: “Nếu như các dịch vụ viễn thông của VN mở ra chậm hơn
thế giới khoảng 40-50 năm, dịch vụ điện thoại di động chậm hơn của thế giới
khoảng 15-20 năm thì internet vào VN chậm hơn so với khởi đầu của thế giới
chỉ chừng 7-8 năm. Còn so với một số quốc gia trong khu vực thì chỉ chậm vài
ba năm”.
37
Việt Nam có tỷ lệ tăng trưởng Internet nhanh nhất trong khu vực và nằm
trong số các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Từ năm 2000,
số lượng người sử dụng Internet đã nhân lên khoảng 120 lần. Cách đây 10 năm,
tỷ lệ sử dụng Internet của Việt Nam nằm cách xa hầu hết các nước châu Á khác.
Hiện tại, Việt Nam đã bắt kịp mức độ sử dụng Internet và đã đạt tới mức độ của
các thị trường mới nổi khác.
Theo VNNIC (trung tâm internet Việt Nam), cuối năm 2010, có 28,6
triệu người Việt Nam sử dụng internet , chiếm 31% dân số. Mỗi năm nước ta lại
có thêm khoảng 2-3 triệu người truy cập Internet.
Tại các khu vực thành thị, 56% dân số truy cập internet. Tỷ lệ sử dụng
Internet ở khu vực đô thị lớn tại Việt Nam (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh)
cao hơn so với những thành phố nhỏ hơn. Hà Nội có tỷ lệ truy cập Internet cao
nhất với hơn 64% dân số truy cập Internet. Ở các thành phố cấp 1 (Đà Nẵng,
Cần Thơ, Nha Trang, Hải Phòng), tỷ lệ sử dụng Internet vào khoảng 57% và tỷ
lệ này cao hơn các thành phố cấp 2. Tuy nhiên, thậm chí ở những thành phố nhỏ
hơn, tỷ lệ truy cập Internet vẫn gần đạt mức 50%.
Người sử dụng Internet tại Việt Nam truy cập Internet rất thường xuyên.
Gần 90% người sử dụng Internet truy cập Internet hơn 1 lần 1 tuần và hơn 60%
truy cập hàng ngày. Chỉ 1 phần nhỏ trong số người truy cập Internet (8%) sử
dụng Internet ít hơn 1 lần 1 tuần. Người sử dụng Internet tại Việt Nam cũng
dành khá nhiều thời gian để lên mạng. Vào các ngày trong tuần, trung bình họ
truy cập khoảng 2 giờ 20 phút. (Theo Báo cáo NetCitizens Việt Nam năm
2011)
Mạng internet đã tạo tiền đề thuận lợi cho việc hình thành phương thức
“phát thanh internet” tại VN. Hiê ̣n nay , phát thanh internet ở Việt Nam
bước đầu phát triển và chưa đạt
mới
hiê ̣u quả cao . Có hai hình thức phát thanh
internet đang tồ n ta ̣i ở Viê ̣t Nam . Đó là phát trực tuyế n các kênh phát thanh qua
38
internet và sản xuấ t chương trình phát thanh dựa trên những thông tin từ báo chí
sẵn có.
Ngày 3/2/1999, website phát thanh đầu tiên lên mạng internet có tên
VOV News (Đài Tiếng nói VN). Bên cạnh VOV News, một số website báo chí
hoặc website thông tin khác như Nhân dân điện tử, VDC Media, VASC Orien…
cũng thể hiện phần âm thanh trên mạng như là một bộ phận cấu thành website
của mình.
Tháng 11/2003, VTC là đơn vị đầu tiên đi tiên phong trong việc ứng dụng
công nghê ̣ nén chuẩ n MPPEG
4 tiên tiế n nhấ t thế giới vào cung cấ p dich vu ̣
̣
truyề n phát trực tuyế n các chương trinh phát thanh , truyề n hinh quảng bá trên
̀
̀
mạng internet phục vụ nhu cầu thông tin tuyên truyền đối ngoại dành cho cộng
đồ ng người Viê ̣t Nam ở nước ngoài .
Đài phát thanh thành phố Hồ Chí Minh (VOH) tuy ra đời sau nhưng la ̣ i là
trang nghe phát thanh internet hiê ̣n đa ̣i và tiê ̣n ich nhấ t
́
chương trinh phát thanh đươ ̣c phân
̀
. Trên trang này , các
chia thành các chuyên mu ̣c
(44 chuyên
mục). Tài liệu âm thanh tổng hợp trong các chuyên mục này được cắt nhỏ từ các
chương trinh phát thanh của VOH . Bằ ng cách này , thính giả có thể dễ dàng , chủ
̀
đô ̣ng tim kiế m chương trinh phát thanh minh yêu thich .
̀
̀
̀
́
Như vậy, VOV, VTC, VOH đều triển khai phát thanh trực tuyế n các kênh
phát thanh qua internet . Tuy nhiên hầu hết là streamming dữ liệu phát sóng.
Hình thức thứ hai là các đơn vị báo chí sản xuất chương trình phát thanh
và đăng tải các file âm thanh này lên trang báo điện tử của mình. Tuy nhiên, trừ
Tuổi trẻ online, các trang báo điện tử khác không tập hợp được các file âm
thanh này vào mô ̣t chuyên mu ̣c mà chỉ xuấ t hiê ̣n rải rác
, lẻ tẻ . Ví dụ như
vietnamnet , ngoisao, vnexpress. Những file âm thanh này chủ yế u dùng kèm
theo bài viế t để bổ sung thông tin cho bài viế t (như các báo kể trên ) hoă ̣c là đo ̣c
lại bài viết.
Phát thanh internet ở Viê ̣t Nam mới chỉ manh mún xuấ t hiê ̣n
, phát triển
chậm chạp và chưa có nhiều khởi sắc. Điề u này xuấ t phát từ rấ t nhiề u lý do
39
trong đó mô ̣t phầ n vì các cơ quan báo chí của chúng ta chưa thực sự đánh giá
đúng tầ m quan tro ̣ng của phát thanh internet đồ ng thời chưa có sự đầ u tư để xây
dựng cơ sở vâ ̣t chấ t cũng như đô ̣i ngũ sản xuấ t phát thanh internet .
Đối với phát thanh di động
Tại Việt Nam, tính đến tháng 7/2012, số lượng thuê bao di động trên cả
nước vào khoảng 122,79 triệu thuê bao chiếm tới 92,5% thuê bao viễn thông,
còn lại 7,5% thuê bao điện thoại cố định. Tuy nhiên, theo thống kê của Neilsen,
số lượng điện thoại thông minh tại Việt Nam vẫn còn chiếm thị phần khá nhỏ
khoảng 30% so thiết bị điện thoại thông thường.
Như vậy, sự tăng trưởng của thị trường điện thoại di động nói chung đã
có phần chậm lại nhường bước cho sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường
Smartphone. Theo khảo sát của ricsson ConsumerLab tại triển lãm - hội nghị
quốc tế Mobile Vietnam 2012 đã đưa ra con số dự báo số người sử dụng
smartphone (điện thoại thông minh với thế mạnh như truy cập mạng xã hội, lướt
net, check mail, chạy các ứng dụng (app) có tỉ lệ sử dụng rất cao) tại Việt Nam
sẽ tăng trưởng từ 16% lên 21%. Trong cùng khoảng thời gian này, tỉ lệ người
dùng máy tính bảng tăng từ 2% lên 5%.
Sự tăng trưởng của điện thoại di động thông minh thúc đẩy tỉ lệ truy cập
Internet trên di động tăng vọt. Năm 2007, thế giới chỉ có khoảng 400 triệu người
truy cập Internet bằng điện thoại nhưng đến năm 2011 thì đã có khoảng 1 tỷ
người. Tốc độ phát triển số lượng người truy cập internet bằng di động tăng gấp
2,5 lần trong vòng 5 năm. Dự báo con số này tiếp tục tăng lên từ năm 20122015, số người truy cập internet bằng di động sẽ vượt qua số lượng truy cập
bằng máy tính vào năm 2014 với con số hơn 1,6 tỷ người.
Tại thị trường Việt Nam, đã có gần 2/3 (62%) người dùng điện thoại
thông minh để lướt web. Trong khi số lượng điện thoại thông minh của Việt
Nam chưa cao bằng một số nước khác. Theo nghiên cứu của Nielsen chỉ ra có
đến 42% người dùng điện thoại thông thường muốn chuyển sang điện thoại
40
thông minh trong vòng 6 tháng tới. Do đó, việc sử dụng internet bằng điện thoại
di động tại Việt Nam sẽ còn tăng rất cao.
Truy cập Internet bằng điện thoại di động chủ yếu phổ biến với nhóm tuổi
trẻ. Những người trong độ tuổi 15-24 truy cập Internet bằng điện thoại di động
nhiếu gấp 2 lần những người trong độ tuổi 35-49.
Mặt khác, tại thị trường Việt Nam về phía các nhà cung cấp các phiên
bản chạy trên thiết bị di động cũng cho biết, tốc độ phát triển về lượt truy cập
cũng như số lượng người truy cập các phiên bản dành cho mobile của họ cùng
tăng cao. Tính trong những tháng đầu năm 2012, phiên bản mobile trên toàn hệ
thống các website của Admicro (đơn vị kinh doanh quảng cáo trực tuyến của
VC Corp) trung bình thu hút khoảng 9 triệu unique visitor. Riêng phiên bản
mobile của báo Dantri đạt khoảng 120 triệu lượt truy cập (page views) (nguồn
vneconomy).
Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng trong việc sử dụng smarphone và máy
tính bảng tại Việt Nam đang và sẽ tạo tiền đề phát triển đầy tiềm năng cho
ngành kinh doanh dịch vụ 3G trong nước.
41
Tiềm năng như vậy nhưng phát thanh di động ở VN mới chỉ rất “sơ khai”.
Viettel Radio là kênh phát thanh trên điện thoại đầu tiên tại Việt Nam, mở ra
một phương tiện tiếp cận thông tin mới cho khách hàng một cách nhanh chóng
và chính xác. Để nghe chương trình radio này, điện thoại di động cần có hỗ trợ
3G và sử dụng dịch vụ 3G của Viettel. Viettel Radio chính thức phát sóng từ
tháng 9/2010, sau 3 tháng thử nghiệm đã đi vào kinh doanh và bước đầu có
những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, phiên bản radio di động tại Việt Nam chưa tạo được phong
cách riêng và dấu ấn đối với thính giả. Sự ra đời và phát triển của Viettel radio
có thể ví như “muối bỏ bể” giữa một rừng thông tin, truyền thông, báo chí. Các
nhà mạng khác (Mobile phone, Vina phone…) có thể tận dụng thế mạnh để
triển khai hình thức phát thanh mới này thì lại tỏ ra khá thờ ơ và dường như
chưa có ý định triển khai. Viettel Radio vẫn đang “độc diễn” trong thị trường
phát thanh di động tại Việt Nam.
Tiểu kết chƣơng 1
Mặc dù ra đời sau báo in hàng trăm năm và ngay lập tức bị truyền hình
cạnh tranh, rồi đến internet, nhưng phát thanh vẫn chiếm một vị trí quan trọng
trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng.Trong cuộc sống hiện
đại, tác phong công nghiệp tạo ra áp lực rất lớn về công việc và thời gian cho
con người, báo phát thanh sẽ tạo ra sự thư giãn giải trí cũng như tiếp nhận thông
tin tiện lợi bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, kể cả khi đang nghỉ ngơi cũng như
đang làm việc mà các loại hình báo chí khác không thể có được.
Phát thanh truyền thống với những ưu điểm sẵn có thu hút được một lượng
thính giả nhất định, song nếu không có những thay đổi phù hợp thực tế, sẽ sớm
trở nên “tụt hậu”. Sự ra đời của các phương thức phát thanh phi truyền thống là
một xu hướng tất yếu. Các phương thức phát thanh mới với những thế mạnh
riêng này, đã và đang làm thay đổi diện mạo của nền công nghiệp phát thanh,
42
đưa phát thanh đến gần hơn với thính giả, làm hài lòng công chúng từ những
nhu cầu riêng tư nhất.
Thay đổi không phải là vấn đề riêng của Việt Nam. Phát thanh trên thế
giới cũng đang trong quá trình thay đổi về chất: phát thanh không còn mang tính
khu vực do vùng phủ sóng mà mang tính toàn cầu, thính giả có thể tham gia làm
chương trình, nguồn thu nhập phát thanh sẽ từ quảng cáo, nội dung, phí cấp
phép, tài trợ, thời gian chuyển dịch theo ý muốn, phát thanh đối tượng, thiết bị
thu thanh được đa dạng hóa, có thể thực hiện trong bất cứ mạng lưới số nào.
Thay cho việc nghe đài theo lịch phát sóng cố định, thính giả có xu thế nhấn
mạnh yếu tố “thời gian theo ý tôi”. Vấn đề đặt ra không còn là trực tuyến hay
không trực tuyến mà là thời gian hoàn toàn do thính giả chủ động, họ có thể
nghe bất cứ lúc nào họ muốn. Quá trình biến đổi hệ thống phát thanh truyền
hình thành một hệ thống đa phương tiện có tính tương tác cũng là quá trình thay
đổi các giá trị xã hội và chức năng của phát thanh truyền hình.
Có thể dự đoán trong thế kỷ XXI, báo phát thanh nói chung và phát thanh
ở Việt Nam sẽ lấy lại vị thế trước đây trong hệ thống các phương tiện báo chí,
truyền thông đại chúng và sẽ có bước phát triển mạnh cả về bề rộng và chiều
sâu trong xu thế đa phương tiện.
43
CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA TUỔI TRẺ
RADIO VÀ VIETTEL RADIO
2.1
Giới thiệu về Tuổi trẻ radio và Viettel radio
2.1.1 Tuổi trẻ Radio
Báo Tuổi Trẻ ra đời ngày 02 tháng 09 năm 1975, là cơ quan ngôn luận
của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, bao gồm các ấn bản: nhật báo
Tuổi Trẻ, Tuần Báo, Tuổi Trẻ Cười, báo điện tử Tuổi Trẻ và Tuổi Trẻ Mobile.
Báo phát hành trên cả nước với số lượng gần 500.000 bản/ngày, là một trong
những tờ báo có số lượng ấn bản lớn nhất tại Việt Nam. Hiện nay, tòa soạn Báo
Tuổi Trẻ được tổ chức như một nhà máy chuyên nghiệp, có nguyên liệu, quy
trình sản xuất và thị trường riêng. Trong thời đại internet, có những sự kiện,
thông tin độc đáo được khai thác mà nhà báo là những người dân bình thường,
chứng kiến hoặc tham gia vào sự kiện. Độc giả giờ đây mang 2 chức năng:
người đọc và người làm báo không chuyên và kênh internet đang giúp họ thực
hiện điều này nhanh nhất. Ông Huỳnh Sơn Phước, nguyên Phó Tổng Biên tập
Báo Tuổi Trẻ, cho rằng: "Để Tuổi Trẻ tiếp tục tồn tại như một tòa soạn mở, nó
phải là hệ thống tích hợp các loại hình truyền thông bên cạnh báo in. Mỗi loại
hình có chức năng riêng nhưng vẫn bổ sung qua lại". Quan điểm này cho thấy,
dù đang giữ "chiếu trên" nhưng những người làm báo in vẫn hiểu rằng, thị phần
của nó chắc chắn sẽ bị san sẻ cho các kênh truyền thông hiện đại khác. Thế nên,
trong tòa nhà của Báo Tuổi Trẻ đã và đang hình thành khối "đa chủng truyền
thông" với sự xuất hiện của Tuổi Trẻ Online bên cạnh Tuổi Trẻ báo giấy. Cuối
năm 2003, khi mới ra đời, Tuổi Trẻ Online xếp thứ 1446 trong số các website
tiếng Việt được đọc nhiều nhất trên toàn thế giới. Đến ngày 1.12.2007, nó đã
vươn lên vị trí 383. Con số trên nói lên điều gì? Rằng sức mạnh của internet
không thể bị xem thường. Tuổi Trẻ Online còn tích hợp cả chức năng xem
truyền hình, nghe radio bản tin nhanh SMS trên điện thoại di động và cả mạng
xã hội. Ông Hàng Phước Long, Phó Tổng Thư ký Tòa soạn Báo Tuổi Trẻ, hình
44