1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

1- MỘT SỔ VẤN ĐỂ VỂ CNH, HĐH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.46 MB, 93 trang )


Mỹ ở miền Bác, tập trunu sức nu ười sức của tri viện cho miền Nam xứng đáng

là hàu phươnu vữnu chác để thống nhất đất nước. Đồng thời đã xây dựng được

cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH đặc biệt là các ngành thuộc công nghiệp

nặng như: công nghiệp giao thông, xây dựng... Từ năm 1975 tình hình xã hội

có nhữnLỊ thay đổi, trong uiai đoạn này đất nước đã hoàn toàn thống nhất, cư

sứ kinh tế - xã hội của 02 miền có những đặc trưng không giống nhau. Đồng

thời chúng ta phải đối mặt với những thách thức mới đó là nguồn viện trợ từ

Liên xỏ và các nước XHCN bị cắt giảm, đế quốc Mỹ thực hiện chính sách

cấm vặn đối với Việt Nam. Trước tình hình đó lẽ ra CNH phải có sự thay đổi

cho phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu

nâng cao đời sống nhân dàn, theo kịp với quá trình phát triển chung của thế

giới. Nhưng do vẫn duy trì chú trương "lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu

tiên phát triển công nghiệp nặng" quá lâu, hậu quả là làm cho nền kinh tế

chậm phát triển, cơ cấu kinh tế bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông

nghiẹp yếu kém không đáp ứng được những yêu cầu trong nước. Công nghiệp

nặng đầu tư lớn nhưng không phát huy tác dụng. Đời sống nhân dân vốn đã

nghèo do hậu quả của chiến tranh để lại, cộng với sự "thắt lưng buộc bụng"

để đầu tư vốn cho công nghiệp nặng khiến cho nó càng trở nên nghèo khó

hơn, niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước bị giảm sút.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (6/1986) đã thực hiện một bước ngoặt

lứn cho sự nghiệp CNH. Tuy vẫn xác định CNH là con đường đưa đất nước đi

lèn CNXH nhưng nội dung CNH đã chuyển hướng sang chú trọng vào 3

chương trình lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

CNH từ đây được thực hiện trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý ở tầm vĩ

mô của nhà nước theo định hướng XHCN.

Trải qua các kỳ đại hội Đảng VII, VIII, IX nội dung CNH đã có sự bổ

sung, sứa đối phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước cũng như bối

cảnh quốc tế hơn.

Đường lối "đổi mới" toàn diện cùng với cơ chế thị trường được áp dụng

kết hợp với những nội dung CNH phù hơp với điều kiện hoàn cảnh đất nước,

n h ờ Vày trong nhữnií năm qua đã khơi dậy được mọi tiềm năn g trong sản xuất.



6



đ ặ j biệt là tiềm nãrm sức lao ilộniỊ, tạo động lực to lớn thúc đẩy nền kinh tế

tăng trưởng và phát triến.

Đánh giá thành tựu 10 nãrn tiến hành đổi mới tại đại hội Đánỵ toàn quốc

lần thứ VIII, Đảng ta đã khárm định

"tình trạng đình đốn trong sân xuất, rối ren trong lim thông được khấc

pluic, kinh tê'táng trưởng nhanh, nhịp.độ tảng tổng sản phẩm trong nước GDP

bình quân hàng núm thời kỳ 1991 - 1995 đạt 8,2%, lạm phát đẩy lùi từ

77-1,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995 ... lương

thực không nhữìig đủ ủn mù cỏn xuất khẩu được mối năm khoắng 02 triệu tấn

gạo" [17,10].

Việc xác định mỏ hình, nội dung đúng đấn của CNH cùng với cơ chế thị

trường định hướng XHCN là một chủ trương hết sức khoa học, làm động lực

to lớn đưa nước ta nhanh chóng ổn định nển kinh tế, chính trị xã hội. Trên cơ

sở đó quốc phòng, an ninh được củng cố, quan hệ đối ngoại phát triển mạnh

mẽ, phá thế bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ, mở rộng hợp tác và tham gia

tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.

Như vậy, CNH là nhiêm vu trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên

CNXH ở nước ta nhằm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát

triển phàn công lao động xã hội, khắc phục tình trạng manh mún phân tán của

sản xuất nông nghiệp, tạo cơ cấu kinh tế hợp lý nâng cao đời sống vật chất và

vãn hoá tinh thần cho nhân dân.

Những thành công của sự nghiệp đổi mới một mặt giúp chúng ta đánh giá

đúng những ưu nhược điểm của CNH thực hiện trong cơ chế quan liêu bao

cấp, mặt khác đó cũng là cơ sở để chúng ta định ra những bước đi cho CNH

trong thời kỳ mới.

CNTÍ giai đoạn từ 1960 - 1986 bên cạnh những thành công đã đạt được

vẫn còn mắc phải những hạn chế, sai lầm trong việc xác định mục tiêu, mô

hình, bước đi, tổ chức thực hiện trong thực tế.

Hạn chế của quá trình CNH ử Việt Nam giai đoạn 1960 - 1986 cụ thể

như s au:



7



Thứ nhất: xác định mỏ hình CNH còn chưa thích hợp, quá cổng kềnh

thiên về công nghiệp nặng, áp dụng một cách máy móc mỏ hình CNH của

Liên Xỏ không tính đến hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Lẽ ra

CNH ở nước ta phải coi nông nghiệp là mật trận hàng đầu, kết hợp hài hoà

phát triển nông nghiệp với các ngành kinh tế khác. Bởi Việt Nam có đến

>80% dân số sống bằng nông nghiệp cộng với chiến tranh phá hoại ác liệt,

CNH thời kv này chưa coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu do vậy chưa kết

hợp nguồn lực trong nước với ncuồn lực thế giới, giữa sản xuất cho thị trường

trong nước với sản xuất cho xuất khẩu. Theo thống kê "sản lượng lương thực

binli quản đầu người dưới 300kg; GDP bình quản đầu người khoảng dưới

Ị00USD" [14, 73J.

Thứ hai: do tập trung vào việc đầu tư công nghiệp nặng, ưu tiên phát triển

công nghiệp nặng nên cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ bất

hợp lý. Nông nghiệp chậm phát triển, dịch vụ hầu như không phát triển duy

chí có một số mặt hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu được nhà

nước phân phối thông qua hình thức tem phiếu. Hình thức này chỉ phù hợp

trong điều kiện chiến tranh. Khi thống nhất đất nước cơ cấu kinh tế trên phải

chuyển đổi nhưng quá trình chuyển đổi diễn ra còn chậm, chủ yếu vẫn đầu tư

tiếp tục cho công nghiệp nặng.

Thứ ba: công nghiệp nặng tuy đầu tư vốn lớn nhưng chưa có trọng tâm

trọng điểm cho nên không phát huy được nguồn vốn, hiệu quả kinh tế không

cao, nhiều xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ kéo dài, tỷ trọng đóng góp của

công nghiệp vào GDP còn nhỏ bé "năm 1976 là 25,3%, năm 1980 lả 20,2%,

năm 1986 là 28,1%'' [14, 12].

Thứ tư: CNH trong thời kỳ này không thấy được đặc điểm của nước ta

khi đi vào CNH vẫn chỉ là một nước có nền kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa vào

nông nghiệp. Nếu lấy CNH nồng nghiệp là mặt trận hàng đầu chúng ta sẽ tận

dụng được nguồn lao động dồi dào cũng như các tiềm năng khác trong lĩnh

vực nông nghiệp như thị trường, cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhất là đầu tư còn ít.

Trên cơ sở đó sẽ phát huy dược thế mạnh trong nước, góp phần chuyển dịch

lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.



8



'ĩh ứ năm: các bước đi của quá trình CNH diễn ra còn chậm, chưa kết hợp

CNH với HĐH, chưa biết "đi tắt" "đón đầu" những thành tựu của khoa học

công nghệ hiện đại. CNH mà trọng tâm là công nghiệp nặng chỉ ở trình độ CƯ

khí hoá trong khi thế giới đã bước sang tự động hoá..

Rõ ràng mặc dù CNH được xem là trọng tâm để xây dựng thành công

CNXH nhưng nhận thức về CNH còn đơn giản, phiến diện, máy móc. Mục

tiêu CNH đề ra quá lớn, dàn trải quá nhiều nội dung đặc biệt tập trung quá

nhiều nguồn vốn vào phát triển công nghiệp nặng. Mặt khác CNH lại được

thực hiện theo kiểu khép kín hướng nội, trong co chế bao cấp khóng chú ý đến

lợi ích người lao động, triệt tiêu nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác... đã

ỉàrn cho quá trình CNH thời kỳ 1960-1986 chưa phát huy hiệu quả.

1.1.2- Đặc điểm của quá trình CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay

Quá trình CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay được đánh dấu bằng mốc

thời gian từ nãm 1986. Đương nhiên chủ trương CNH, HĐH trong giai đoạn

hiện nay có những đặc điểm không giống với CNH XHCN mà trước đây

chúng ta đã tiến hành, cũng không dập khuôn một cách máy móc bất cứ mô

hình CNH nào trên thế giới. CNH trong giai đoạn hiện nay được xác định rõ

trong nghị quyết hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khoá VII là

"CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, x ã hội từ sử dụng lao động

thú công là chính sang sử dụng một cách p h ổ biến sức lao động cùng với công

nghệ, phương tiện và phươìig pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển

của công nghiệp và tiến bộ của khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao

động xã hội c a o " [16, 65].

Cần khẳng định nội dung, cách thức, con đường, mục tiêu của quá trình CNH

đã được "đổi mới" điều chỉnh cho phù hợp với tình hinh kinh tế - xã hội, điều kiện

cụ thể của Việt Nam, theo kịp với xu thế phát triển chung của nhân loại.

Thực tế cho thấy CNH ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được

những thành tựu rất lớn, song so với thế giới chúng ta còn thua kém một

khoảng cách rất lớn: Nền sản xuất nước ta chủ yếu vẫn là nền sản xuất nông

nghiệp, công nghiệp nhỏ bé, kỹ thuật thủ công lạc hậu. Nước ta vẫn thuộc loại



9



nước nghèo trên thố giới. Cu thể thu nhập quốc dân tính đến nãm 2000 là 400

USD/1 người/1năm

"trong khi đó ở các nước công nghiệp phút triển tại năm 1988 thì Anh lù

9620 USD/1người/1nám; Pháp là 10.780 USD/1người/1năm; Đức là 11.400

USD/1người/ ỉ năm;



N hật lả



10.500



U SD/ỉ người/1 năm;



M ỹ lù



14.010



USD/lnqườHInăm, còn Trung Quốc là 2.500 USD/1người/1năm" [21, 29].

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: để thoát khỏi tình trạng nghèo

nàn và lạc hậu, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, hội nhập vào khu vực

và trên thế giới chúng ta không còn con đường nào khác ngoài coil đuờiig tiếp

tục thực hiện CNH, HĐH đất nước.

Như vậy quan điểm của Đảng về CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay đã

được khẳng định tại văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX

cùng nhiều hội nghị trung ương. Song về cơ bản đặc điểm của CNH, HĐH

trong giai đoạn hiện nay là:

Thứ nhạt: C N H phải đi liền với HĐH:

Trong giai đoạn hiện nay CNH không thể thực hiện một cách tuần tự mà

lịch sử nhân loại đã trải qua từ thủ công — nửa cơ khí — cơ khí — tự động

>

>

»

hoá. Chúng ta cũng không thể tiến hành CNH với kỹ thuật cổ điển và cơ chế

quản lý cũ. Cả 2 cách làm như vậy sẽ làm cho nước ta ngày càng trở nên lạc

hậu. Đảng ta đã chi rõ bối cảnh thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn trên

mọi lĩnh vực nguyên nhân chính là do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ

diễn ra như vũ bão. Nếu chúng ta tiến hành CNH theo con đường mà các nước

công nghiệp đã đi qua thì mãi mãi chúng ta chỉ là nước lạc hâụ, lệ thuộc, thậm

chí sẽ trở thành bãi thải công nghiệp của thế giới.

Việc tiến hành CNH đi liền với HĐH cho phép rút ngắn khoảng cách lạc

hậu, bằng cách kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với những bước

dột phá nhằm tranh thủ những cơ hội để đi tắt, đón đầu nắm bắt những công

nghệ mới phát triển theo chiều sâu tạo nên những nghành mũi nhọn theo kịp

với trình độ tiến triển của khoa học - công nghệ hiện đại.

Lịch sử CNH trên thế giới cho chúng ta thấy không thể tiến hành CNH

theo những bước đi tuần tự cũng như cách quản lý cũ.



10



Để tiến hành CNH nước Anh phải mất tới 120 năm mới đạt được một nền

côn ụ nghiệp dẫn đầu thế giới ở thế kỷ XVIII. Nhưng đối với nước Mỹ thời

gian CNH lại được rút ngắn còn 90 năm. Đối với Nhật Bản thời gian cho CNH

được rút ngắn hơn nữa chỉ còn 50 nám. Các nước NIEs đi sau như Hàn Quốc,

Hồng Kỏntí, Đài loan, Singapore v.v... thời gian tiến hành CNH được rút ngắn

hơn nữa chí còn 30 năm. Ngày nay đối với các nước ASEAN con đường CNH

rút ngắn còn 20 năm. Như vậy từ bài học lịch sử của các quốc gia tiến hành

CNH chúng ta có thể khẳng định rằng những nước đi sau nếu biết tiếp thu

kinh nghiệm và tận dụng lợi thế về vốn, thị trường công nghệ của các nước đi

trước thì thời gian CNH sẽ được rút ngắn rất nhiều (các nước ASEAN tiến

hành CNH sc với nước Anh rút ngấn được 0Ỉ Ihế kỷ). Việt Nam thực hiện

CNH như là thành viên "đi sau của các nước đi sau" vì vậy



"Đủng ta chủ



trương không lặp lại nhữìig mô hình C N H cổ điển, mà tự tìm lấy mội mô hình

pliù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện th ế giới ngày nay" [ 4 /.

Thứ hai: CNH , HĐH được thực hiện trong nền kinh t ế hàng hoá vận

động theo cơ c h ế thị trường định hướng XHCN

Trong khi nghiên cứu lịch sử xã hội loài người C.Mác đã chỉ ra rằng: ở mỗi

giai đoạn lịch sử cụ thể quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất và trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất, đây được coi như quy luật của sự phát triển xã

hội. Ở nước ta việc thực hiện CNH , HĐH chính là thúc đẩy lực lượng sản xuất

phát triển song do tính chất không đồng đều về trình độ giữa các vùng miền nên

việc thiết lập các thành phần kinh tế vận động theo cơ chế thị trường chính là tạo

ra quan hệ sản xuất phù hợp tương ứng với tình trạng đó.

Kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường là mô hình

kinh tế tiến bộ, là nấc thang cao hơn kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc. Trong kinh

tế thị trường định hướng XHCN phải có sự quản lý của nhà nước, đây "là mô

hình kinh tế mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện trên thị

trường có sự quản lý của nhà nước" (40, 170).

Trước 1986 CNH được thực hiện trong nền kinh tế chỉ huy, do chỉ có

hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể, lại cộng với sự bao cấp từ

trên xuống dưới, từ đầu vào đến đẩu ra của sản phẩm, nên đã không kích thích

được việc nâng cao tay nghề, áp dụng khoa học - công nghệ vào trong quá

11



trình sản xuất kinh doanh, khiến cho việc thực hiện CNH chưa đạt hiệu quả

cao. Mật khác CNH thời kỳ này chỉ tập trung ở công nghiệp nặng còn nông

nghiệp dịch vụ không trú trọne do đó không huy động được sức mạnh toàn

dàn trong việc thực hiện CNH.

Thực hiện kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan để khắc phục

những hạn chế mà hậu quả của nền kinh tế bao cấp để lại và đẩy nhanh quá

trình CNH, HĐH đất nước.

Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường,

định nướng XHCN trong giai đoạn hiện nay ở nước ta bao gồm 6 thành phần

kinh tế; Ngoài thành phần kinh tế Nhà nước, tập thể còn có sự tham gia của

thành phần tư bản và tư nhân. Đa dạng hoá các thành phần kinh tế thực chất là

huy động mọi nguồn lực, tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ của toàn dân

cùng nguồn lực của thế giới nhằm tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức phát

huy sức m ạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Cơ chế vận hành của

kinh tế ở nước ta là thị trường. Căn cứ vào thị trường nhất là các quy luật của

nó (quy luật giá trị, quy luật cung câù, quy luật cạnh tranh .V.V..) các chủ thể

phải tính đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Muốn thu nhiều lợi

nhuạn nhất về phía mình buộc các chủ thể phải huy động sức mạnh về vốn, áp

dụng công nghệ, khoa học cũng như trình độ quản lý tiên tiến, nâng cao khả

náng cạnh tranh trên thị trường. Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường là đòn

bẩy đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.

Thực tế cho thấy CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường vừa có

mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. v ề mặt tích cực nó có tác dụng kích thích

mạnh sự quan tâm thường xuyên đến việc đổi mới áp dụng khoa học - công

nghệ, trình độ quản lý , tính nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Nó bình

tuyển các doanh nghiệp, cá nhân giỏi tiếp nhận những nhân tố tích cực tiến

hộ, đào thải những nhân tố lạc hậu. Trên phương diện này nó đẩy nhanh quá

trình CNH, HĐH đất nước, v ề mặt tiêu cực : do chạy theo lợi nhuận các nhà

sán xuất không tính đến mật trái của các thành tựu khoa học công nghệ gây ra.

Quan hệ giữa con người và con người bị " dìm xuống dòng nước lạnh" của sư



12



tính toán ích kỷ, tình trạng nhân phẩm đạo đức coi nhẹ, tôn thờ đồng tiền, tàn

phá thiên nhiên một cách không thương tiếc.

Như vậy thực hiện CNH , HĐH trong điều kiện kinh tế hàng hoá mà

giai đoạn cao là kinh tế thị trường như con dao hai lưỡi song vấn đề là người

sử dụng nó là ai và nhằm mục đích gì? Đương nhiên con dao trong tay bác sĩ

sẽ cứu được người, còn trong tay sát thủ sẽ giết chết người, ở đây nhà nước

có vai trò quyết định trực tiếp đến mục tiêu của CNH, HĐH.

CNH trong chủ nghĩa tư bản đẻ ra sự phân hoá giầu nghèo một cách quá

đáng giữa một bên là giai cấp tư sản sở hữu phần lớn của cải trong xã hội với

một bên là giai cấp vô sản sống trong cảnh nghèo đói bần cùng. Chẳng hạn

hiện nay, theo báo cáo của OECĐ (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) thì

"tài sản của 3 tỉ phú hàng đầu nhiều hơn tổng GNP của tất cả các nước đang

phát triển với 600 triệu dân của họ" {69,3]Rõ ràng vơí phương thức bóc lột, giai cấp tư sản tạo ra sự nghèo khổ

không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn cả thế giới.

Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của

ĐCS Việt Nam trong thời kỳ qúa độ tồn tại là một tất yếu. C.Mác đã từng chỉ

rõ "giữa x ã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biêh

cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời

kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không th ể là cái gì khác hơn là chuyên

chính cách mạng của giai cấp vô sản" [ 6,31,32].

Nhận thức vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển lực lượng

sản xuất xã hội, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước của kinh tế thị

trường Đảng ta đã khẳng định: " Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH,

mà là thảnh ticii phát triển của nền văn minh nhân loại, tổn tại khách quan

cần thiết cho cô tỉ %cuộc xây dioig C N X tỉ và cả khi CNXH đã được xây dipĩg"

[17, 97]

Với các chủ chương chính sách và hệ thống pháp luật mà nhà nước sử

dụng đã và đang tiếp tục đẩy nhanh quá trình CNH , HĐH đất nước.

Thứ ba: C NH , HĐH dựa trên sức mạnh của nhân tỏ con người.

13



Thông thường đối với mỗi quốc gia, điều kiện để phát triển kinh tế - xã

hội là điều kiện địa lỷ, tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất kỹ thuật hiên

đại... Nhưng tự bản thân các yếu tố ấy không thể phát huy tác dụng nếu thiếu

sự tác động của con người. Song ở những giai đoạn lịch sử khác nhau vai trò

và vị trí của các yếu tố cũng khác nhau.

Trong khi nghiên cứu lịch sử xã hội loài người AlvinToffer đã chỉ ra rằng

trong nền văn minh nông nghiệp (ở đây AlvinToffer phân chia lịch sử xã hội

ra thành các nền văn minh còn Mác phân chia lịch sử xã hội thành các hình

thái kinh tế - xã hội, tương ứng với văn minh nông nghiệp là hình thái kinh tế xã hội Cộng sản nguyên thuỷ, Chiêm liũu nô lệ, Phong kiến) vai trò quyết

định sự phát triển là do điều kiện địa lý và tài nguyên thiên nhiên. Ông chỉ rõ

"nền văn minh nông nghiệp chỉ phát triển ở những đâu có điều kiện tự nhiên

thuận lợi nhất, thường ở bên những dòng sông với các cánh đồng phì nhiêu

màu mỡ" [49,14]. Còn ở làn sóng thứ 2 - nền văn minh công nghiệp (tương

ứng với hình thái kinh tế - xã hội TBCN, từ giai đoạn đầu đến hết thế kỉ XIX)

vai trò quyết định sự phát triển lại do trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã

hội. Ông khẳng định "máy móc và trình độ máy móc - kỹ thuật cơ khí đã tạo

ra sức mạnh mới cho con người, nhân bội trình độ khống c h ế tự nhiên của con

người, mini lợi ích ngày càng tăng cho mình" [49 ,15].

Ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, với sự xuất hiện

của văn minh tin học thì vai trò và vị trí quyết định đến sự phát triển xã hội

chính là con người, đặc biệt là trí tuệ của họ. Bởi lẽ tài nguyên thiên nhiên dù

giàu có đến nhường nào, nguồn vốn có nhiều đến bao nhiêu khi khai thác và

sử dụng sẽ bị cạn kiệt .

Kinh nghiệm thành công của Nhật Bản cho thấy một quốc gia tài nguyên

thiên nhiên hầu như không có gì, quanh năm bị động đất núi lửa, nhưng nhờ

biết phát huy sức mạnh của nhân tố con người đã nhanh chóng trở thành

cường quốc về kinh tế. Ngược lại các nước Châu Phi tài nguyên thiên nhiên

giàu có nhưng không phát huy được sức mạnh của nhân tố con người, không

có chính sách phát triển thích hợp nên vẫn chỉ là những nước nghèo.



14



Trong xu thế phát triển khoa học và công nghệ như hiện nay vấn đề trung

tâm của sự nghiệp CNH, HĐH chính là vấn đề công nghệ. Nước nào làm chú

khoa học công nghệ tiên tiến, nước đó sẽ là nước công nghiệp hiện đại. Đồnỵ

thời do xu thế phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ khiến những

nước tiên tiến phải chuyển giao những công nghệ cho các nước đi sau. Song sự

chuyển giao về công nghệ không hề đơn giản.

Một m ặt sự chuyển giao được thực hiện trên nguyên tắc hai bên cùng có

lợi, hay đúng hơn theo những nguyên tắc của CNTB dựa trên cơ sở lợi nhuận.

Mặt khác những nước có công nghệ cao không bao giờ chuyển công

nghệ mới cho các nước đi sau.

Việt Nam là một nước đang tiến hành CNH, HĐH do đó vấn đề công

nghệ cũng là vấn đề trung tâm. Nếu chúng ta tiến hành CNH, HĐH chỉ dựa

vào sự chuyển giao công nghệ thì vinh viễn vẫn chỉ là nước lạc hậu đi sau và

khả năng về vốn cũng có hạn. Nhưng nếu chúng ta tự mình sáng tạo ra công

nghệ mới thì trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa cho phép. Mâu thuẫn đật

ra cần phải giải quyết là làm sao vừa khắc phục sự lạc hậu trước mắt vừa phải

nhanh chóng trở thành nước phát triển dựa trên trình độ công nghệ tiên tiến.

Để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã chỉ rõ "cần khai thác và sử dụng nhiều

nguồn lực khác nhau trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất có vai trò

quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật

chất còn hạn hẹp, nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề

thảnh thạo có phẩm chất tốt đẹp" [18, 9].

Trí tuệ là bản chất, là đặc tính chỉ riêng con người mới có. Nhờ có trí tuệ

con ngưừi có khả năng sáng tạo ra thế giới thứ hai, thế giới vật chất và văn hoá

tinh thần của chính mình. Chính trí tuệ là tiêu chí để phân biệt con người và

con vật, khẳng định "con người là thước đo của mọi vật"[67, 151]. Ngày nay

vai trò của trí tuệ có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia.

Trí tuệ giúp cho con người linh hoạt, nhạy bén nhanh chóng nắm bắt tình

huống một cách dẻ dàng, tạo ra tính ổn định và chuyển hướng kịp thời giúp

con người cải biến và thích nghi với hoàn cảnh mới. Chúng ta đều biết rằng sự

nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam không thể thực hiện được nếu không có đội



nu ũ đông đáo những cổng nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật tài

năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những

nhà lãnh đạo quản lý biết nhìn xa trông rộng. Nhưng trong thời kỳ CNH, HĐH

jất nước bản thân người lao động có trình độ trí tuệ cao chưa đủ. Đương nhiên

như Alvin T oítlcr nhận định trong 3 công cụ của quyền lực thì "hữii dụng hmi

'lết vẫn là tri thức" [1,36]. Nhờ có tri thức con người tạo ra bạo lực, cải biến

jái "không thể" thành cái "có thể". Nếu chỉ có trí tuệ mà không có đạo đức thì

íất có thể người lao động đó dùng trí tuệ mưu lợi cho cá nhân gây ra bệnh

quan liêu, hủ hoá, tham ô.

Đạo đức là một phạm trù lịch sử, ở các thời đại khác nhau nội dung của

[•hạm trù này cũng khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta đạo đức của

r.gười cách mạng được xác định đó chính là biết đặt lợi ích tập thể lên trên lợi

í:h cá nhân. Người lao động hiện nay ở nước ta vừa là người có trình độ trí tuệ

cao, tay nghề thành thạo vừa có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Chính phẩm chất

dạo đức tốt đẹp là động cơ thúc đẩy người lao động làm việc, cống hiến cho

Tổ quốc, đặt lợi ích của mình trong sự thống nhất với lợi ích Tổ quốc.

Để tạo ra những con người vừa có trình độ trí tuệ cao, tay nghề thành

thạo vừa có phẩm chất đạo đức cao đẹp khồng có lĩnh vực nào khác ngoài vai

trì của giáo dục và đào tạo. Trong các nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta đã khẳng

đinh "coi giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu"

bới "muốn tiến hành C NH , HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục iđco tạo" [ 14, 19J. Chính giáo dục - đào tạo có vai trò "nâng cao dân trí, đào

Itạ) nhân lực và bồi dưỡng nhản tài". Trong khi nhấn mạnh đến tính tự chủ lựa

chọn các mô hình CNH sao cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện

t:hế giới ngày nay, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng nêu "Đảng ta chủ

V.rVơng không lặp lại những mô hình C N H cổ điển... Đ ể làm được việc ấy giáo

d ụ : và khoa học phải tạo ra những con người đủ kiến thức và năng lực lựa

clu n , thích nghi và sủng tạo công nghệ mới, từ làm chủ công nghệ nhập, biến

c híng thành công nghệ của mình đến tạo ra công nghệ mới và hiện dại lioú

Ìiiìũng còng nghệ truyền thống” [4],



16



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

×