Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.46 MB, 93 trang )
Iượniị của kliáclỉ thể này ( .... ), thứ hai khía cạnh chuẩn mực, mệnh lệnh, đánh
ÍỊÌÚ của cúc hiện tượng V thức x ã hội" [57, 7j.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết thì "Giá trị lù sự khẳng (lịnh hay
phú định V nghĩa của các đối tiíựìig thuộc th ế giới chung quanh đối với con
người, giai cấp, nhỏm hoặc loàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định
không phàì bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút
(lỏi cuốn) của cúc thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người,
phạm vi cúc híùig thú và nhu cấu, cúc quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phươtig
íliức đanh giá V nghĩa nói trên được biếu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn
mực đạo đức, trong lý tưởỉỉg, tâm th ế và mục đích" [66, 51, 52J.
Trong tiếng Anh có 2 thuật ngữ dùng để chỉ khái niệm giá trị là Value và
Worth, hai khái niệm này có khác nhau ở chỗ: Value chỉ có nghĩa là giá trị,
giá cả, ý nghĩa, còn W orth ngoài nghía giá trị, giá cả còn có nghĩa là phẩm
chất, phẩm giá.
Trong một số từ điển Viêt Nam và một số từ điển nước ngoài khác khái
niệm giá trị được định nghĩa là "phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ
tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách th ể đối với con người, giai cấp,
nhóm, x ã hội nói chung được phản ánh vào cúc nguyên tắc và chuẩn mực đạo
lý, lý tưởĩig, tâm thế, mục đích" [26, 124].
Đối với các công trình nghiên cứu về giá trị ở Việt Nam ví như của Giáo
sư Trần Văn Giàu, Giáo sư Phạm Minh Hạc... đều quan niệm "Giá trị là tính
có V nglũa tích cực, tốt đẹp, đáng quỷ, cố ích của các đối tượng VỚI các chủ
thể" [27, 301].
ở đây chúng tôi đổng ý với định nghĩa của từ điển tiếng Việt như đã nêu
trên về giá trị. Do đó, giá trị chính là hiện tượng xã hội đặc thù thể hiện sự
đánh giá của con người về đối tượng có ý nghĩa thoả mãn nhu cầu của con
người. Giá trị bao giờ cũng là một hiện tượng nhận thức nảy sinh trong quan
hệ chủ thể - khách thể.
Giá trị là một khái niệm mang tính người, nghĩa là nó chỉ tồn tại trong xã
hội loài người, thông qua sư đánh giá của con níười. Cho nên toàn bộ thê giới
21
khách quan trong quan hệ với con người được nhìn nhận như là thế giới của
các giá trị mà khòng đưn thuần là thế giới của đổ vật. Bất cứ cái gì cũng có thể
và phái được thẩm định về mặt giá trị. Mọi hành vi, hành động hay sự biến
nào xảy ra đều mang giá trị đối với con người bới nó luôn nằm trong mối quan
hệ uiữa chủ thể và khách thể. Con người nhận thức, đánh giá thẩm định đặt
Chuns vào những thang bậc của báng giá trị như Đẹp - xấu, nhân nghĩa hay
bất nhân, chân hay nguỵ... Vì vậy, giá trị luôn tồn tại trong đời sống xã hội và
là người bạn đồng hành cùng với con người từ xa xưa đến nay. Đ. Điđơrô nhà
triết học khai sántỊ Pháp thế kỷ XVIII đã từng cho rằng bản thân sự tồn tại của
con người đã làm xuất hiện sự tồn tại của các giá trị và con người chính là giá
trị cao nhất.
Như vậy, khái niệm giá trị nảy sinh, tồn tại trong xã hội loài người được
con người sử dụng khi đánh giá về đối tượng khách thể. Khách thể mang giá
trị khi chủ thể nhận thức và có tác dụng thoả mãn nhu cầu kích thích chủ thể
hành động. Bất kỳ sự vật nào cũng có thể được coi là “có giá trị” dù đó là vật
thể hay tư tưởng, là vật thưc hay vât ảo nếu nó được các thành viên trong xã
hội thừa nhận, xem xét như biểu tượng quan trọng trong đời sống tinh thần
của họ và cần đến họ như một nhu cầu thực thụ. v ề mặt lý luận, giá trị mang
tính 2 mặt. Một mật giá trị gắn liền với cái tốt, cái hay, cái đúng, cái đẹp. ở
phương diện này giá trị định hướng tích cực cho hoạt động của con người theo
hướng chân - thiên - mỹ. Thông thường, giá trị đánh giá ở khía cạnh này.
Mặt khác, giá trị cũng tiềm ẩn những cái tiêu cực phản ánh giá trị. Chẳng
hạn kinh tế thị trường có giá trị tích cực đối với nhân loại thúc đẩy tiến bộ xã
hội nhưng nó cũng bao hàm mặt phản giá trị đó là do chạy theo lợi nhuận
quan hệ giữa người và người trở nên xấy đi.
Giá trị nảy sinh, phát triển và kiểm nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình hoạt động con người tác động vào đối tượng làm bộc lộ những
thuộc tính, tính chất trên cơ sở đó con người nhận thức và cải tạo chúng cho
phù hợp với mục đích của mình. Sự vật càng nhiều thuộc tính càng mang
nhiều giá trị. Tuy nhiên mỗi một đưn vị giá trị có ý nghĩa, vai trò khác nhau
đối với bản thân sự vật do đó có những giá trị cơ bản và không cơ bàn. Những
22
giá trị cơ hán làm nên bản chất của sự vật. Những giá trị không phải lập tức
con người phát hiện ngay mà phái trải qua quá trình kiểm nghiệm đánh giá.
Một sư vật có nhiều giá trị, mỗi bước tiến trong nhận thức của con người là
một lần con người khám phá và tìm ra giá trị mới làm phong phú kho tàng giá
trị của nhân loại.
Chẳng hạn ánh sáng mặt trời chỉ có giá trị soi sáng, sưởi ấm cho người
nguyên thuỷ, Iihưntỉ đối với người hiện đại thì ánh sáng mặt trời còn là nguồn
năng lượng quý giá giúp con người ỉàm nóng động cơ, nhờ đó con người
không còn bị lệ thuộc vào nguồn náng lưựng lụ nhiên nữa.
Giá trị có mật chủ quan và khách quan. Mật khách quan của giá trị là
những thực thể tự nhiên cũng như bản chất quy luật và các mối liên hệ xã hội
của chúng cùng tất cả những gì tạo ra giá trị.
Còn mặt chủ quan là thái độ, quan điểm, chuẩn mực, cách thức lựa chọn
và quy trình đánh giá của xã hội, cá nhân. Nếu không có mặt chủ quan thì giá
trị chỉ tồn tại ở dạng tiềm tàng nếu như không nói là không có giá trị. Trong
đời sống xã hội đương đại cũng như những xã hội đã tồn tại trong lịch sử mọi
vấn đề đặt ra thường được con người chú ý ở phương diện giá trị, khai thác về
mặt giá trị và lựa chọn cũng nhằm vào giá trị. Ở các chủ thể khác nhau việc
phát hiện, khai thác và lựa chọn giá trị không giống nhau. Thông thường, các
lực lượng xã hội phản động hay khai thác chú ý đến mặt trái của giá trị nhằm
duy trì lợi ích của giai cấp mình, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Ngược lại
các giai cấp tiến bộ cách mạng khai thác mặt giá trị tích cực thúc đẩy xã hội
phát triển. Chính sự khai thác giá trị ở các chủ thể khác nhau đã làm giàu thêm
tính tương đối của giá trị. Hay nói đúng hơn chính mặt chủ quan của giá trị
làm cho nó có tính lịch sử cụ thể. Trong cộng đồng này nó được coi là giá trị,
nhưng trong cộng đồng khác được coi là không có giá trị, ở thời gian này là có
giá trị nhưng ở thời gian khác lại không có giá trị.
Như vậy, quan niệm về giá trị không chỉ khác nhau ở các thời đại, các
cộng đồng, dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau mà ngay cả các cá
nhãn. Tính đa dạng và phone phú về mặt chú quan của giá trị còn thể hiện chi
tiêl ử trong từng giai đoạn, từng thời kỳ của mỗi chủ thể. Rõ ràng, thông qua
23
oái chú quan giá trị luôn mang tính lịch sử - cụ thể. Giá trị luồn là mục tiêu
vươn tới của mọi chú thể, mọi thời đại - đó là quv luật giúp con người biến thế
giới từ “tự nó” thành thế giới cho con người, nó không chỉ duy trì sự tồn tại
của con người mà còn giúp cho con người vươn tới cái Đẹp.
Sự phong phú về mặt chủ quan và sự phong phú về mặt khách quan tạo
nên sự phong phú về mặt giá trị. Căn cứ vào tính chất, nguyên tắc, hay mục
đích mà người ta phàn chia giá trị theo các hệ thống nhất định. Căn cứ vào
tính chất chung nhất giá trị có hai loại là giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế - xã hội, gắn bó trực
tiếp với tồn tại xã hội, quyết định sự tồn tại phát triển của xã hội loài người, là
cơ sở sản sinh các giá trị tinh thần. Suy cho cùng nó quyết định nội dung, tính
chất, phương hướng phát triển của giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần thể hiện
trong lĩnh vực ý thức xã hội thông qua các hình thái: đạo đức khoa học, nghệ
thuật... Giá trị tinh thần mặc dù nảy sinh từ giá trị vật chất song do tính độc
làp tương đối của mình có thể lă động lực thúc đẩy con người hoạt động tạo ra
eiá trị vật chất.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động ta có giá trị kinh tế, giá trị chính trị, khoa
học... Căn cứ vào không gian ta có giá trị nội sinh và giá trị ngoại nhập. Căn
cứ vào thời gian ta có giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Việc sắp xếp các
giá tiị theo trật tự ưu tiên nhất định gọi là "thang giá trị" hay "thước đo giá
trị” trong đó những giá trị cốt lõi được coi là "chuẩn giá trị". Đối với các xã
hội khác nhau “chuẩn giá trị” cũng khác nhau. Hệ “chuẩn giá trị” ở các thời
điểm lịch sử khác nhau thì nội dung cũng khác nhau.
Việc lựa chọn các giá trị của các cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp dân tộc
được gọi là “định hướng giá trị”. Định hướng giá trị là "thái độ, là sự lựa chọn
ccc giá trị vật chất và tinh thần, là một hệ thông tàm thế, niềm tin, sỏ thích
ci.a con người đối với một giá trị nào đó" [20, 3]. Định hướng giá trị là một
trong những nội dung cơ bản của sự phát triển giá trị ở nhân cách con người,
đi'Ợc hình thành và cúng cố bởi năng lực nhận thức, kinh nghiệm sống và sự
lira nghiệm lâu dài. Nhờ có định hướng giá tiị giúp cho cá nhàn và cộng đổng
tách cái có ý nghía, có bản chất thiết thân đối với họ khỏi cái vỏ nghĩa, cái
-r
24
khô nu hán chất. Định hướng giá trị là cư sở bên trong của hoạt động và hành
vi, do đó nó có ảnh hưửng quyết định đến đạo đức, lối sống của cá nhân và
cộng đồng. Định hướng giá trị do đó nó có vai trò to lớn trong việc hình thành
nhân cách, phẩm chất xã hội của con người.
"Truyền thống" theo từ điển Tiếng Việt là "thói quen hình thành đã láu
dời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ th ế hệ này qua th ế hệ khúc"
[55, 1034], Theo nghía tổng quát nhất “truyền thống đó là những yếu tố của di
tồn văn hoá thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục, tập quán,
thỏi quen, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng người được hình thành
irong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và
được lưu giữ lâu dài”. [69, 9]
Truyền thống khồng bao giờ có thể chỉ là một sự kiện, một hiện tượng tự
nhiên hay một sự áp đặt bên ngoài bắt con người phải khuôn theo. Ngược lại
truyền thống phản ánh sự lựa chọn theo nguyên lý của lý trí; con người chỉ lựa;
chọn một cách có tính toán hay vô tình, ý thức hay vô thức cái gì mà họ xem
như là một phần của cuộc sống, những gì trường tồn hàng thế hệ, những gì có
thể truyền lại cho thế hệ kế tiếp những gì có ích lợi. Cái gì được gọi hay được
mệnh danh là truyền thống “chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận thiết yếu
của cuộc sống chúng ta, chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi
nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của chúng ta” [69, 23]
Rõ ràng, truyền thống là cái đem lại lợi ích cho con người. Ớ các chủ thể
khác nhau khai thác các yếu tố của truyền thống theo khía cạnh khác nhau.
Truyền thống có tính ổn định về mặt thời gian, nghĩa là một khi nó được hình
thành thì cũng có nghĩa nó được bảo tổn và phát huy qua các thế hệ. Đây là
một đặc trưng cơ bản của truyền thống tuy nhiên không nhất thiết phải đảm
bảo độ dài lớn hơn một thế hệ mới được coi là truyền thống. Có những hiện
tượng lặp đi lặp lại gắn liền với toàn bộ lịch sử nhân loại. Song cũng có những
hiện tượng chỉ cần trải qua độ dài của một thế hệ thậm chí trái qua một vài
năm cũng có thể trở thành truyền thống. Do có tính ổn định về mặt thời gian
nên có truyền thống thuộc về xã hội, một cộng đồng nhưnc cũng có truyền
thông thuộc về dòng họ, gia đình hay cá nhân riêng biệt.
25
I
Phẩm chất của truyền thống được quy định bởi ý nghĩa xã hội của nó.
Giá trị của truyền thống không đơn trị. Ngoài giá trị cơ bản và chủ yếu, ngoài
nhữnu uiá trị có ý nghĩa tích cực trực tiếp đối với đời sống xã hội truyền thống
còn mang giá trị phái sinh khác. Lịch sử xã hội loài người cho thấy mọi hiện
tượng của truyền thống m ang giá trị nước đôi nghĩa là mang tính 2 mặt: giá trị
và phán giá trị. Trong một thời điểm lịch sử cụ thể cái được gọi là truyền
thống sẽ tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo hai hướng:
Những truyền thống có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển nghĩa là nó góp
phần suy tôn. gìn giữ, thúc đẩy những cái gọi là quý giá tạo nên sự vận động
đi lên của cộng đồng dân tộc. Xét từ mặt này truyền thống mang giá trị tích
cực, là cái góp phần tạo nên sức mạnh, chỗ dựa không thể thiếu của dân tộc
trên đường đi tới tương lai; ngược lại những truyền thống tiêu cực sẽ là mảnh
đất thuận lợi duy dưỡng, duy trì làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời trì
trệ níu kéo lịch sử.
Khi đánh giá về truyền thống trong tác phẩm "Ngày 18 tháng sương mù
của Lui Bônapactơ" C.M ác đã viết ''truyền thống của tất cả các th ế hệ đã chết
đồ nặng như quả núi lên đầu óc ìihữìig người đang sống" [8, 145]. "Về một
khía cạnh nào đó như Ảngghen đ ã nói: truyền thống là một lực lượng bảo thủ
lớn" [15, 94].
Con người làm ra lịch sử của mình, nhưng không phải làm theo ý muốn
tuỳ tiện, không phải trong những điều kiện tự mình chọn lấy mà là trong
những điều kiện đã cho sẵn do quá khứ để lại trong đó truyền thống như là bộ
phận cấu thành nên những điều kiện ấy. Do đó truyền thống góp phần quy
định nên cách nghĩ và hành động của họ. Cho nên thật dễ dàng nhận thấy ở
mỏi dân tộc, mỗi cộng đồng, thậm chí mỗi gia đình dòng họ dù ử trình độ văn
minh cao hay thấp, dù đã phát triển hay đang phát triển đều có những truyền
thống đặc trưng cho riêng mình.
Tuy nhiên, con người không chỉ thụ động chịu sự quy định cúa truyền
thống, với bản tính sáng tạo của mình con người lại tạo ra những truyền thống
mới trên cơ sở của truyền thống sẩn có hoặc hiện đại hoá truyền thống cho
phù hợp với yêu cẩu của thời đại. Đối với cá nhân sự tiếp nhận và sánc tạo
26
thòng qua quá trình tự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới; trên phạm vi xã hội
thông qua quá trình đấu tranh cách mạng giữa cái lỗi thời, lạc hậu, bảo thủ với
cái tiến bộ.
Quá trinh này diễn ra một cách gay go phức tạp và lâu dài thậm chí còn
cỏ những bước lùi tạm thời. Bửi lẽ đối với cá nhân điều kiện cho sự tiếp nhận
và sáng tạo cần đạt tới trình độ nhận thức nhất định đòi hỏi mỗi cá nhân phải
không ngừng học tập, tu dưỡng suốt đời, dám nghi dám làm; trên phạm vi xã
hội, những giai cấp bảo thủ phản động do bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, cố
duy trì mặt phản giá trị của truyén thống. Chính điều này tạo nèn những bi
kịch trong xã hội. Bới truyền thống khi đã thấm sâu vào máu thịt của quần
chúng không dễ chuyển đổi nó theo quan niệm mới. Vấn đề là ở chỗ những
lực lượng xã hội tiến bộ biết cách khai thác các giá trị tích cực của truyền
Ihống và nâng cao nó lên ngang với yêu cầu của thời đại. Như Lênin đã nhận
định: "Chúng ta hiểu rằng trong phong tục, tập quán, những tàn dư của quá
khứ, ỉrong một thời gian nào đó sau cách mạng, tất nhiên vần còn thắng
những mầm non của cái mới hoặc: sức mạnh của tập quán ở hàng triệu người
và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê gớm " [65, 34].
Như vạy truyền thống với tính 2 mặt: mặt giá trị và mặt phản giá trị. Mặt
giá trị có tác động tích cực thúc đẩy xã hội phát triển và mặt tiêu cực níu kéo
sự phát triển ấy. Với những mặt tiêu cực cần được loại bỏ hoặc chỉnh sửa, đổi
mới bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Đành rằng
khi nói tới truyền thống là nói đến tính ổn định, song khi truyền thống có ảnh
hưửng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội thì tất nhiên bản thân nó sẽ thay
đổi hoặc con người sẽ chủ động thay đổi. Rõ ràng khi truyền thống hình thành
thì không có nghĩa là sẽ trở nên bất biến và lưu truyền mãi mãi. Bởi cơ sở hình
thành truyền thống là điều kiện kinh tế - xã hội, do đó khi cơ sở kinh tế - xã
hội biến đổi thì truyền thống do nó sinh ra sớm muộn cũng thay đổi theo hoặc
phải thay thế bằng một truyền thống mới. Đây chính là quá trình biện chứng
của sự phát triển truyền thống.
Truyền thống không chỉ mang trong mình cái dân tộc mà còn bao hàm cả
cái nhân loại bởi trong quá trình phát triển nó không chỉ suy tồn, gìn giữ
những gì của dân tộc mà nó còn có sự giao thoa, tiếp nhận những giá trị mới
đê’ làm giàu cho mình.
27
Khi phân biệt những truyền thốnsí tốt đẹp với những truyền thống xấu
chúntĩ ta thấy rằng truyền thống tốt đẹp được gọi là giá trị truyền thống để
phàn biệt với các phong tục tập quán xấu. Những giá trị truyền thống tạo nên
nét đặc trưng cho từng dân tộc, từng cộng đồng.
Từ sự phân tích trên về truyền thống và giá trị truyền thống chúng ta thấy
rằng trong hệ thống giá trị truyền thống của người Việt Nam bao gồm truyền
thống yêu nước mãnh liệt, ý thức đoàn kết liên kết cộng đồng vô cùng bền
chặt, lòng nhân ái khoan dung, lối sống tình nghĩa, đức tính tiết kiệm và tự
lực tự cường, ý chí vượt qua gian khổ, tinh thần cần cù sáng tạo, truyền thống
hiếu học, lòng tôn sư trọng đạo, truyền thống kính trọng người già... Những
truyền thống tốt đẹp trên đả được lưu truyền, gìn giữ qua các thế hệ trong suốt
lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc và nó đã trở thành khí phách, bản lĩnh, tinh
thần của người Việt cũng như nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2.2- Cơ sở hình thành giá trị truyền thống của người Việt Nam
Khi nghiên cứu bản chất con người, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa
Mác đã chỉ ra rầng: không nên nghiên cứu con người từ lời nói hay những điều
mà họ tưởng tượng ra mà cần phải nghiên cứu con người trên mảnh đất hiện
thực.
Quan điểm đó có ý nghĩa to lớn, nó cho chúng ta một phương pháp luận
hết sức khoa học, khách quan khi nghiên cứu con người cụ thể, từ đó rút ra
những kết luận đánh giá đúng đắn. “Mảnh đất hiện thực” mà các nhà kinh
điển đề cập không ngoài điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, điều
kiện văn hoá nơi mà con người đang tồn tại, đang sống và làm việc. Sự nghiên
cứu về con người Việt Nam, về giá trị truyền thống của họ không nằm ngoài ý
nghĩa đó.
Cơ sở hình thành giá trị truyền thống của con người Việt Nam bắt nguồn
từ điều kiện địa lý (tự nhiên), điều kiện kinh tế - xã hội và nền vãn hoá đậm đà
bản sắc dân tộc.
Căn cứ vào những tài liệu khảo cổ học chúng ta biết được địa bàn sinh
sống chủ yếu của người Việt cổ là lưu vực các con sông lớn, nơi cư trú là một
vùng đất mới được bổi đắp nằm giữa một bên là đồi núi cao và một bên là
biển cá. Do trình độ còn hạn chế người Việt cổ chưa có khá năng đắp đê ngăn
28
nước vì thế khi mùa mưa, lũ nước tràn ra khắp các chỗ, chúng tạo nên vô số
đám hổ quanh nãm có nước.
Đất đai mà người Việt cổ cư trú và canh tác có độ phì nhiêu rất cao bởi
thường xuyên được bồi đắp phù xa từ vùng thượng nguồn. Không những thế
đây là nơi nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa với lưựng mưa, nắng đủ để
Irổng và phát triển cây nồng nghiệp. Chính những điều kiện như vậy mà người
Việt sớm lựa chọn nông nghiệp làm nghề chính cho sự tồn tại của mình.
Bên cạnh nhữne thuận lợi, thiên nhiên Việt Nam luôn đặt ra cho con
người những khó khản thử thách như hạn hán, lũ lụt, bão tố hoặc sâu bệnh.
Theo số liệu thống kê của Giáo sư Phạm Minh Hạc thì "lượng nước chảy mưa
lũ cùa cúc sông ở Bắc Bộ như sông Đà, sông Lô, sông Thao, sông Hồng, sông
Cầu, sông Lục N am chiếm từ 72 - 89% lượng nước của các dỏng sông đó"
[18, 18]. Chính điều kiện này đã là cơ sở để hình thành những truyền thống tốt
dẹp của con người Việt Nam. M uốn chống được thiên tai như lũ lụt, hạn hán,
bão tố... đã hàng năm cướp đi biết bao của cải từ mồ hôi, nước mắt thậm chí
còn cướp đi rất nhiều sinh mạng, đòi hỏi nhân dân ta phải có một nghị lực phi
thường, một đầu óc thông minh sáng tạo một sự đoàn kết bền chật mới vượt
qua nổi.
Mặt khác, nước ta ở vào vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á vừa
ngoảnh ra Thái Bình Dương, vừa nối liền với lục địa mênh mông nằm trên đầu
mối giao thông thuỷ bộ quan trọng từ Bấc xuống Nam, từ Đông sang Tây, như
một đầu cầu từ biển cả tiến vào đất liền, một căn cứ xuất phát từ đất liền vượt
ra biển cả.
Do tài nguyên thiên nhiên giàu có, và đặc biệt lại nằm trong vị trí chiến
lược trọng yếu nên trong suốt quá trình phát triển, nước ta luôn là mục tiêu để
các nước xâm lược. Cũng trong suốt quá trình tồn tại Việt Nam luôn phải
đưưng đầu với nạn ngoại xâm tàn khốc, liên tiếp phải tiến hành các cuộc chiến
tranh thẩn thánh để bảo vệ độc lập, tự do cho nhàn dân, bảo vệ Tổ quốc.
Rõ ràng với những đặc điểm tự nhiên như vậy trước sự đe doạ liên tiếp
của thiên tai và định hoạ, muốn tồn tại để phát triển, con người Việt Nam phải
29
biết hy sinh nhiều lợi ích riêng, cùng nhau đoàn kết gắn bó củng cố lợi ích
chung của cộng đổng. Vì thế những
truyền thống đoàn kết thương
yêu
nhau... cũng hình thành từ đó. Mặt khác cũng chính điều kiện tự nhiên như
vậy đã nhen nhóm trong tàm thức cùa người dân Việt Nam ý chí làm chú đất
nước, làm chú vận mệnh của dân tộc.
Thiên nhiên phong phú là điều kiện thuận lợi cho con người Việt Nam
liến hành sản xuất nông nghiệp, hoạt động lao động chủ yếu là nghề trồng lúa
nước. Hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là quy luật mang tính phổ quát
đối với mọi xã hội, song cái chung đó biểu hiện trong cái riêng trên đất nước
Việt Nam. Điều kiện địa lý tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp,
nhưntĩ cũng chính sự mưa nắng thất thường của thiên nhiên khiến cho con
người lao động cực kỳ vất vả phải cần cù chịu khó hai sương một nắng mới
được hạt gạo. Với phương thức sản xuất kiểu Châu á, công cụ lao động hết
sức thô sơ và gần như không cải tiến hàng ngàn năm, sản xuất chủ yếu dựa
trên kinh nghiệm cá nhân.và trông chờ vào thiên nhiên, khiến cho năng suất
lao động vốn đã thấp, nếu gập thiên tai lũ lụt lại càng thấp hơn, thậm chí còn
mất trắng. Thêm vào đó người nông dân lại là đối tượng bóc lột của cả bộ máy
quan lại phong kiến gian ác, tồn tại hàng ngàn năm.
Đời này truyền đời khác lao động nông nghiệp với những công cụ thô sơ,
trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và trong cảnh đói nghèo túng thiếu
thường xuyên khiến cho người Việt Nam không chỉ rèn luyện cho mình tính
cố kết cộng đồng để cùng nhau vượt đói mà còn tạo dựng nên thói quen yêu
lao động, cần cù chịu khó, tinh thần bất khuất quật cường, ham học chống lại
mọi sự đàn áp bóc lột, tâm lý yên với cái nghèo, vui với cảnh nghèo đằng sau
luỹ tre làng.
Bên cạnh những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, điều kiện văn hoá có
vị trí đặc biệt quan trọng đóng vai trò to lớn, quy định tính cách, tâm lý,
truyền thống của người V iệt Nam.
"Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt củng với biểu
hiện của nó mù loài người đã sản sinh ra nhằm thích íùig với nhữìig nhu cầu
của dời sống và đòi hỏi của sự si till tổn" [30, 431].
30
Với phương thức sản xuất Châu á dựa trên nền sản xuất nông nghiệp, lại
nằm trong khu vực Đông Nam Chầu á, Việt Nam vừa có nền văn hoá mang
tính bản địa đồng thời vừa có sự giao thoa tiếp xúc, hấp thụ nền vãn hoá khu
vực: Nam Á, Trung Quốc làm phong phú thêm những giá trị văn hoá dân tộc.
Nho giáo là một học thuyết chính trị xã hội của Trung Quốc, được du
nhập vào Việt Nam từ rất sớm (thời Bắc thuộc lần thứ nhất) theo gót chân xâm
lược. Mặc dù vậy nó sớm được dân tộc Việt Nam tiếp nhận và đồng hoá trở
thành thứ nho giáo mang bán sắc dàn tộc Việt Nam.
Nho giáo ià công cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc,
sau khi du nhập vào Việt Nam từng bước được giai cấp thống trị Việt Nam
tiếp nhận và đề cao đặc biệt, là công cụ quản lý đất nước. Nho giáo đưa ra việc
xây dựng con người có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí. Nhân theo Nho giáo là những
điều gì mình muốn thì cũng làm cho người khác "kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ
dục đạí nhi đạt nhân" [30, 193] đó chính là đức trung hết lòng với người khác,
yèu thương người khác. Mậc dù chữ Nhàn của Nho giáo có iihững mặt tiêu
cực nhất định, song công bằng mà nói nó đã góp phần làm giàu tình cảm yêu
thương giữa con người và con người nói chung và đặc biệt là con người Việt
Nam. Trên cơ sở tiếp thu có sáng tạo chữ Nhân có nội dung là chữ Nghĩa của
Nho giáo thông qua 'lăng kính" chủ quan của người Việt tạo nên hai chữ
"nhân nghĩa". Nội dung hai chữ "Nhân Nghĩa" của người Việt được thể hiện
trong quan hệ giữa người và người bao giờ cũng đặt chữ tình lên hàng đầu.
Trong xử sự người Việt bao giờ cũng phải tuân theo một quy định bất thành
văn "có tình có lý" và khi "cái tình đã hết thì cái nghĩa vẫn còn". Chữ tình đó
không vì mục đích riêng tư vụ lợi, không đồng nghĩa với tính vô nguyên tắc
mà nó thể hiện tinh thần luôn coi trọng con người, là vốn quý nhất trong tất cả
các mối quan hệ họ, làng, nước. Cũng vì chữ tình đó mà bao giờ người Việt
cũng thường hy sinh lợi ích riêng tư của mình cho người mình yêu quý được
sung sướng hạnh phúc. Tâm lý đó được nâng lên thành chuẩn mực trong lối
sống và trở thành giá trị cao đẹp ngàn đời của người Việt, lối sống tình nghĩa
"sống vì người khác hơn vì mình".