1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

2- GIẢI PHÁP GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TRONG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.46 MB, 93 trang )


phát huy những tác động tích cực của cơ chế thị trường. Để làm được điều đó

khỏnu có con đường nào khác bằng việc hoàn thiện cơ chế thị trường có sự

điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN.

CNXH về mặt thực tiễn là chưa có Irong lịch sử nhân loại nhưng nó đã

được mô tả trong các di sản của các nhà kinh điển nhất là trong tư tưởng của

Hổ Chí Minh. Mặc dù vậy đối với chúng ta đinh hướng XHCN đối với cơ chế

thị trường là một vấn đề hết sức khó khăn nhất là khi hệ thống XHCN bao

gồm Liên Xô và các nước Đông Âu xụp đổ.

Trong những năm qua việc xây dựng nền kinh tế tbị trường định hướng

XHCN không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định, đặc biệt là sự

chuyển đổi các giá trị. Trong các giá trị mới hình thành dường như xa lạ, đối

lập với giá trị truyền thống gãy ra sự phát triển phiến diện trong con người

Việt Nam.

Như vãn kiện hội nghị Trung ương lần thứ 5 khoá VIII đã khẳng định

"không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà trà đạp lên tình nghĩa gia

đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp'' [19, 46].

Nếu như triết học Mác đã khẳng định con người là sản phẩm của hoàn

cdnli, vậy thì quan điểm đó cũng bao hàm ý nghĩa phải lạo ra hoàn cảnh có

tính người mới đem lại những con người có bản chất tốt đẹp. Tính tất yếu của

việc hoàn thiện cơ chế thị trường chính là tạo ra môi trường thuận lợi để phát

triển con người Việt Nam hiện đại.

Hoàn thiện cơ chế thị trường theo định hướng XHCN đã được khẳng

định rõ "phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mổ của nhà nước, nhằm phát huy

tác dụng tích cực đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu

cực. Phải xoá bỏ thể chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ các

vếu tố của thị trường, đồng thời xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp luật,

kế hoạch, các thiết chế tài chính, tiền tệ và những phương tiện vật chất và tổ

chức cẩn thiết cho sự quản lý của nhà nước, tạo điều kiện cho cơ chế thị

trường hoại độnu hữu hiệu".



71



Như vậy hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng XHCN về mật chủ

quan là nhàm giảm bớt những khiếm khuyết trong quản lý kinh tế nhất là nâng

cao năng lực quản lý của cán bộ lãnh đạo bằng việc xây dựng đội ngũ cán bộ

trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp các ngành, vững vàng về

chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức

và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dán. v ề mặt khách quan là

bằng và thông qua các quy tắc, nguyên tắc thị trường, các công cụ, các đòn

bẩy kinh tế tạo ra thị trường đồng bộ, khắc phục tối đa những mặt tiêu cực,

lành mạnh hoá quan hệ thị trường. Nhờ có sự định hướng ở tầm vĩ mô như vậy

các chủ thể hăng hái tham gia hoạt động làm giàu cho bản thân và cho xã hội,

lợi ích cá nhân được tôn trọng làm cơ sở cho lợi ích xã hội tạo lập. Rõ ràng

hoàn thiện cơ chế thị trường theo định hướng XHCN là nhằm tạo ra sự thống

nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.

Lợi ích cá nhân đặc biệt là lợi ích kinh tế được quan tâm bảo vệ sẽ là

động lực mạnh mẽ thúc đẩy chủ thể tham gia hoạt động không chỉ với tư cách

là con người kinh tế mà còn là con người của đạo đức. Không chỉ biết lựa

chọn các giá trị kinh tế mà còn vươn đến các giá trị nhân văn nhân đạo cao cả

làm cho quan hệ giữa con người với con người trở nên thân ái gần gũi với nhau

hơn. con người không chỉ năng động sáng tạo trong việc lựa chọn những giá

trị vật chất trong cuộc sống "thực tế hiển nhiên” mà còn khát khao vươn tới

những giá trị tốt đẹp mà từ ngàn đời con người hàng vươn tới thực hiện cho

được một cuộc sống có lý tưởng bởi "lý tưởng là trạng thái hoàn hảo nhất mà

người la mong muốn đại tới" [58, 182]. Ở nước ta "độc lập dân tộc và CNXH"

chính là lý tưởng mà Đảng và nhân dân lựa chọn.

Cùnỉ; với việc hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng XHCN còn bao

hàm cả sự kết hợp giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội nhằm tạo ra

sự công hằng bình đẳnc cho mọi thành viên trong xã hội. Chính sách xã hội

trong giai đoạn hiện nav ở nước ta không chỉ là việc điều hoà lợi ích, phán

phối lại ihu nhập của các giai tầng cho hợp lý mà quan trọng hơn nỏ đảm bảo

cho mọi thành viên trong xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như nhau

trong các vấn đề việc làm. ííiáo dục, chăm sóc sức khoe, đào tạo nghề nghiệp,



72



giúp đỡ lúc hoạn nan. Việc thực hiện các chính sách xã hội chính là tạo sự

công bằng. Công hằng không có nghĩa là "cào bằng" thực hiện chủ nghĩa bình

quân. Nếu đồng nhất "công bằng" với "cào bằng" sẽ là quan điểm phi khoa

học vì nó không tạo ra động lực thúc đẩy tính tích cực sáng tạo của cá nhân.

Bởi tiền đề về vật chất cho sự phát triển nhân cách của mỗi cá nhân là không

như nhau khi sinh ra, khống phải ai cũng giống nhau về thể lực, trí tuệ.... Phê

phán quan điểm đồng nhất "công bằng" với "cào bằng" Lênin đã nói "thực

hiện một sự bình đẳng vê sức lực và lài năng con người thì đó là một điều ngu

xuẩn... Nói ỈỚI bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng x ã hội, bình đẳng

về địa vị xã hội, chứ quyết không phải là sự bình đẳng về th ể lực và trí lực của

cú nhân" [63, 449]. Vấn đề mấu chốt của công bằng xã hội là nhà nước bảo

đảm cho mọi thành viên trong xã hội đều có cơ hội ngang nhau trong việc

tham gia vào quá ưình sản xuất và phân phối theo nguyên tắc công bằng và

hiệu quả. Công bằng xã hội là một đặc trưng của CNXH và là mục tiêu lớn

nhất mà chúng ta phấn đấu. Phấn đấu làm sao cho người nghèo thì đủ ăn,

người đủ ăn thì khá giả, người khá giả trở nên giàu có.

Về vấn đề này quan điểm của Đảng đã chỉ rõ "thực hiện chính sách xã

hội hưỡng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong

phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động

xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân

làm giàu hợp pháp".

Đi đôi với việc xây dựng các chính sách xã hội, nhà nước cần đặc biệt

quan tâm và giải quyết các vấn đề xã hội có tính cấp thiết nóng bỏng như việc

làm, chống đói nghèo, chống tham nhũng, chống các tệ nạn xã hội... Đồng

ihời đế ngăn chận nhữns vấn đề đó, công tác thông tin tuyên truyền có vai trò

quan trọng trong việc định hướng nhữne giá trị mới được coi là chuẩn mực xã

hội, nhằm tạo ra con người Việt Nam hiện đại phù hợp với quy luật phát triển

trong qiai đoạn hiện nav.

Tóm lại, hoàn thiện cơ chế thị trường, tăng cường định hướng XHCN

chính là việc tạo ra mồi trường kinh tố xã hội thuận lợi để con người Việt Nam



73



giúp đỡ lúc hoạn nạn. Việc thực hiện các chính sách xã hội chính là tạo sự

công bằng. Công hằng không có nghĩa là "cào bằng" thực hiện chủ nghĩa bình

quân. Nếu đồng nhất "công bằng" với "cào bằng" sẽ là quan điểm phi khoa

học vì nó không tạo ra động lực thúc đẩy tính tích cực sáng tạo của cá nhân.

Bởi tiền đề về vật chất cho sự phát triển nhân cách của mỗi cá nhân là không

như nhau khi sinh ra, không phải ai cũng giống nhau về thể lực, trí tuệ.... Phê

phán quan điểm đổng nhất "công bằng" với "cào bàng" Lênin đã nói "thực

hiện mội sự bình dẳng vê sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu

xuẩn... N ói tới bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng x ã hội, bình đẳng

vê địa vị x ã hội, chứ quyết không phải là sự bình đẳng về th ể lực và trí lực của

cá nhản" [63, 449]. Vấn đề mấu chốt của công bằng xã hội là nhà nước bảo

đảm cho mọi thành viên trong xã hội đều có cơ hội ngang nhau trong việc

tham gia vào quá trình sản xuất và phân phối theo nguyên tắc công bằng và

hiệu quả. Công bằng xã hội là một đặc trưng của CNXH và là mục tiêu lớn

nhất mà chúng ta phấn đấu. Phấn đấu làm sao cho người nghèo thì đủ ăn,

người đủ ăn thì khá giả, người khá giả trở nên giàu có.

Về vấn đề này quan điểm của Đảng đã chỉ rõ "thực hiện chính sách xã

hội hương vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong

phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động

xã hội, thực hiện bình đảng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân

làm giàu hợp pháp".

Đi đôi với việc xây dựng các chính sách xã hội, nhà nước cần đặc biệt

quan tâm và giải quyết các vấn đề xã hội có tính cấp thiết nóng bỏng như việc

làm, chông đói nghèo, chống tham nhũng, chống các tệ nạn xã hội... Đồng

thời để ngăn chận những vấn đề đó, công tác thông tin tuyên truyền có vai trò

quan trọng trong việc định hướng những giá trị mới được coi là chuẩn mực xã

hội, nhằm tạo ra con người Việt Nam hiện đại phù hợp với quy luật phát triển

tronu uiai đoan hiên nay.

CO

.

.

J

Tóm lại, hoàn thiện cử chế thị trường, tăng cường định hướng XHCN

chính là việc tạo ra mòi trườrm kinh tế xã hội thuận lợi để con người Việt Nam



73



hoàn thiện tránh xa lối sông xa hoa. ích ki. tiêu thụ do nhữnq sản phẩm của

vãn hoá độc hại gây ra, nhất là vãn hoá phương lây. Đổng thời hình thành nên

những con người biết yêu quê hương đất nước, quyết tâm đưa đất nước thoát

khỏi đói nghèo. Nó xa lạ với một hộ phận không nhỏ sấn sàng vì tiền mà bất

chấp danh dự phẩm giá lương tri, bán rỏ đổng nghiệp, bán rẻ gia đình và bán

rỏ Tổ quốc.

Đẩy mạnh công tác giáo dục nhữnu giá trị truyền thống đòi hỏi chúng

ta phải đặc biệt quan tâm chú ý đến thế hệ trẻ vì đây là thế hệ sẽ kế tục sự

nghiệp cách mạng của đất nước, tiếp tục xây dựng CNXH. Trước tình trạng

một bộ phận thanh niên sống mơ hồ về lý tưởng cách mạng, không có hoài

bão, bản lĩnh chỉ lo ăn chơi, chạy theo một cách mù quáng lối sống phương

tây, Đảng ta đã chỉ rõ "quan tâm giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lịch

sử và văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ..." nhằm phát huy vai trò xung kích, sức

sáng tạo cũng như phát triển tài năng cho họ.

Trong dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ phải

chãm lo phát triển toàn diện cho thanh niên mà trước hết là phát triển về chính

trị, tư iưởng, đạo đức: "Đối với th ế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡìĩg, đào

tạo phái triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống văn ìioá...

phái huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ T ổ quốc

X tiC N " [24, 12].

Mục tiêu của công tác giáo dục nói chung và giáo dục các giá trị truyền

thống nói riêng là nhằm hình thành những con người mới

"thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo

đức trong súng, có ý chí kiên cường xây dipig và bao vệ T ổ quốc, CNH,

HĐH đất nước, giữ gìn và phút huy cúc giá trị văn ìĩoá của dân tộc, có

năng lực tiếp thu tinh hoa vãn hoú nhân loại, phát huy tiềm năng của

dán lộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phút huy tính

lích cực của cá nhân, làm chù tri lììức khoa học và công nghệ hiện đại,

có tư duy sủng íạo, cỏ kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công



75



nghiệp, có tính lổ chức và ky luật, ró sức khoe, lủ những người k ế thừa

xây dựng CNXIỈ vừa "hóng" vừa "chuyên"" 118, 29].

Đô thực hiện được mục tiêu này cần tiến hành giáo dục ở mọi không

eian và thời eian trong đó thực hiện ử 3 môi trường: gia đình, nhà trường và xã

hội, nhất là môi trường gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ

gìn giá trị truyền thống.

Gia đình là môi trường đầu tiên con người sinh ra và lớn lên. Trước khi

tiếp xúc với những quy tắc chuẩn mực ngoài xã hội con người tiếp xúc với

những quy phạm trong gia đình. Quan tâm đến giáo dục gia đình là thực hiện

phương thức giáo dục "uốn cây từ lúc còn non" bởi không một môi trường nào

có thể thay thế cho môi trường gia đình. Một gia đình nề nếp sẽ cung cấp cho

xã hội những công dân tốt, ngược lại ngay từ khi còn nhỏ gia đình không giáo

dục hoặc giáo dục khống đến nơi đến chốn, một gia đình sống xô bồ sẽ biến •

thành "cái lò" đào tạo ra những con người tai ác và quỷ quái cho xã hội.

Chính vì "Tổ ấm gia đình ìà một pháo đài vững chắc đ ể mỗi cú nhân

được an toàn trước mọi cám dỗ của xã hội và cũng chính là bệ phóng tốt nhất

đ ể cá nhản có th ể vươti ra ngoài x ã hội, hoà nhập và làm lợi ích cho x ã hội"

[62, 29]. Vì vậy trong Luật hôn nhân và gia đình đã khẳng định rõ "Gia đình

là t ế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan

trọng hình thành vả giáo dục nhân cách, góp phàn vào sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ T ổ quốc. Gia đình Ịốt thì xã hội mới tối, xã hội tốt thì gia đình càng

tốt" Ị44, 7],

Ngày nay trong nền kinh tế thị trường gia đình Việt Nam đang có

nhữm; thay đổi sâu sắc về sự lựa chọn những giá trị nhất là sự xung đột giữa

các thế hệ trong cùng một gia đình. Đã xuất hiện tình trạng con cái giết cha

mẹ vì mấy đồng tiền để đi hút ma tuý, vợ chồng ly hôn tỉ lệ ngày một cao vì

nhữnu lối sốne ngoại lai du nhập. Hâu quả là con cái bơ vơ không nơi nương

tựa làm gánh nặng cho xã hội, anh em họ hàng chém giết nhau vì mấy đồng

tiền tranh chấp... Cùnu với mặt trái của cơ chế thị trường, các phương tiện

thône tin hiện đại cũníĩ đane làm cho mối quan hệ máu thịt giữa các thành

viên tro nu uia đình trỏ nên xa cách. Chẳng hạn trong một gia đình thay vì phải

76



Ihiờng xuyên thăm viếng, hỏi thãm sức khoe cha mẹ, con cái chỉ cần gọi qua

điin thoại... Rõ ràng mặt trái của kinh tế thị trường cũng như của CNH, HĐH

cùng với sự quản lý còn lỏng lẻo của các cơ quan chức nâng đang tạo ra những

chuyển biến về giá trị giữa các thê hệ trong một gia đình. Trong những chuyển

biến ấy có những chuyển biến tiêu cực làm huỷ hoại các giá trị tốt đẹp về mối

qian hệ giữa người và người. Đương nhiên cũng có những chuyển biến tích

cục làm cho các giá trị truyền thỏniỊ dược kế thừa và phát triển.

Với vai trò của gia đình và vị trí không thể thay thế được của giáo dục

trong gia đình việc xây dựng gia đình văn hoá chính là đề cao vai trò của gia

đ h h trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong

tụ: tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ những phong tục tập quán

lạ: hậu, loại trừ những phản giá trị của văn hoá độc hại và mặt trái của kinh tế

thi trường gây ra. Xây dựng gia đình có ván hoá trong nền kinh tế thị trường

hiện nay, chính là nhằm nâng cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, gắn

kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái khoan dung, trọng

n^hĩa tình, đạo lý, sự tinh tế ừong ứng xử, tính giản dị trong lối sống, tiếp thu

những cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc, đồng thời chống

lạ. những phong tục, tập quán, lề thói lạc hậu. Chính vì vậy việc "giữ gìn và

pp.úi huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. N êu cao vai trò gươiig

mẫu của các bậc cha mẹ, coi trọng xảy diùig gia đình văn hoá" [19, 60], phải

được coi là nhiệm vụ trọng yếu.

Giáo dục nhà trường là sự tiếp tục của giáo dục gia đình, giáo dục nhà

nường có tính đặc thù nhất định quyết định sự phát triển của nhân cách. Trong

những năm qua công tác giáo dục các giá trị truyền thống tuy đã được bổ sung

ở các bậc học, song do thời gian ngấn nên nội dung vãn còn thiếu, gây ra

rủững bất cập trong lối sống của thế hệ trẻ như xu hướng sùng ngoại coi trọng

g á trị vật chất...

Troniì những năm tới giáo dục nhà trường cần được bổ sun í; nhiều hơn

nĩa những nội dung về các giá trị truyền thống, đồng thời tăng cường nhữnụ

h)ạt động thực tiễn của học sinh nhằm kết hơp giữa lý luận và thực tiễn, giúp

CIO thế hệ trẻ khôrm chỉ nám vữnc hệ thónu lý thuyết mà quan trọng hơn là



77



khơi dậy ở học sinh, sinh viên trách nhiệm, tinh thẩn hăng hái xây dựng tình

véu quê hướng đất nước, tinh thần nhân đạo đoàn kết chân chính.

Tuy nhiên, trong khi đề cao việc giáo dục giá trị truyền thống cũng

không có nghĩa là phủ nhận giáo dục các tri thức khoa học mà kinh nghiệm

loài người đã tích luỹ được. Khoa học chính là con đường mở ra cho con người

thấy rõ thế giới bao la, thấv rõ xã hội vận động phát triển theo quy luật và con

người có tiềm nâng vô tận như thế nào. Càng quan tâm đến các giá trị truyền

thống hao nhiêu càng cần phải giáo dục tri thức khoa học bấy nhiêu, bởi

"CNXH cộng với khoa học chắc chấìi s ẽ dưa loài người đến hạnh phúc vô tận"

[34,131 ]. Sự kết hợp các loại hình giáo dục sẽ tạo điều kiện cho việc tiếp thu

các giá trị truyền thống có hiệu quả hơn làm cho bản chất con người trở nên

phong phú và sâu sắc hơn.

Giáo dục xã hội là sự phát triển cao của giáo dục gia đình và nhà

trường. Công tác này được nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư

đảm nhiệm. Thông qua dư luân xã hội hành vi của con người bị điều chỉnh

cho phù hợp với những chuẩn mực xã hội. Với tư cách là cơ chế đánh giá giá

trị các hành vi, dự luận xã hội biểu dương khuyến khích các hành vi hợp

chuẩn mực xã hội, phê phán và ngăn chặn các hành vi lệch với chuẩn mực xã

hội. Nhờ dư luận xã hội, con người xác định được giá trị, ý nghĩa đích thực

của hành vi và có những định hướng cẩn thiết trong ứng xử.

Một trong những cơ chế các tác động mạnh mẽ "hướng" các dư luận xã

hội phù hợp với mục tiêu đã định, đó là các phương tiện thông tin đại chúng

do nhà nước quản lý. Vì vậy nhà nước cần quản lý chặt chẽ chất lượng thông

tin nhằm ngăn chặn các "luồng" thông tin tiêu cực do văn hoá ngoại lai du

nhập. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ vi tính đang có bước đột

phá vãn hoá đồi truỵ tiêu cực luôn sẵn sàng thường trực trên mạng.

Cùnỵ với công tác quản lý chất lượng thông tin nhà nước cần đa dạng

hoá các hình thức và biện pháp nhằm tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp

dân cư nhữniỉ ẹiá trị truyền thốne tốt đẹp của dân tộc, nhữne thuần phonc mỹ

tục tạo ra lôi sống có văn hoá trong nhân dán, khơi dậy niềm tự hào dán tộc

định hướnu cho nhữne dư luận xã hội đúng đắn.



78



2.2.3-



Tàng cường vai trò của pháp luật đối với việc giữ gìn và phát



huy các giá trị truvền thống

Nếu như dư luận xã hội điều chỉnh hành vi của con người mang tính tự

nguyện tự giác thì cũns, có những hành vi bằng dư luận xã hội không thể điều

chỉnh được. Để hổ sung sức mạnh cho dư luận xã hội và hướng hoạt động của

con người theo mục tiêu mà chủ thể quản lý đất nước đề ra do đó pháp luật ra

đời.

Sự điều chỉnh của pháp luật được thông qua các chuẩn mực, quy phạm

pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế nhằm

ổn định xã hội. Là phương thức điều chỉnh hành vi con người, pháp luât xác

định những giới hạn hành động của con người và mức độ trừng phạt những vi

phạm.

Việc điều chỉnh hành vi của con người mang tính cưỡng chế cho thấy

pháp luật là một hiện tượng lịch sử nó chỉ ra đời khi có sự phân chia giai cấp.

Trong xã hội để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị nhà nước ban hành hệ

thống pháp luật cưỡng chế mọi người mọi tầng lớp dân cư phải tuân theo. Do

đó nếu là giai cấp tiến bộ thì nhà nước (công cụ của giai cấp thống trị) sẽ ban

hành hệ thống pháp luật phù hợp với lợi ích chung của xã hội cũng như sự

phát triển của lịch sử. Ngược lại, nếu pháp luật của nhà nước do giai cấp bảo

thủ đang trên đà suy thoái nắm giữ sẽ mâu thuẫn với lợi ích của toàn xã hội và

Ihỏng thường làm cản trở sự phát triển của xã hội.

Đối với nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhà nước Cộng

hoà XHCN ban hành hệ thống pháp luật nhằm đem lại lợi ích cho đại bộ phận

quần chúng nhân dân. Do đó những nguyên tắc cơ bản trong truyền thống tốt

đẹp dân lộc cũng đã được thể hiện trong chủ trương đường lối của Đảng và

pháp luật của nhà nước. Đặc biệt là lòng vêu nước, lối sống tình nghĩa, tinh

thán đoàn kết luôn được đặt lên hànc đầu. Tại điều 78, 79, 80 của Bộ luật hình

sự có quv định rõ trách nhiệm của cỏnc dân đối với Tổ quốc, phải trung thành

với Tổ quốc, khône được phản bội Tổ quốc, không có nhừnti hành vi câu kết

vói ke địch để gây nuuv hại cho quốc eia. Cụ thể: "cóng dân Việt N am nào

cáu ki’) với nước ngoài nhằm gây nguy liại cho độc lập, chủ quyền, thong nhái



79



và loàn vẹn lãnh thổ của Tồ quốc, lực lượng quốc plỉô/n’, ché độ XHCN vù

nhà nước Cộng hoà XHCN Việt N am ihì bị phạl lù lừ mười hai năm đến hai

mươi năm, tù chung tliủii hoặc lử hình" [3, 58], Hoặc như trong Luật hôn nhân

và gia đình quy định rõ trách nhiêm của các thành viên trong gia đình giữa vợ

chồng, cha mẹ và con cái... Điều 18 của Luật hôn nhán ghi rõ "Vợ chổng

chung ìhuỷ, thương yêu, quỷ trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây

dipig gia đình no ấm" hoặc điểu 21 ghi rõ "cấm vợ, chồng có hành vi ngược

đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau" [44, 18,

19] hoặc "con có bổn phận yêu quý, kính trọng biết



Ơ11,



hiếu thảo với cha mẹ...



nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm clia mẹ" [44, 25].

Rõ ràng những quy định của Hiến pháp, cũng như một số các Bộ luật

của nhà nước ta hiện nay khác với hệ thống pháp luật của các nhà nước đã có

trong lịch sử. Không vì lợi ích riêng của một bộ phận giai cấp, mà nó thể hiện

việc bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Đương nhiên trong quá trình thực

thi pháp luật đối với những phần tử thoái hoá biến chất đi ngược lại với lợi ích

dân tộc cũng sẽ bị pháp luật nghiêm trị.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước trong những năm

qua nhân dân ta đã nâng cao được ý thức chấp hành pháp luật. Đặc biệt là từ

khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước với phương châm mỗi người "tự cứu

lấy mình" thì việc tìm hiểu các quy định pháp luật càng trở nên cấp thiết. Việc

phân định rõ quyền lợi và trách nhiệm của công dân ưên các lĩnh vực đã được

các chủ thể nhận thức sâu sắc vì nó liên quan đến lợi ích thiết thực của họ. Do

đó việc triển khai và thực hiện hệ thống pháp luật ngày càng có nhiều tiến bộ,

phản ánh tinh thần làm chủ của nhân dán trước những hành vi của mình.

Nhưng bên cạnh những biểu hiện liến bộ về ý thức pháp luật, cơ chế thị

trường cũng gây ra những hiện tượng vi phạm pháp luật với quy mô và mức độ

ngày càng nshiêm trọng.



Ngay trong các văn kiện, Đảng ta cũng đã nhận



định "tham nhũng" đã trở thành "quốc nạn". Trong nhữníí hành vi vi phạm

pháp luật hiện nay nhức nhối nhất đó là sự xuống cấp đạo đức, một bộ phận

xấu đã vì lợi ích cá nhân sẩn sàng đánh mất lương tri nhân tính của chính

mình làm hoen ố những giá trị truyền thốnu cao đẹp của dân tộc.



80



Theo thông kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật sô vụ hiếp dám nói

chung và hiếp dâm trỏ cm nói riêng có xu hướng ngày càng tăng. "Nếu như

nám 1993 phát hiện được 500 vụ hiếp dám , ĩrong đố có 73 vụ nạn nhân là trẻ

em (chiếm 14,6%) nám 1994 phát hiện được s'61 vụ hiếp dâm, trong dó có

143 vụ nạn nhân là trẻ em (chiếm 16,6%) thì đến năm 1997 phát hiện 1097 vụ

lĩ,ếm dúm tăng 27% so với năm ì 996, trong đó vụ hiếp dâm trẻ em lủng 41 %"

[39, 77 Ị. Đáng lên án là hiện tượng chính những người thân trong một gia đình

lại giết hại lẫn nhau. Trong số các vụ án giết người được nghiên cứu trong

rr.ấy năm gần đây thì có tới "24,4% s ố vụ nạn nhân lại chính là thản nhân của

thì phạm (nạn nhản là vợ, chồng, con cái, anh, chị, em ruột)" [23, 16] ... Rõ

ràng những hiện tượng nêu trên không chỉ mang tính chất vi phạm pháp luật

rr.à còn xa lạ, đi ngược lại với truyền thống nhân văn của dân tộc.

Đánh giá về tình hình vi phạm pháp luật làm suy đồi những giá trị

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, căn cứ vào tính chất của chúng có thể phân

chia thành các nguyên nhân sau:

Nguyên nhân khách quan: Là do nền kinh tế của chúng ta còn đang

trong quá trình vận động. Trước đây trong thời kỳ quan liêu bao cấp do thực

h ên nguyên tắc phân phối theo kiểu bình quân "cào bằng" đã hạn chế tính

tí;h cực tìm hiểu pháp luật. Sau này khi chuyển sang nền kinh tế thị trường

đ nh hướng XHCN do tính chấl mới mẻ chưa có trong tiền lệ đã khiến chúng

V vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Vì vậy hệ thống pháp luật ra đời còn chậm

c

chẽ, chúng ta không thể xây dựng những quy phạm pháp luật khi nội dung của

n5 chưa có trên thực tế. Đây cũng là sự thể hiện nguyên lý "tồn tại xã hội" có

tiước "ý thức xã hội".

Nguyên nhân chủ quan: Đó là vai trò và vị trí của con người trước pháp

liật còn nhiều bất cập. Do chạy theo lối sống sa hoa truỵ lạc, bất chấp luân

tlường đạo lý, xuất hiện nhữrm biểu hiện coi ihườnẹ pháp luật. Đó là những

o n nu ười nắm chắc luật trong tav nhưnu cố tình làm sai phạm pháp luật mà

e.iúng ta gọi là "lách luật". Hiện tượng tham nhũng trong xã hội ta hiện nay là

rrột ví dụ điển hình. Hiện tượng tham nhũnu khổng chỉ ở một cá nhân, một tổ

ciức mà len lỏi trong tất cả các nuành các cấp của xã hội, neav cả trong hệ



SI



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

×