Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 99 trang )
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
Chương 2 Cơ chế điều khiển lưu lượng
I. Phát hiện lỗi và điều khiển khắc phục lỗi
1.Tổng quan
Trong mạng máy tính, nếu dữ liệu được truyền từ bên gửi sang bên
nhận nhưng bên nhận không thể xử lý được do tín hiệu đã bị biến dạng
hoặc bị lỗi là điều không chấp nhận được. Chính vì vậy, việc nắm bắt về
các kỹ thuật bảo vệ, phát hiện, khắc phục lỗi là điều rất cần thiết. Nhưng
nếu chỉ quan tâm tới việc đảm bảo tính đúng đắn của dữ liệu mà không
quan tâm tới khả năng truyền tải của các thiết bị truyền dẫn thì lại là một
thiếu sót lớn. Nếu các dữ liệu được gửi vào đường truyền một cách liên
tục, không quan tâm đến tình trạng mạng thì tới một thời điểm nào đó,
đường truyền sẽ bị quá tải và không có khả năng vận hành tiếp được nữa.
Thực tế điều này cũng đã xảy ra, trong lịch sử phát triển của Internet, sự
cố nghiêm trọng đầu tiên là sự sụp mạng do tắc nghẽn xảy ra vào tháng
10/1986, thông lượng vận chuyển qua mạng trở về giá trị gần bằng
không. Để tránh hiện tượng như vậy, việc nghiên cứu nhằm tránh tắc
nghẽn hay điều khiển các lưu lượng dữ liệu được truyền vào trong mạng
trở nên cấp thiết. V. Jacobson đã tìm ra nguyên nhân và chỉ rõ [6]: Để có
thể tránh tắc nghẽn thì các thực thể gửi và nhận tham gia truyền thông
phải tuân theo các cơ chế điều khiển lưu lượng và điều khiển tắc nghẽn
thường được gọi chung là điều khiển lưu lượng, đồng thời mạng cũng
phải có phản ứng tích cực khi tắc nghẽn xảy ra hoặc có dấu hiệu sắp xảy
ra. Vào tháng 11 năm 1988, ông đã công bố kết quả nghiên cứu khoa học
trong bài báo có tên là “Congestion Avoidance and control”; sau khi phát
biểu “Nguyên lý bảo toàn số lượng gói tin trong mạng”, ông đã chỉ rõ
các điều kiện đảm bảo tình trạng cân bằng mạng, nghĩa là tình trạng mạng
hoạt động bình thường và ổn định và đã được áp dụng trong giao thức
Trang 31
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
TCP. Nhờ vậy, mạng Internet vẫn đang hoạt động ổn định và hiệu quả.
Tuy nhiên, như luận văn đã đề cập, kỹ thuật này chưa đủ để cung cấp các
dịch vụ tốt trong các trường hợp khác nhau mà cụ thể là trong truyền
thông Multimedia.
2. Cơ chế bảo vệ, phát hiện và khắc phục lỗi
Như đã đề cập, trong trao đổi số liệu nói chung, vấn đề quan trọng
nhất là đảm bảo tính đúng, tính chính xác của số liệu được trao đổi. Trong
truyền thông đa phương tiện (Multimedia), một trong các yêu cầu rất
quan trọng là tính kịp thời, có thể chấp nhận một tỉ lệ lỗi nhất định trong
các thông tin được trao đổi. Thí dụ, trong liên lạc truyền thông, như nói
chuyện điện thoại, lỗi của số liệu tiếng nói chỉ được phép ảnh hưởng đến
chất lượng tiếng nói ở một mức độ nào đó có thể chấp nhận được, nghĩa
là người ta vẫn hiểu được nội dung thông tin cần trao đổi hoặc vẫn có thể
biết được người đối thoại với mình là ai. Nếu lỗi số liệu tiếng nói quá lớn,
ảnh hưởng nghiệm trọng đến chất lượng tiếng nói, khiến người nghe
không hiểu được nội dung thông tin cần trao đổi, thì cuộc gọi đó không
chấp nhận được và giá trị truyền tin là bằng không.
Vậy thì bản chất lỗi dữ liệu là gì? Như chúng ta đã biết số liệu máy
tính là những số nhị phân 0 hoặc 1 và được gọi là các bit. Giá trị của một
bit bị thay đổi trong quá trình trao đổi số liệu từ “0” sang “1” hoặc ngược
lại, đã có thể làm sai toàn bộ việc nhận đúng một gói số liệu. Ví dụ: nếu
một bít trong chuỗi bit đồng bộ bị thay đổi giá trị thì chuỗi bit đồng bộ
không được nhận đúng là chuỗi bit đồng bộ nữa, khiến cho ký tự đầu tiên
của gói số liệu không được nhận đúng, và điều đó cũng có nghĩa là toàn
bộ gói số liệu không được nhận đúng và coi như gói số liệu đã bị “mất”
(packet lost). Như vậy, bản chất lỗi truyền số liệu chính là “lỗi bit” (bit
error).
Trang 32
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
Có nhiều nguyên nhân gây ra lỗi truyền số liệu như nhiễu trong
môi trường truyền, lỗi do các thực thể tham gia mạng gây ra... Trong đó
nguyên nhân chính là ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn đến chất
lượng của tín hiệu được truyền trên môi trường truyền dẫn đó. Tín hiệu
được xét đến ở đây là tín hiệu nhị phân. Mỗi đường truyền có một giới
hạn về băng thông (frequency band). Trong trường hợp lý tưởng, đường
truyền không có nhiễu, giữa băng thông của một đường truyền và tốc độ
truyền số liệu trên đường truyền đó có quan hệ ràng buộc theo công thức
Nyquist sau đây: V=2*B*log2M, trong đó V là tốc độ truyền số liệu, tính
bằng bit/s, B là độ lớn băng thông của đường truyền, tính bằng Hz, M là
số mức tín hiệu (điện) biểu diễn thông tin. Nếu sử dụng 2 mức tín hiệu
điện, thì công thức trở thành V=2*B. Tín hiệu được truyền “trung thực”
trong giới hạn băng thông của một đường truyền, nghĩa là tuân thủ theo
ràng buộc trên. Tín hiệu được truyền “trung thực” được hiểu theo nghĩa
là: tín hiệu được đưa vào ở đầu vào của đường truyền (tín hiệu phát) cũng
chính là tín hiệu nhận được ở đầu ra của đường truyền đó (tín hiệu thu).
Nếu tín hiệu được truyền với tốc độ v > 2B thì tín hiệu sẽ bị biến dạng,
còn gọi là tín hiệu bị méo. Và vì vậy không được tái tạo lại một cách
chính xác như tín hiệu phát ra ở thiết bị cuối nguồn. Lỗi tín hiệu thu
được trong trường hợp này tạo ra lỗi bit. Ngoài ra, năng lượng của tín
hiệu bị suy giảm khi tín hiệu được truyền dẫn trên đường truyền cũng là
một nguyên nhân dẫn đến sự biến dạng của tín hiệu. Thông thường, năng
lượng của tín hiệu trên đường truyền giảm theo hàm logarit, phụ thuộc
vào tần số, khoảng cách trên đường truyền đó. Sự suy giảm năng lượng
của tín hiệu không chỉ làm giảm mức tín hiệu thu được ở thiết bị cuối
đích, mà còn làm gảm tỷ số tín hiệu/tạp âm (S/N), khiến cho tín hiệu
không được tái tạo lại đúng như tín hiệu phát ở thiết bị cuối nguồn.
Những yếu tố khác, ví dụ: nhiệt độ, độ ẩm, năng lượng, sống điện từ…
Trang 33
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
gọi chung là nhiễu của môi trường, cũng là những nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến chất lượng truyền dẫn tín hiệu trên một đường truyền cụ thể.
Để đánh giá chất lượng truyền dẫn của một đường truyền, người ta
xác định “tỷ lệ lỗi bit” BER (Bit Error Rate), còn gọi là xác suất lỗi bit p b,
được định nghĩa là tỷ lệ số lượng tổng các bit bị lỗi trên tổng số các bit
được truyền.
Một đường truyền tốt là đường truyền có tỷ lệ lỗi bit p b ≤ 10-9,
nghĩa là có không quá 1 bit bị lỗi trong tổng số 10 9 bit được truyền. Một
đường truyền có thể chấp nhận được là đường truyền có tỷ lệ lỗi bit BER
hay xác suất lỗi bit pb ≤ 10-4, nghĩa là: có 1 bit bị lỗi trong tổng số 10 -4 bit
được truyền. Dựa trên xác suất lỗi bit pb, người ta có thể xác định được
xác suất lỗi gói số liệu pf.
pf = 1 – (1 – pb )N
trong đó N là độ dài của gói số liệu. Trong trường hợp Npb<<1 ta có:
pf Npb
Có hai loại lỗi bit là lỗi bit đơn (single bit error) và lỗi bit chùm
(error burst). Lỗi bit đơn là lỗi từng bit riêng biệt, xuất hiện một cách
ngẫu nhiên trong cả gói số liệu. Lỗi bit chùm là tập hợp nhóm các bit bị
lỗi với một tỉ lệ vượt quá một ngưỡng xác định, xuất hiện liên tiếp trong
cả gói số liệu. Một nhóm bit bị lỗi bắt đầu bằng một bit lỗi và kết thúc
bằng một bit bị lỗi, các bit trong nhóm có thể bị lỗi liên tục hoặc không
liên tục; giữa các nhóm bit bị lỗi phải tồn tại ít nhất là (B+1) bit không bị
lỗi, trong đó B có độ dài là nhóm bit bị lỗi.
Để bảo vệ số liệu và phát hiện lỗi bit trong quá trình truyền số liệu,
người ta thêm vào số liệu cần phát một số thông tin dư thừa theo một quy
luật nhất định khi phát và tái tạo lại các thông tin dư thừa này theo cùng
quy luật khi thu. Nếu thông tin dư thừa được bên nhận tái tạo lại không
thay đổi so với thông tin dư thừa do bên gửi gửi đi, thì số liệu thu được
không có lỗi; ngược lại, số liệu thu được có lỗi. Việc khắc phục lỗi được
Trang 34
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
thực hiện hoặc: a) tại thiết bị cuối đích, nếu phát hiện chính xác bit số liệu
bị lỗi, bằng cách thay đổi giá trị của bit số liệu bị lỗi; hoặc b) thiết bị cuối
đích không báo kết quả nhận số liệu bị lỗi và thiết bị cuối nguồn phát lại
(bản sao) gói số liệu bị lỗi. Phương pháp a) có tên gọi là “Điều khiển
khắc phục lỗi trước (FEC - Forward Error Correction)” thường được áp
dụng cho đường truyền có độ trễ lan truyền tín hiệu lớn, ví dụ: đường
truyền vệ tinh. Việc sửa lỗi tại chỗ sẽ làm giảm đáng kể thời gian khắc
phục lỗi do không phải phát lại gói số liệu bị lỗi. Một số phương pháp
điều khiển khắc phục lỗi trước thông dụng hiện nay là: phương pháp
Hamming code, phương pháp Convolution code, phương pháp ReedSolomom code. Phương pháp “Điều kiện khắc lỗi sau (Backward Error
Correction)” là phương pháp điều khiển khắc phục lỗi thường được áp
dụng cho hệ thống truyền dẫn hữu tuyến, bao gồm hai bước: Bảo vệ, phát
hiện lỗi và khắc phục, sửa lỗi trên cơ sở phát lại gói số liệu bị lỗi.
Việc phát hiện lỗi ngày nay được sử dụng bởi một số phương pháp
phổ biến như:
- Kiểm tra chẵn lẻ (Parity) theo ký tự
- Kiểm tra chẵn lẻ theo khối
- Mã dư vòng CRC (Cyclic Redundancy Code)
- Thông báo kết quả nhận số liệu: Yêu cầu thực thể phát phải đợi
biên nhận của gói số liệu vừa gửi mới được phát gói số liệu tiếp
theo. Thông thường thực thể thu biên nhận cho từng gói số liệu.
Nếu nhận đúng nó sẽ biên nhận (Acknowledgement) gọi là biên
nhận tích cực (positive acknowledgement) - ACK. Còn ngược lại
sẽ thông báo NACK (negative acknowledgement) gọi là thông báo
“không tích cực”. Tuy nhiên, việc quản lý này lại gây ra trễ trong
việc truyền tin và quản lý phức tạp trong bộ đệm.
-
Phương pháp sử dụng số tuần tự: Trong hệ thống mạng, các gói
tin có thể được truyền theo nhiều đường khác nhau nên đến thực
Trang 35
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
thể thu vào các thời điểm khác nhau, vì vậy việc sử dụng số tuần tự
(secquence number) được gắn cho từng gói số liệu là điều rất cần
thiết.
-
Phương pháp sử dụng đồng hồ quản lý phát time-out: Nếu các
gói tin được truyền đi mà không có biên nhận trở về thì thực thể
phát sẽ phải truyền lại gói tin. Do đó quản lý đồng hồ phát là một
việc không thể thiếu. Đồng hồ quản lý phát là một bộ đếm nhị phân
đếm ngược được thiết lập một giá trị định trước sau khi gửi đi một
gói tin, giá trị đồng hồ sẽ giảm dần đến 0 – time-out; Khi đó đồng
hồ tạo ra ngắt (interrupt) và kích hoạt một hành động nào đo. Đồng
hồ time-out được tính lại sau mỗi lần nhận ACK hoặc NACK. Việc
xác định thời gian time-out cũng ảnh hưởng rất lớn, quyết định
hiệu suất hoạt động của cơ chế điều khiển khắc phục lỗi.
Vậy nguyên nhân gây lỗi, hay tắc nghẽn trong các hệ thống mạng
là do đâu? Có thể kể ra một số nguyên nhân:
- Thiết bị mạng có thể không xử lý được hết yêu cầu do bộ đệm
nhỏ
- Tốc độ dữ liệu đầu vào lớn hơn tốc độ dữ liệu đầu ra
- Thời gian xếp hàng xử lý quá lớn
- Đường truyền kém chất lượng…
Chính vì những nguyên nhân gây ra sự tắc nghẽn này người ta phải
đưa vào khái niệm về điều khiển tắc nghẽn hay điều khiển lưu lượng
tránh tắc nghẽn.
II. Điều khiển lưu lượng, tránh tắc nghẽn
1. Cơ chế điều khiển lưu lượng
Là tập hợp các biện pháp nhằm giám sát và điều khiển tốc độ phát
số liệu của thực thể phát sao cho thực thể nhận luôn nhận đúng tất cả các
Trang 36
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
gói số liệu mà không bị tràn bộ đệm, ví dụ một cơ chế điều khiển lưu
lượng được sử dụng phổ biến là cơ chế cửa sổ (windows-based).
Có thể kể ra một số các giao thức điều khiển khắc phục lỗi như:
Giao thức “Dừng và chờ”, sau khi phát một gói số liệu thực thể phát dừng
lại và chờ nhận được ACK, NACK hay time-out để có biện pháp thích
hợp và sử dụng số tuần tự để thực thể nhận biết thứ tự các gói tin. Giao
thức cửa sổ trượt Go-back-N sử dụng cơ chế cửa sổ gửi và cửa sổ nhận,
gửi đi cùng một lúc một số gói tin rồi mới dừng lại chờ biên nhận cho
từng gói tin đó, đồng thời sử dụng đồng hồ time – out cho từng gói tin.
Tại bên nhận nếu có một gói tin thứ N bị lỗi, các gói tin được nhận sau đó
sẽ bị loại bỏ cho dù các gói này có thể không bị lỗi. Thực thể phát gửi lại
từ gói tin thứ N bị lỗi trở đi. Giao thức cửa sổ trượt phát lại có chọn lọc
(Selective Repeat) xử lý khá hiệu quả bằng cách chỉ phát lại những gói tin
bị hỏng.
Cơ chế cửa sổ trượt giới hạn số byte được phát và quá trình phát lại
và sửa lỗi được giới hạn ngay trong mỗi khung cửa sổ.
Kỹ thuật hàng đợi nhằm quản lý và cấp phát băng thông có sự ưu
tiên cho các kênh truyền theo các tiêu chí khác nhau.
Ngoài ra còn có phương pháp điều khiển ở mức ứng dụng, thực
hiện trong các tiến trình tại hai đầu cuối, bên nhận và bên gửi.
Xét một số kỹ thuật điều khiển lưu lượng trong giao thức TCP:
1.1 Một số khái niệm và thông số cơ bản
- Gói dữ liệu: Đơn vị cơ bản trong kỹ thuật truyền số liệu
- ACK: Thông tin xác nhận gói dữ liệu đã được truyền đến đích.
- W(t): Độ lớn cửa sổ phát tại thời điểm t
- SMSS (Sender maximum segment size): Kích cỡ tối đa của một gói dữ
liệu được gửi
Trang 37
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
- RMSS (receiver maximum segment size) : Kích cỡ tối đa của gói dữ
liệu mà thiết bị nhận có thể nhận, không bao gồm dữ liệu tiêu đề và các
trường lựa chọn.
- RWND (Received window): Giá trị cửa sổ bên nhận tại thời điểm đang
xét.
- CWND (Congestion window): Cửa sổ tắc nghẽn hay giá trị W(t) trong
trường hợp có tắc nghẽn.
- Flight Size : Số gói dữ liệu đã gửi nhưng chưa nhận được xác nhận bởi
gói xác nhận ACK tương ứng.
- Time out : Khoảng thời gian xác định gói tin có lỗi.
- RTT : Thời gian khứ hồi, hay độ trễ toàn phần, đó là khoảng thời gian
để một gói tin đi đến đích và nhận lại ACK.
- Slow Start : Cơ chế khởi động chậm trong điều khiển lưu lượng
- Congestion Avoidance : Giai đoạn tránh tắc nghẽn trong cơ chế điều
khiển lưu lượng
- Threshold : Ngưỡng chuyển đổi từ giai đoạn khởi động chậm sang giai
đoạn tránh tắc nghẽn.
1.2 Điều khiển lưu lượng trong TCP
Việc sử dụng ACK để xác nhận gói tin đã đến đích hay chưa, ảnh
hướng lớn đến hiệu suất mạng vì nhiều gói số liệu sẽ có nhiều gói ACK .
Giao thức TCP cung cấp dịch vụ trao đổi dữ liệu tin cậy sử dụng cơ
chế điều khiển lưu lượng kiểu đầu cuối - đầu cuối (end-to-end) không
phục thuộc vào cơ chế điều khiển tắc nghẽn của mạng ở các mức thấp
thấp hơn. Giao thức này điều khiển tần suất truyền bằng cách giới hạn số
gói xác nhận ACK được truyền. Trong mỗi phiên làm việc, độ lớn cửa sổ
phát W là số gói dữ liệu có thể truyền đi liên tiếp mà chưa có gói xác
nhận ACK trả lời tương ứng. Xét về mặt lý thuyết thì độ lớn cửa sổ phát
càng lớn càng tốt, tuy nhiên thực tế thì không như vậy, độ lớn của sổ
truyền ban đầu là thấp khi một kết nối được thiết lập, sau đó tăng dần lên
Trang 38
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
nhằm tránh tắc nghẽn (cơ chế khởi động chậm). Quá trình sẽ tăng lên liên
tục cho đến khi W đạt đến giá trị tối đa, tức là khi gặp lỗi hay khi nhận
được gói xác nhận ACK yêu cầu phát lại, hay quá thời gian chờ tối đa cho
phép, gọi chung là tình trạng mất dữ liệu, tắc nghẽn đã xảy ra. Khi đó, độ
lớn cửa sổ phát sẽ được giảm và quá trình truyền lại bắt đầu một chu kỳ
mới.
Khi bộ đệm kênh nhận có kích cỡ đủ lớn để có thể không cần quan
tâm đến độ lớn của sổ nhận và kênh phát có bộ đệm rất lớn và có một kết
nối, dữ liệu được ghi vào bộ đệm phát thành các đơn vị có độ dài cao nhất
SMSS trước khi được truyền cho lớp mạng. Tại thời điểm đầu tiên W(t) =
SMSS, độ lớn một gói dữ liệu. TCP gửi gói dữ liệu đầu tiên sau đó chờ
gói xác nhận ACK tương ứng. Nếu gói ACK đến trước thời điểm cho
phép (timeout), độ lớn cửa sổ phát tăng lên một với mỗi gói xác nhận
ACK nhận được và quá trình lặp lại cho đến khi W(t) bằng giá trị ngưỡng
tránh tắc nghẽn (threshold).
Độ lớn cửa sổ phát tăng nhanh theo hàm mũ trong pha khởi động
chậm, khi độ lớn cửa sổ phát tăng vượt quá giá trị ngưỡng threshold đặt
trước thì giá trị W(t) sẽ tăng tuyến tính và theo công thức : W(t) = W(t) +
1/W(t) và chuyển sang pha tránh lỗi. Như vậy, độ lớn của sổ phát tăng lên
một sau khi phát hết các gói dữ liệu trong cửa sổ phát và khi giá trị W(t)
càng lớn, thì tốc độ tăng càng chậm. Khi gặp lỗi hoặc timeout cho mỗi
gói xác nhận ACK thì độ lớn cửa sổ phát được đặt về một, đồng thời giá
trị ngưỡng threshold bằng W(t)/2 ( theo chuẩn TCP Reno). Ta thấy trong
giai đoạn này, cửa sổ phát tăng rất chậm nhưng giảm rất nhanh - theo cấp
số nhân.
Cơ chế điều khiển lưu lượng ở trên là nguyên lý chung của cơ chế
điều khiển lưu lượng trong TCP. Hai chuẩn đang được ứng dung rộng rãi
hiện nay là Tahoe TCP và Reno TCP. Khác với chuẩn Tahoe TCP, Reno
TCP có một số sửa đổi khi dữ liệu bị mất hay thời gian chờ gói ACK quá
Trang 39
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
lâu (timeout). Giống như Tahoe, chuẩn Reno - TCP đặt lại độ lớn của sổ
phát bằng một khi quá thời gian chờ gói ACK, trong chuẩn Reno TCP có
sử dụng cơ chế khôi phục lại nhanh (Fast Recovery) sau khi nhận được
liên tiếp ba gói xác nhận ACK cho cùng một gói tin. Chuẩn được sử dụng
rộng rãi nhất hiện nay là chuẩn Tahoe TCP, các chuẩn khác như Vegas,
một cải tiến của chuẩn Reno ít được sử dụng hơn.
1.3 Điều khiển lưu lượng động
Xét 2 khái niệm căn bản
- Thời gian phát một đối tượng: là thời gian cần thiết để phát đối
tượng đó lên đường truyền bằng tích độ lớn gói dữ liệu và tốc độ
phát trên kênh tương ứng.
- Thời gian truyền một đối tượng: là thời gian cần thiết để truyền đối
tượng đó từ thiết bị gửi sang thiết bị nhận có tính đến tính chất giới
hạn của độ lớn cửa sổ phát. Thời gian truyền một đối tượng bằng
thời gian phát đối tượng đó cộng tổng thời gian chậm trễ do cơ chế
truyền theo cửa sổ.
Lúc mới bắt đầu phát thông lượng tăng lên rất nhanh, trong giai
đoạn tránh tắc nghẽn độ lớn cửa sổ phát tăng tuyến tính và thay đổi sau
mỗi chu kỳ phát toàn phần và chu kỳ có tính lặp lại từ khi bắt đầu phát
cho tới khi gặp lỗi.
TCP điều khiển lưu lượng động bằng cách tự điều chỉnh tần suất
phát dữ liệu thông qua các cơ chế tự xác định thông số cần thiết tuỳ theo
trạng thái kênh truyền, phụ thuộc vào băng thông và tần suất xuất hiện
lỗi. Từ đó tự thiết lập các thông số phục vụ cho việc trao đổi số liệu.
TCP có hai cách sử dụng cửa sổ. Với việc sử dụng khung cửa sổ cố
định thì độ lớn cửa sổ phát sẽ không thay đổi từ lúc bắt đầu đến khi kết
thúc phiên làm việc giữa hai thực thể cần trao đổi số liệu. Trong mạng mà
tình trạng tắc nghẽn không xẩy ra, các kết nối TCP không phải phân chia
băng thông có ràng buộc sau :
Trang 40
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
1. Cửa sổ tắc nghẽn giới hạn số byte mỗi thiết bị gửi.
2. Không có gói dữ liệu phải gửi lại (do không có tình trạng tắc nghẽn).
3. Tất các các tiêu đề của TCP, IP và tầng liên kết là nhỏ và không đáng
kể.
4. Mỗi đối tượng được truyền có kích thước đủ lớn, gồm một số gói dữ
liệu ( bội của SMSS)
5. Các gói xác nhận ACK nhỏ và có thời gian truyền là không đáng kể.
6. Giá trị ngưỡng ban đầu đặt đủ lớn để giá trị của cửa sổ tắc nghẽn
không bao giờ đạt được.
Nếu :
Độ lớn của mỗi một đối tượng (là khối dữ liệu cần truyền, có thể được
chia thành một số gói tin để gửi đi) được truyền là O bit.
Độ lớn tối đa một gói dữ liệu là S bit.
Tốc độ truyền trên đường liên kết là R bps.
ELT (elapsed time) thời gian trễ của một gói dữ liệu trên đường
truyền, không bao gồm thời gian phát gói dữ liệu đó.
Với mạng có khả năng bị tắc nghẽn, giá trị R thể hiện độ lớn băng
thông ở trạng thái ổn định trong mỗi kết nối TCP, ELT phản ánh độ trễ
trên mạng,
Xem ELT là thời gian thiết lập một kết nối thì 2 * ELT là thời gian
thực hiện thiết lập và bắt tay một kết nối. Nếu đối với mỗi phiên làm việc
không có hạn chế về thời gian kết thúc phiên làm việc đó ta thấy sau
khoảng thời gian 2 *ELT, quá trình phát một đối tượng được bắt đầu và
kết thúc sau O/R giây. Do đó như khái niệm đã trình bày ở trên, tổng thời
gian phát một đối tượng sẽ là 2*ELT + O/R.
Gọi W là độ lớn của sổ phát cố định tức là tối đa số gói dữ liệu chờ
được phát tại mỗi thời điểm. Khi máy chủ nhận được tín hiệu phát, nó
phát cả W gói dữ liệu cho máy yêu cầu. Khi nhận được một gói xác nhận
ACK, thể hiện rằng gói dữ liệu đã đến đích, máy chủ gửi tiếp một gói dữ
Trang 41