Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 99 trang )
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
các tầng có thể giao tiếp được với nhau, tương tự như hai người thuộc hai
Quốc gia sử dụng ngôn ngữ khác nhau muốn hiểu nhau thì cần có một
ngôn ngữ chung vậy. Trong mô hình OSI có hai loại giao thức chính
được áp dụng là: giao thức có liên kết (connection - oriented) và giao
thức không liên kết (connectionless).
Giao thức có liên kết: là trước khi truyền số liệu, hai thực thể trên
hai tầng đồng mức cần thiết lập một liên kết logic và các gói tin được trao
đổi thông qua liên kết này.
Giao thức không liên kết: không cần thiết lập liên kết logic trước
khi truyền số liệu và mỗi gói tin được truyền độc lập với các gói tin trước
hoặc sau nó.
Mô hình OSI
Hình 1.1 Mô hình OSI
Các tầng được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc chung:
Mỗi tầng được tạo ra khi có nhu cầu phải có một sự trừu
tượng mới.
Mỗi tầng tương ứng với một chức năng nhất định
Trang 15
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
Số lượng tầng phải đủ lớn để các chức năng riêng biệt trong
các tầng không quá xa nhau.
Các ranh giới của mỗi tầng có thể chọn để giảm tối thiểu lưu
lượng thông tin trao đổi trực tiếp.
Nhiệm vụ của các tầng trong mô hình OSI có thể được tóm tắt như
sau:
Tầng ứng dụng (Application layer – lớp 7): Là tầng trên cùng
trong mô hình 7 lớp, quy định giao diện giữa người sử dụng và môi
trường OSI, cung cấp các phương tiện cho người sử dụng truy cập và sử
dụng các dịch vụ của mô hình OSI, Giao thức được ứng dụng nhiều nhất
là giao thức HTTP, là cơ sở của WWW, ngoài ra còn một số giao thức
phổ biến khác như SMTP, Telnet, FTP …. Phục vụ các ứng dụng truyền
tệp, đăng nhập từ xa, hay Email.
Tầng trình diễn (Presentation layer – lớp 6): Là tầng có chức
năng chuyển đổi các thông tin từ cú pháp người sử dụng sang cú pháp để
truyền dữ liệu, đồng thời tầng này giải quyết các vấn đề liên quan đến
ngữ nghĩa, cú pháp, ngoài ra nó có thể nén dữ liệu truyền và mã hóa
chúng trước khi truyền để bảo mật, tăng hiệu suất. Một số chuẩn định
dạng dữ liệu của lớp trình diễn dữ liệu là GIF, JPEG, MP3, MPEG
Tầng phiên (Session layer – lớp 5): Là tầng thực hiện việc thiết
lập, duy trì và hủy bỏ các phiên làm việc giữa hai hệ thống, hai máy tính
khác nhau. Tầng phiên cũng quy định một giao diện ứng dụng cho tầng
vận chuyển sử dụng. Các giao thức trong lớp 5 sử dụng là NFS, XWindow System, ASP.
Tầng vận chuyển (Transport layer – lớp 4): Là tầng có chức năng
xác định địa chỉ trên mạng, cách thức chuyển giao gói tin trên cơ sở trực
tiếp giữa hai đầu cuối, đảm bảo truyền dữ liệu tin cậy (end-to-end). Tầng
vận chuyển còn có các chức năng như điều khiển luồng, khắc phục lỗi và
Trang 16
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
kiểm soát tắc nghẽn, thực hiện phân kênh, ghép kênh. Các giao thức phổ
biến sử dụng ở tầng này bao gồm: TCP, UDP, SPX.
Tầng mạng (Network layer – lớp 3): Là tầng điều khiển sự hoạt
động của mạng, có nhiệm vụ tìm đường cho các gói tin trong mạng (định
tuyến), các gói tin này có thể phải đi qua nhiều chặng trước khi đến được
đích cuối cùng. Tầng này còn có chức năng xử lý giao tiếp giữa các
mạng, một số giao thức phố biến ở lớp 3 là: IP, RIP, IPX, OSPF,
AppleTalk…
Tầng liên kết dữ liệu (Data link layer – lớp 2): Nhiệm vụ của tầng
liên kết dữ liệu là thiết lập, duy trì, ngắt các liên kết dữ liệu, xác định cơ
chế truy nhập thông tin trên mạng, các dạng thức chung trong các gói tin,
đóng gói và phân phát các gói tin, kiểm soát lỗi truyền, điều khiển truy
cập môi trường truyền thông.
Tầng vật lý (Physical layer – lớp 1): Tầng vật lý cung cấp phương
thức truy cập để truyền các dòng Bit và không xét đến ý nghĩa, cấu trúc
của chúng, sử dụng chuẩn về điện, ghép nối cơ khí, dây cáp, đầu nối, kỹ
thuật nối mạch điện, điện áp, tốc độ cáp truyền dẫn và các mức nối kết
giữa các thiết bị truyền thông.
2.2 Mô hình TCP/IP
Bộ Quốc Phòng Mỹ tạo ra mô hình TCP/IP với mong muốn mạng
vẫn có thể hoạt động cho dù có chiến tranh hạt nhân, những gói tin vẫn có
thể truyền được đến đích trong điều kiện có một số đường truyền hoặc bộ
định tuyến (router) không hoạt động được, các giao thức được cài đặt tại
các router sẽ tự động tìm đường đi cho các gói tin. Mô hình TCP/IP có 4
lớp: Application, Transport, Internet, network.
Trang 17
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
Hình 1.2 Mô hình TCP/IP
Tầng ứng dụng: Các giao thức lớp cao đã bao gồm những chi
tiết của tầng phiên và tầng trình diễn. ví dụ: DNS, TFTP, FTP, HTTP,
IMAP, IRC, NNTP, POP3, SIP, SMTP, SNMP, SSH, TELNET, RTP.
Tầng giao vận: Tầng này thực hiện vận chuyển dữ liệu kiểu đầu
cuối - đầu cuối (end-to-end) và một một số vấn đề : điều khiển luồng, độ
tin cậy hay điều chỉnh lỗi. TCP, UDP.
Tầng Internet: Mục đích của tầng này là gửi các gói tin từ bất kỳ
một mạng nào trong liên mạng tới đích. Các giao thức chính của tầng này
gồm có: IP (IPv4, IPv6), ARP và RARP.
Host-to-network: Tầng này quy định các liên kết vật lý, cấu trúc
khung, truy cập đường truyền: Ethernet, Wi-Fi, Token ring, PPP, SLIP,
FDDI, ATM, Frame Relay, SMDS.
Cách nhìn các tầng cấp theo quan niệm: hoặc là cung cấp dịch vụ,
hoặc là sử dụng dịch vụ, là một phương pháp trừu tượng hóa để cô lập
các giao thức của tầng trên, tránh việc phải quan tâm đến các chi tiết của
việc thực hiện các dịch vụ. Sự trừu tượng hóa này cho phép những tầng
trên cung cấp những dịch vụ mà các tầng dưới không thể làm được, hoặc
cố ý không làm. Chẳng hạn IP được thiết kế với chức năng chính là
chuyển tiếp các gói tin hướng đến đích với độ tin cậy thấp, và được gọi là
giao thức phân phát với khả năng tốt nhất (thay vì với "độ tin cậy cao"
hoặc "đảm bảo nhất"). Điều đó có nghĩa là tất cả các tầng giao vận đều
Trang 18
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
phải lựa chọn, hoặc là cung cấp dịch vụ đáng tin cậy, hoặc là không và ở
mức độ nào. UDP đảm bảo sự toàn vẹn của dữ liệu bằng cách dùng kiểm
tra tổng (checksum), song không đảm bảo sự phân phát dữ liệu tới đích;
TCP cung cấp cả hai, sự toàn vẹn của dữ liệu, và đảm bảo sự phân phát
dữ liệu tới đích bằng cách truyền tải lại gói dữ liệu, cho đến khi nơi nhận
nhận được gói dữ liệu.
Tuy nhiên, vẫn phải khẳng định lại rằng: các mô hình tham chiếu
chỉ là những mô hình để tham chiếu khi phát triển giao thức mà thôi, nó
không rõ ràng và chi tiết như đặc tả của từng giao thức.
II. Một số giao thức phổ biến
Cũng như thế giới thực, các thiết bị tham gia vào mạng máy tính
muốn giao tiếp được với nhau thì chúng phải hiểu nhau, biết được thông
tin mà những thiết bị khác gửi cho chúng. Nhìn theo một góc độ khác,
thiết bị mạng phải hiểu các qui định như khuôn dạng số liệu, phương thức
trao đổi số liệu giữa các thực thể trong cùng một mức chức năng (trong
các mô hình tham chiếu). Tập hợp các quy định đó được gọi là giao thức.
Tuy nhiên, người ta không qui định một cách chi tiết việc thực hiện cụ thể
các qui định trên như thế nào trong một hệ thống. Giao thức và các thực
thể tham gia trao đổi số liệu tạo thành
“máy giao thức” (Protocol
MachineProtocol Engine). Ta có thể liệt kê một số qui định cụ thể về giao
thức là:
- Cấu trúc khung gói, bao gồm: các số liệu đồng bộ và số lượng
byte tương ứng; các số liệu điều khiển trong trường tiêu đề số lượng byte
tương ứng; độ dài số liệu giao thức; qui tắc tính byte kiểm tra để bảo vệ
số liệu, phát hiện lỗi.
- Phương thức trao đổi số liệu: hướng kết nối hoặc không kết nối;
Trang 19
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
- Trình tự thời gian các giai đoạn trao đổi số liệu theo phương thức
“hướng kết nối” như: thiết lập kết nối, trao đổi số liệu, và giải phóng kết
nối.
- Phương thức phát hiện và xử lý lỗi truyền số liệu…
Tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét một số giao thức phổ biến hiện nay
là giao thức TCP, UDP và RTP.
1. Giao thức TCP
Giao thức TCP là giao thức được thiết kế nhằm trao đổi số liệu một
cách đảm bảo, tin cậy và chính xác giữa hai thực thể cuối trong mạng.
TCP vừa quản lý đúng số tuần tự tính theo byte của dòng số liệu, đồng
thời phải tối ưu hóa giải thông của mạng bằng cách giám sát và điều
khiển lưu lượng từ thực thể gửi tới thực thể nhận. Giao thức TCP có
những đặc điểm sau:
Thiết lập và kết thúc kết nối: TCP là giao thức hướng kết nối, có
nghĩa là hai ứng dụng sử dụng giao thức TCP cần thiết lập kết nối TCP
với nhau trước khi chúng có thể truyền số liệu. Trước khi truyền số liệu,
ứng dụng gửi một thông điệp đồng bộ (SYN). Ứng dụng gửi phải nhận
được biên nhận (gói SYN trả lời) trước khi được phép truyền số liệu tới
thực thể nhận. Để kết thúc kết nối các thực thể TCP gửi/nhận tại trạm
cuối cần trao đổi với nhau thông điệp FIN.
Tính tin cậy: Để đảm bảo liên lạc tin cậy, thực thể nhận biên nhận
tất cả các gói tin nhận được; Thực thể gửi cần lưu lại tại bộ nhớ cục bộ
một bản copy của mỗi gói tin gửi đi cho đến khi nhận được một biên nhận
từ thực thể nhận chỉ ra rằng việc nhận đúng đã xảy ra tại thực thể nhận.
Nếu gói tin không được biên nhận trong một khoảng thời gian t out thì gói
tin được xem như bị mất và được truyền lại. T out phải được đặt là một giá
trị thích hợp cho phép phát hiện nhanh gói tin bị mất đồng thời tránh
Trang 20