Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 99 trang )
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
Có nhiều nguyên nhân gây ra lỗi truyền số liệu như nhiễu trong
môi trường truyền, lỗi do các thực thể tham gia mạng gây ra... Trong đó
nguyên nhân chính là ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn đến chất
lượng của tín hiệu được truyền trên môi trường truyền dẫn đó. Tín hiệu
được xét đến ở đây là tín hiệu nhị phân. Mỗi đường truyền có một giới
hạn về băng thông (frequency band). Trong trường hợp lý tưởng, đường
truyền không có nhiễu, giữa băng thông của một đường truyền và tốc độ
truyền số liệu trên đường truyền đó có quan hệ ràng buộc theo công thức
Nyquist sau đây: V=2*B*log2M, trong đó V là tốc độ truyền số liệu, tính
bằng bit/s, B là độ lớn băng thông của đường truyền, tính bằng Hz, M là
số mức tín hiệu (điện) biểu diễn thông tin. Nếu sử dụng 2 mức tín hiệu
điện, thì công thức trở thành V=2*B. Tín hiệu được truyền “trung thực”
trong giới hạn băng thông của một đường truyền, nghĩa là tuân thủ theo
ràng buộc trên. Tín hiệu được truyền “trung thực” được hiểu theo nghĩa
là: tín hiệu được đưa vào ở đầu vào của đường truyền (tín hiệu phát) cũng
chính là tín hiệu nhận được ở đầu ra của đường truyền đó (tín hiệu thu).
Nếu tín hiệu được truyền với tốc độ v > 2B thì tín hiệu sẽ bị biến dạng,
còn gọi là tín hiệu bị méo. Và vì vậy không được tái tạo lại một cách
chính xác như tín hiệu phát ra ở thiết bị cuối nguồn. Lỗi tín hiệu thu
được trong trường hợp này tạo ra lỗi bit. Ngoài ra, năng lượng của tín
hiệu bị suy giảm khi tín hiệu được truyền dẫn trên đường truyền cũng là
một nguyên nhân dẫn đến sự biến dạng của tín hiệu. Thông thường, năng
lượng của tín hiệu trên đường truyền giảm theo hàm logarit, phụ thuộc
vào tần số, khoảng cách trên đường truyền đó. Sự suy giảm năng lượng
của tín hiệu không chỉ làm giảm mức tín hiệu thu được ở thiết bị cuối
đích, mà còn làm gảm tỷ số tín hiệu/tạp âm (S/N), khiến cho tín hiệu
không được tái tạo lại đúng như tín hiệu phát ở thiết bị cuối nguồn.
Những yếu tố khác, ví dụ: nhiệt độ, độ ẩm, năng lượng, sống điện từ…
Trang 33
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
gọi chung là nhiễu của môi trường, cũng là những nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến chất lượng truyền dẫn tín hiệu trên một đường truyền cụ thể.
Để đánh giá chất lượng truyền dẫn của một đường truyền, người ta
xác định “tỷ lệ lỗi bit” BER (Bit Error Rate), còn gọi là xác suất lỗi bit p b,
được định nghĩa là tỷ lệ số lượng tổng các bit bị lỗi trên tổng số các bit
được truyền.
Một đường truyền tốt là đường truyền có tỷ lệ lỗi bit p b ≤ 10-9,
nghĩa là có không quá 1 bit bị lỗi trong tổng số 10 9 bit được truyền. Một
đường truyền có thể chấp nhận được là đường truyền có tỷ lệ lỗi bit BER
hay xác suất lỗi bit pb ≤ 10-4, nghĩa là: có 1 bit bị lỗi trong tổng số 10 -4 bit
được truyền. Dựa trên xác suất lỗi bit pb, người ta có thể xác định được
xác suất lỗi gói số liệu pf.
pf = 1 – (1 – pb )N
trong đó N là độ dài của gói số liệu. Trong trường hợp Npb<<1 ta có:
pf Npb
Có hai loại lỗi bit là lỗi bit đơn (single bit error) và lỗi bit chùm
(error burst). Lỗi bit đơn là lỗi từng bit riêng biệt, xuất hiện một cách
ngẫu nhiên trong cả gói số liệu. Lỗi bit chùm là tập hợp nhóm các bit bị
lỗi với một tỉ lệ vượt quá một ngưỡng xác định, xuất hiện liên tiếp trong
cả gói số liệu. Một nhóm bit bị lỗi bắt đầu bằng một bit lỗi và kết thúc
bằng một bit bị lỗi, các bit trong nhóm có thể bị lỗi liên tục hoặc không
liên tục; giữa các nhóm bit bị lỗi phải tồn tại ít nhất là (B+1) bit không bị
lỗi, trong đó B có độ dài là nhóm bit bị lỗi.
Để bảo vệ số liệu và phát hiện lỗi bit trong quá trình truyền số liệu,
người ta thêm vào số liệu cần phát một số thông tin dư thừa theo một quy
luật nhất định khi phát và tái tạo lại các thông tin dư thừa này theo cùng
quy luật khi thu. Nếu thông tin dư thừa được bên nhận tái tạo lại không
thay đổi so với thông tin dư thừa do bên gửi gửi đi, thì số liệu thu được
không có lỗi; ngược lại, số liệu thu được có lỗi. Việc khắc phục lỗi được
Trang 34
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
thực hiện hoặc: a) tại thiết bị cuối đích, nếu phát hiện chính xác bit số liệu
bị lỗi, bằng cách thay đổi giá trị của bit số liệu bị lỗi; hoặc b) thiết bị cuối
đích không báo kết quả nhận số liệu bị lỗi và thiết bị cuối nguồn phát lại
(bản sao) gói số liệu bị lỗi. Phương pháp a) có tên gọi là “Điều khiển
khắc phục lỗi trước (FEC - Forward Error Correction)” thường được áp
dụng cho đường truyền có độ trễ lan truyền tín hiệu lớn, ví dụ: đường
truyền vệ tinh. Việc sửa lỗi tại chỗ sẽ làm giảm đáng kể thời gian khắc
phục lỗi do không phải phát lại gói số liệu bị lỗi. Một số phương pháp
điều khiển khắc phục lỗi trước thông dụng hiện nay là: phương pháp
Hamming code, phương pháp Convolution code, phương pháp ReedSolomom code. Phương pháp “Điều kiện khắc lỗi sau (Backward Error
Correction)” là phương pháp điều khiển khắc phục lỗi thường được áp
dụng cho hệ thống truyền dẫn hữu tuyến, bao gồm hai bước: Bảo vệ, phát
hiện lỗi và khắc phục, sửa lỗi trên cơ sở phát lại gói số liệu bị lỗi.
Việc phát hiện lỗi ngày nay được sử dụng bởi một số phương pháp
phổ biến như:
- Kiểm tra chẵn lẻ (Parity) theo ký tự
- Kiểm tra chẵn lẻ theo khối
- Mã dư vòng CRC (Cyclic Redundancy Code)
- Thông báo kết quả nhận số liệu: Yêu cầu thực thể phát phải đợi
biên nhận của gói số liệu vừa gửi mới được phát gói số liệu tiếp
theo. Thông thường thực thể thu biên nhận cho từng gói số liệu.
Nếu nhận đúng nó sẽ biên nhận (Acknowledgement) gọi là biên
nhận tích cực (positive acknowledgement) - ACK. Còn ngược lại
sẽ thông báo NACK (negative acknowledgement) gọi là thông báo
“không tích cực”. Tuy nhiên, việc quản lý này lại gây ra trễ trong
việc truyền tin và quản lý phức tạp trong bộ đệm.
-
Phương pháp sử dụng số tuần tự: Trong hệ thống mạng, các gói
tin có thể được truyền theo nhiều đường khác nhau nên đến thực
Trang 35
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
thể thu vào các thời điểm khác nhau, vì vậy việc sử dụng số tuần tự
(secquence number) được gắn cho từng gói số liệu là điều rất cần
thiết.
-
Phương pháp sử dụng đồng hồ quản lý phát time-out: Nếu các
gói tin được truyền đi mà không có biên nhận trở về thì thực thể
phát sẽ phải truyền lại gói tin. Do đó quản lý đồng hồ phát là một
việc không thể thiếu. Đồng hồ quản lý phát là một bộ đếm nhị phân
đếm ngược được thiết lập một giá trị định trước sau khi gửi đi một
gói tin, giá trị đồng hồ sẽ giảm dần đến 0 – time-out; Khi đó đồng
hồ tạo ra ngắt (interrupt) và kích hoạt một hành động nào đo. Đồng
hồ time-out được tính lại sau mỗi lần nhận ACK hoặc NACK. Việc
xác định thời gian time-out cũng ảnh hưởng rất lớn, quyết định
hiệu suất hoạt động của cơ chế điều khiển khắc phục lỗi.
Vậy nguyên nhân gây lỗi, hay tắc nghẽn trong các hệ thống mạng
là do đâu? Có thể kể ra một số nguyên nhân:
- Thiết bị mạng có thể không xử lý được hết yêu cầu do bộ đệm
nhỏ
- Tốc độ dữ liệu đầu vào lớn hơn tốc độ dữ liệu đầu ra
- Thời gian xếp hàng xử lý quá lớn
- Đường truyền kém chất lượng…
Chính vì những nguyên nhân gây ra sự tắc nghẽn này người ta phải
đưa vào khái niệm về điều khiển tắc nghẽn hay điều khiển lưu lượng
tránh tắc nghẽn.
II. Điều khiển lưu lượng, tránh tắc nghẽn
1. Cơ chế điều khiển lưu lượng
Là tập hợp các biện pháp nhằm giám sát và điều khiển tốc độ phát
số liệu của thực thể phát sao cho thực thể nhận luôn nhận đúng tất cả các
Trang 36
Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+
2007
gói số liệu mà không bị tràn bộ đệm, ví dụ một cơ chế điều khiển lưu
lượng được sử dụng phổ biến là cơ chế cửa sổ (windows-based).
Có thể kể ra một số các giao thức điều khiển khắc phục lỗi như:
Giao thức “Dừng và chờ”, sau khi phát một gói số liệu thực thể phát dừng
lại và chờ nhận được ACK, NACK hay time-out để có biện pháp thích
hợp và sử dụng số tuần tự để thực thể nhận biết thứ tự các gói tin. Giao
thức cửa sổ trượt Go-back-N sử dụng cơ chế cửa sổ gửi và cửa sổ nhận,
gửi đi cùng một lúc một số gói tin rồi mới dừng lại chờ biên nhận cho
từng gói tin đó, đồng thời sử dụng đồng hồ time – out cho từng gói tin.
Tại bên nhận nếu có một gói tin thứ N bị lỗi, các gói tin được nhận sau đó
sẽ bị loại bỏ cho dù các gói này có thể không bị lỗi. Thực thể phát gửi lại
từ gói tin thứ N bị lỗi trở đi. Giao thức cửa sổ trượt phát lại có chọn lọc
(Selective Repeat) xử lý khá hiệu quả bằng cách chỉ phát lại những gói tin
bị hỏng.
Cơ chế cửa sổ trượt giới hạn số byte được phát và quá trình phát lại
và sửa lỗi được giới hạn ngay trong mỗi khung cửa sổ.
Kỹ thuật hàng đợi nhằm quản lý và cấp phát băng thông có sự ưu
tiên cho các kênh truyền theo các tiêu chí khác nhau.
Ngoài ra còn có phương pháp điều khiển ở mức ứng dụng, thực
hiện trong các tiến trình tại hai đầu cuối, bên nhận và bên gửi.
Xét một số kỹ thuật điều khiển lưu lượng trong giao thức TCP:
1.1 Một số khái niệm và thông số cơ bản
- Gói dữ liệu: Đơn vị cơ bản trong kỹ thuật truyền số liệu
- ACK: Thông tin xác nhận gói dữ liệu đã được truyền đến đích.
- W(t): Độ lớn cửa sổ phát tại thời điểm t
- SMSS (Sender maximum segment size): Kích cỡ tối đa của một gói dữ
liệu được gửi
Trang 37