1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Công nghệ thông tin >

Chương 3 Đánh giá hiệu suất giao thức và việc đảm bảo QoS cho truyền thông đa phương tiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 99 trang )


Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



Chương 3 Đánh giá hiệu suất giao thức

và việc đảm bảo QoS cho truyền thông

đa phương tiện

I. Các phương pháp đánh giá hiệu suất giao thức

1. Giới thiệu chung

Trong mọi hệ thống tính toán nói chung hay mạng máy tính nói

riêng, đánh giá hiệu suất (preformance evaluation) là xác định về mặt

định tính và định lượng chất lượng phục vụ của hệ thống tính toán đó đối

với một loại bài toán nhất định. Đối với một giao thức, đánh giá hiệu suất

là xác định về mặt định tính và định lượng chất lượng truyền tải đối với

một lưu lượng thông tin nhất định. Chất lượng truyền tải số liệu của một

giao thức được xác định bằng các đại lượng như: thông lượng

(throughput), nghĩa là: số lượng số liệu – tính bằng bit, byte hoặc gói số

liệu - được truyền tải trong một đơn vị thời gian; thời gian trễ (delay) khi

truyền tải số liệu trên một hệ thống mạng; xác suất lỗi truyền số liệu (còn

gọi là xác suất lỗi bit hoặc xác suất lỗi gói số liệu); thời gian xử lý, khắc

phục lỗi…

Đánh giá hiệu suất giao thức có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan

trong, xuyên suốt toàn bộ quá trình thiết kế, thực hiện và sử dụng giao

thức. Mục tiêu cuối cùng của việc thiết kế, thực hiện và vận hành một hệ

thống kỹ thuật nói chung và các giao thức trao đổi số liệu máy tính nói

riêng cần đạt được tính hiệu quả và chất lượng cao trong hoạt động phục

vụ của hệ thống đó. Từ đây mới đi đến các quyết định như lựa chọn phần

cứng, phần mềm đã có hoặc sẽ có trong quá trình triển khai. Để đánh giá



Trang 72



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



hiệu suất mạng người ta phân các độ đo hiệu suất thành hai loại: Độ đo

hướng tới người sử dụng và độ đo hướng tới hệ thống.

Độ đo hướng tới người sử dụng thường được sử dụng trong các hệ

thống thời gian thực hoặc các môi trường hệ thống tương tác. Thí dụ thời

gian đáp ứng (response time), là thời gian từ khi có yêu cầu đến khi công

việc xử lý yêu cầu đó hoàn thành. Trong các hệ thống tương tác đôi khi

người ta sử dụng độ đo thời gian phản ứng của hệ thống (system reaction

time) là khoảng thời gian từ lúc input được đưa vào hệ thống cho đến khi

yêu cầu này được nhận được khe phục vụ đầu tiên. Độ đo thời gian phản

ứng của hệ thống sử dụng để đo mức độ hiệu dụng của bộ lập lịch cung

cấp dịch vụ cho một yêu cầu mới đến.

Độ đo hướng tới hệ thống trong mạng máy tính có thể là thông

lượng và thời gian trễ. Thông lượng thể hiện số đơn vị thông tin (bit, byte

hoặc packet) tính trung bình được vận chuyển qua mạng trong một đơn vị

thời gian hoặc có thể được tính bằng tốc độ đến trung bình trong trường

hợp mạng chưa đến tình trạng tắc nghẽn. Thời gian trễ là thời gian trung

bình để chuyển một đơn vị thông tin qua mạng từ nguồn tới đích.

Có thể phân loại các phương pháp phân tích, đánh giá hiệu suất

một cách tổng quan đối với một hệ thống chung như sau:



Hình 3.1 Các phương pháp đánh giá hiệu suất

Trang 73



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



2. Đánh giá hiệu suất bằng mô hình toán học

Sử dụng các mô hình xác xuất thống kê cũng như lý thuyết hàng

đợi để đánh giá hiệu suất, sau đó xây dựng một mối quan hệ dạng hàm

với những tham số là các đặc trưng riêng của hệ thống mạng cũng như

các yêu cầu của ứng dụng về thời gian trễ, băng thông hay thời gian đáp

ứng của hệ thống. Các quan hệ này được lập thành các mô hình có thể

giải được bằng giải tích. Các tham số mạng ở đây là số lượng, chiều dài

gói tin, thời gian kết nối, các tài nguyên được chia sẻ,.. Các tham số này

thay đổi một cách ngẫu nhiên. Các tiêu chuẩn hiệu suất có thể là thông

lượng, độ trễ, hệ số sử dụng đường truyền,.. Trong mô hình này, các đại

lượng liên quan đến khái niệm xác suất thường được tính toán như các

giá trị trung bình, kỳ vọng, phương sai. Lý thuyết hàng đợi đóng vai trò

mấu chốt trong việc phân tích mạng, bởi vì đây là công cụ Toán học thích

hợp nhất để phát biểu và giải các bài toán về hiệu suất.

Phương pháp sử dụng mô hình giải tích là một phương pháp rất tốt

là vì nó được thực hiện với chi phí thấp nhất, khi muốn tính hiệu suất với

các tham số khác ta chỉ cần thay đổi các tham số hệ thống và cấu hình

mạng với một chi phí rất thấp (chỉ cần thực hiện lại các thao tác tính toán

đã xây dựng trước) các tham số hệ thống hay việc cấu hình, xây dựng

mạng có thể thay đổi trong miền rộng mà vẫn có được kết quả. Tuy

nhiên, phương pháp này lại gặp phải khó khăn khi triển khai thực tế là

nếu không loại bỏ đi một số yếu tố không ảnh hưởng nhiều đến hệ thống

hay đơn giản hoá bài toán bằng các giả thiết thích hợp, hoặc phân rã

thành các mô hình nhiều cấp thì rất khó thực hiện. Nhưng nếu loại bỏ

những yếu tố này thì vô hình chung chúng ta đã biến hệ thống hoạt động

trong một môi trường lý tưởng, phi thực tế, Các kết quả thu được thường

không phản ánh chính xác thực tế, cho nên phương pháp này thường chỉ

được sử dụng ngay trong giai đoạn đầu của việc thiết kế mạng, giúp cho

Trang 74



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



người thiết kế dự đoán được các giá trị giới hạn của hiệu suất. Ngoài ra,

các kết quả của phương pháp này bắt buộc phải được kiểm nghiệm bằng

các phương pháp khác, như mô phỏng hoặc đo.



3. Đánh giá hiệu suất bằng đo thực tế

Tương tự như trong các ngành toán học hay đo lường khác, hiệu

suất mạng cũng có thể được đánh giá bằng phương pháp đo thực tế.

Phương pháp này theo dõi, giám sát năng lực hoạt động của mạng máy

tính khi đang hoạt động. Việc thu thập các thông tin, số liệu để có thể tính

được độ đo hiệu suất mạng trong thời gian này, rút ra quy luật, sau đó lập

mô hình rồi đưa vào mô hình mô phỏng hay mô hình giải tích để hỗ trợ

cho việc đánh giá hiệu suất. Hai nhiệm vụ quan trọng mà việc đo phải

đảm nhiệm là: 1/ thu thập số liệu để lập mô hình dữ liệu vào cho các

phương pháp đánh giá hiệu suất khác; 2/ kiểm chứng các mô hình khác

dựa trên các số liệu đo được. Việc đo phải được tiến hành xuyên suốt từ

khi xây dựng giải pháp cho hệ thống, giai đoạn lắp đặt và sau khi đưa hệ

thống vào hoạt động. Trong giai đoạn xây dựng giải pháp, việc đo sẽ giúp

quyết định loại thiết bị nào phù hợp nhất với điều kiện của khách hàng.

Trong giai đoạn lắp đặt, việc đo hiệu suất giúp người ta điều chỉnh lại cấu

hình cho phù hợp. Việc đo hiệu suất mạng sau khi hệ thống đi vào hoạt

động giúp quản trị viên theo dõi tình trạng của mạng để có các phương án

khắc phục các sự cố nếu có. Hiện nay, hầu như tất cả các hệ thống mạng

đều tích hợp bên trong các công cụ đo và đánh giá hiệu suất; nhờ đó có

thể đo hiệu suất bất cứ lúc nào trong suốt vòng đời của hệ thống.

Ngoài ưu điểm là tính chính xác cao thì nhược điểm của phương

pháp đo là phải được thực hiện trên mạng thực, nó cũng đòi hỏi chi phí

cho các công cụ đo và cho việc tiến hành đo. Việc đo cần được tiến hành

tại nhiều điểm, ở những thời điểm khác nhau và cần lặp đi lặp lại trong

một khoảng thời gian đủ dài. Ngoài ra, người nghiên cứu phải có kiến

Trang 75



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



thức về Lý thuyết thống kê thì mới có thể rút ra được các kết luận hữu ích

từ các số liệu thu thập được. Mặc dầu vậy, bằng phương pháp đo có thể

vẫn không phát hiện hoặc dự đoán được các hành vi đặc biệt của mạng.



4. Đánh giá hiệu suất bằng mô phỏng

Mô phỏng lại những sự vật tương tự như thực tế dưới dạng một mô

hình là sự bắt chước một hay nhiều khía cạnh của sự vật có thực, bằng

một cách nào đó càng giống càng tốt với một hình thái nhỏ hơn, dễ quan

sát hơn và không phải đầu tư kinh phí nhiều, thông thường nó là các

chương trình máy tính có cấu trúc được module hóa, có tính mở, dễ dàng

cho việc thay đổi, bổ sung các thành phần nhằm thực hiện các mục đích

khác nhau. Mô phỏng tương tự như một thí nghiệm với những khoảng

thời gian khác nhau để kiểm tra các kết quả hoạt động trong mỗi khoảng

thời gian đó. Thường khi mô phỏng mạng, người ta quan tâm tới các độ

đo của mạng và đánh giá nó trong trạng thái dừng. Nói một cách khác,

trong việc đánh giá hiệu suất mạng, mô phỏng là một kỹ thuật sử dụng

máy tính để thực hiện các thí nghiệm về mạng. Trong mô hình này người

ta có thể theo dõi được sự hoạt động của mạng theo tiến trình thời gian.

Ngày nay, với sự trợ giúp đắc lực của máy tính, phương pháp này tỏ ra rất

hiệu quả và được sử dụng rộng rãi.

Đối với mô hình mô phỏng, việc quan trọng nhất là xây dựng được

bộ mô phỏng. Việc này đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Độ lớn của

bộ mô phỏng tuỳ thuộc vào độ phức tạp của thí nghiệm mô phỏng. Nó

thường được xây dựng có cấu trúc, cho phép mô-đun hoá chương trình

mô phỏng thành tập các chương trình con, sao cho việc sửa đổi, bổ sung

các chương trình con được dễ dàng. Ngoài ra, các chương trình mô phỏng

cũng phải được xây dựng sao cho tối ưu hoá về mặt tốc độ nhằm làm

giảm thời gian chạy mô phỏng.



Trang 76



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



Có nhiều trường hợp dùng phương pháp giải tích, mặc dù đã được

đơn giản hoá tối đa nhưng vẫn không giải được thì người ta chỉ còn cách

dùng phương pháp mô phỏng. Mặt khác nó đặc biệt hiệu quả trong giai

đoạn thiết kế hệ thống, bởi vì người ta có thể chọn các thiết bị mạng (ảo)

một cách thoải mái và đánh giá mức độ phù hợp của nó trước khi quyết

định đầu tư cho hệ thống. Mặc dù phương pháp này đòi hỏi phải xây

dựng bộ mô phỏng với chi phí rất cao, nhưng sau khi đã xây dựng được

thì có thể thực hiện bao nhiêu thí nghiệm tuỳ ý theo các tham số khác

nhau với chi phí rất thấp.

Cả ba phương pháp đánh giá hiệu suất đều có những ưu nhược

điểm nhất định. Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng phương pháp mô

phỏng để đánh giá hiệu suất giao thức WLDA+. Có nhiều phương pháp

mô phỏng nổi tiếng trên thế giới như Network Simulator (NS), hay

Netsim hoặc RouterSim.v.v. Nhưng được sử dụng nhiều nhất trong các

môi trường trường học, nghiên cứu hay mô phỏng những ứng dụng lớn

đòi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng là phần mềm NS. Do đó, chúng tôi cũng

mạnh dạn nghiên cứu sử dụng phần mềm mô phỏng này và áp dụng vào

việc kiểm chứng hiệu suất của giao thức TCP, UDP, RTP và WLDA+.



II. Truyền thông Multimedia và vấn đề đảm bảo QoS

1.Truyền thông đa phương tiện

Việc triển khai các ứng dụng có chất lượng cao ngày một nhiều và

đa dạng. Lưu lượng giao thông mạng từ các ứng dụng đặc biệt cần được

bảo vệ và có sự ưu tiên khác nhau, đặc biệt là truyền thông Multimedia là

loại ứng dụng nhạy cảm với độ trễ (delay) và thăng giáng độ trễ (jitter),

tuy nhiên chúng lại cho phép sự mất mát gói tin ở một mức độ nào đó.

Như vậy so với các ứng dụng truyền thống, trong đó cho phép độ trễ,

thăng giáng độ trễ lớn nhưng không chấp nhận việc mất mát dự liệu thì

tính chất của nó hoàn toàn ngược lại. Ví dụ: Trong các ứng dụng thì dữ

Trang 77



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



liệu Voice cần được ưu tiên trước các ứng dụng như video hay data để

đảm bảo tính chính xác và tính thời gian thực. Những chính sách để đảm

bảo chất lượng dịch vụ - QoS (Quality of service) đóng một vai trò quan

trọng trong việc nghiên cứu và điều hành mạng.

Có 3 lớp ứng dụng truyền thông Multimedia chính như sau:

 Truyền audio và video đã được lưu trữ: Loại ứng dụng này

hiện nay là phổ biến hiện nay trên Internet, các files audio hoặc video đã

được lưu trữ sẵn trên các máy phục vụ (server), người dùng tại các máy

trạm (client) truy cập đến để tải về sử dụng. Các files audio có thể là các

bài hát, bài giảng, hoặc các đoạn băng được ghi âm từ trước,... Các files

video có thể là những bộ phim, video clips, các đoạn video của những sự

kiện thể thao, giải trí.v.v. Đa số ứng dụng này, sau một thời gian trễ vài

giây, các máy trạm có thể bắt đầu chạy được các phần đã tải về của file

trong khi chúng vẫn tiếp tục nhận phần còn lại từ server. Nhiều ứng dụng

còn cho phép tính năng tương tác với người dùng: cho phép người dùng

thực hiện các chức năng thông dụng như: pause, play, next, previous. Từ

lúc người dùng đưa ra yêu cầu đến khi nhận được đáp ứng khoảng từ 1 –

10s là có thể chấp nhận được. Yêu cầu đối với độ trễ và jitter không chặt

chẽ bằng ở trong ứng dụng thời gian thực như điện thoại Internet, video

conference thời gian thực... Các chương trình dùng để chạy các file

audio/video được lưu trữ trên mạng hiện nay như: RealOne Player,

Winamp, Windows Media Player…

 Truyền audio và video thời gian thực: Ứng dụng loại này

tương tự như phát thanh và truyền hình quảng bá nhưng được thực hiện

trên Internet, cho phép người dùng nghe/xem được các chương trình phát

thanh/truyền hình trực tuyến từ bất kỳ nơi nào trên thế giới. Chẳng hạn

người dùng có thể nghe đài BBC phát từ Anh, các kênh truyền hình VTV

phát đi từ Hà nội từ bất kỳ máy nào kết nối Internet. Đặc trưng của lớp

Trang 78



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



ứng dụng này là nhiều người có thể đồng thời nhận được cùng một

chương trình audio/video. Tuy nhiên, các ứng dụng này không cho phép

tương tác người dùng và độ trễ các ứng dụng loại này cho phép tối đa là

10s như lớp ứng dụng truyền audio/video được lưu trữ. Việc phân phối

audio/video cho nhiều người dùng được thực hiện bằng kỹ thuật multicast

hoặc nhiều dòng unicast riêng biệt cho mỗi người nhận, tùy vào việc cài

đặt.

 Ứng dụng tương tác audio và video thời gian thực: Lớp ứng

dụng này cho phép nhiều người dùng sử dụng audio/video để tương tác

với nhau trong thời gian thực. Một ứng dụng tiêu biểu của audio thời gian

thực là điện thoại Internet, nó cung cấp dịch vụ điện thoại cục bộ cũng

như điện thoại đường dài với giá rẻ hơn nhiều so với điện thoại truyền

thống. Các ứng dụng cho audio thời gian thực có thể kể đến như: Voice

Chat trong Yahoo Messenger, Skype, Palm Talk.. Đối với ứng dụng

video thời gian thực, điển hình là Hội thảo trực tuyến (video

conferencing), trong đó các “đại biểu” có thể giao tiếp với nhau bằng cả

âm thanh và hình ảnh. Trong quá trình hội thảo, mỗi “đại biểu” được hiển

thị trên một cửa sổ giao diện chương trình người dùng, khi cần giao tiếp

với ai người ta chỉ cần mở cửa sổ tương ứng với người đó. Hiện nay đã có

nhiều ứng dụng cho video thời gian thực như Microsoft Netmeeting,

Yahoo Messenger,.. Trong các ứng dụng tương tác audio/video thời gian

thực thì yêu cầu độ trễ nhỏ hơn vài trăm miligiây. Với âm thanh, độ trễ

tốt nhất là nên nhỏ hơn 150 ms, với độ trễ từ 150-400ms thì có thể chấp

nhận được, còn lớn hơn 400 ms thì không thể chấp nhận được.

Tất cả các ứng dụng trên phải đối mặt với một số vấn đề:

 Sự thiếu hụt về băng thông: Những file đồ họa lớn, đa phương tiện,

âm thanh, hình ảnh … là nguyên nhân gây ra vấn đề thiếu hụt băng

thông trên mạng do kích cỡ lớn và yêu cầu về độ trễ rất ít.

Trang 79



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



 Trễ đầu cuối (End –to – end delay) : Tổng độ trễ của một gói tin từ

thực thể gửi cho đến thực thể nhận không đảm bảo cho các ứng

dụng multimedia hoạt động hiệu quả.

 Thăng giáng độ trễ (jitter): Là sự biến thiên về độ trễ về thời gian

đến của các gói tin dọ trong cùng một luồng. Đặc biệt trong truyền

tải âm thanh thì đòi hỏi giảm jitter là rất cần thiết.

 Mất gói tin (Packet loss): Mất gói tin thường là do tắc nghẽn trên

đường truyền WAN.

Do đó vấn đề đảm bảo chất lượng dịch vụ (QoS) được đặt ra, có thể

nói QoS được sử dụng để giảm jitter, độ trễ, mất gói tin và chia sẻ băng

thông hợp lý với những độ ưu tiên khác nhau cho các loại dữ liệu khác

nhau của những ứng dụng nhậy cảm với thời gian. Một số mô hình đảm

bảo QoS được trình bày dưới đây.



2. Một số mô hình QoS:

 Best-effort: Mô hình thông dụng nhất trên Internet, không đảm bảo

QoS, coi mọi luồng, gói tin đến là như nhau, sử dụng hằng đợi

FIFO. Mô hình này có những lợi điểm như đơn giản, khả năng

triển khai cao, không yêu cầu về cài đặt kỹ thuật phức tạp nhưng

lại có nhiều nhược điểm như Tỷ lệ mất gói tin cao khi xảy ra tắc

nghẽn: các gói tin của giao thức TCP, UDP, RTP được đóng gói

trong những gói IP và được truyền qua mạng qua các Router trên

đường truyền, nếu bộ đệm của những Router này đầy nó sẽ loại bỏ

các datagram đó. Độ trễ end-to-end cao: Độ trễ này có thể lên tới

trên 400ms, vượt quá mức tối đa có thể chấp nhận được (độ trễ

chấp nhận được là trong khoảng 150ms – 400ms). Jitter lớn: Sự

biến thiên thời gian đến của các gói tin (jitter) trong phân lớp này

rất lớn, có gói tin đến đích thì quá nhanh còn có các gói tin đến lại

quá chậm, nếu bên nhận bỏ qua jitter chạy ngay đoạn âm thanh

Trang 80



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



hình ảnh này sẽ không đạt được kết quả như mong đợi, thậm chí

không có sự chính xác.

 IntServ (Intergrated services model): Mô hình này hỗ trợ việc đảm

bảo chất lượng cho các ứng dụng thời gian thực, đảm bảo phân tải

và có thể dự đoán trước tình trạng mạng cho ứng dụng. Mô hình

này sử dụng giao thức RSVP (Resource Reservation Protocol ) là

một giao thức báo hiệu. Trước khi truyền dữ hiệu, ứng dụng truyền

thông sử dụng giao thức này gửi tới tất cả các thiết bị tham gia vận

tải dữ liệu trên đường truyền (các router) một yêu cầu đặt trước về

băng thông, tốc độ truyền số liệu…Để triển khai được thì mọi thiết

bị trên đường truyền phải hỗ trợ mô hình này. Một số chức năng

trên các Router và Switch khi triển khai mô hình này là:

o Admission Control: Để những luồng mới không ảnh hưởng

đến những luồng dữ liệu đã đặt trước đang thực hiện

o Classification: Sự phân lớp các gói tin trong để có các cách

ứng xử khác nhau.

o Scheduling: Xác định khi nào thì chuyển tiếp gói tin.

o Ngoài ra còn có thêm các chức năng như: Policing và

Queuing.

Các ưu điểm của mô hình QoS này là: Quản lý tài nguyên một

cách rõ ràng nhờ chức năng adminsion control, chất lượng được bảo đảm

tốt. Tuy nhiên mô hình này cũng gặp không ít khó khăn trong lúc triển

khai như khó triển khai rộng, kỹ thuật phức tạp, có thể gây lãng phí tài

nguyên.

 DiffServ Model (The diffirentiated Services Model): Được thiết

kế để khắc phục những hạn chế của các mô hình best-effort và

intServ. Lưu lượng mạng được phân lớp ở lớp 2 (CoS,802.1p,

MPLS EXP, Frame Relay) hoặc lớp 3 (DSCP, IP precedent),

chính sách về QoS được đối xử theo các lớp. Mô hình này được

Trang 81



Luận văn cao học – Nghiên cứu thuật toán WLDA+



2007



xem như là đảm bảo QoS mềm (Soft QoS), được sử dụng mà

không cần có giao thức báo hiệu, được quản lý theo từng chặng

(hop-by-hop) bằng các chính sách thiết lập độc lập với mỗi thiết

bị trung gian. Mô hình QoS này có những ưu điểm là tính khả

triển cao và có thể có nhiều cấp độ chất lượng. Tuy nhiên, nó

cũng có những nhược điểm là không bảo đảm tuyệt đối về chất

lượng vì được triển khai khác nhau và không cần phải đặt trước

tài nguyên, ngoài ra kỹ thuật của mô hình này cũng khá phức

tạp.

Tóm lại, để triển khai một mạng có hiệu suất cao, người ta phải kết

hợp nhiều phương pháp như nâng cao chất lượng đường truyền, bộ vi xử

lý của các thiết bị mạng, nâng cấp các bộ xử lý QoS ở các thiết bị trung

gian trên đường truyền mạng hay cải tiến các giao thức với những cách

thức xử lý lỗi và điều khiển luồng phù hợp. Phần tiếp theo, ta sẽ hệ thống

lại một số kỹ thuật trong các giao thức phổ biến.



III. Một số kỹ thuật xử lý hàng đợi

Các gói tin khi đi qua mạng bao giờ cũng có một độ trễ nhất định,

trong đó có độ trễ do gói tin phải được lưu vào các hàng đợi của các

router để chờ được chuyển tiếp đến đích. Những thuật toán hàng đợi là

một trong những cách chính để quản lý tắc nghẽn tạm thời trên mạng,

phục vụ việc đảm bảo chất lượng dịch vụ vận chuyển. Những thuật toán

hàng đợi có ảnh hưởng lớn đến hiệu suất mạng.

Các thuật toán quản lý hàng đợi:

Firt in Firt out (FIFO) hay First Come First Serve (FCFS): Là

thuật toán đơn giản, gói tin nào đến trước thì được gửi đi trước, chỉ cần sử

dụng một hàng đợi duy nhất.



Trang 82



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

×