Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (47.3 MB, 90 trang )
một trình độ mới, cao hơn. Nhu cầu của xã hội cũng khiến mức đầu tư về kỹ thuật, kinh
tế, tổ chức của các trang trại cao hơn nhiều so với phương thức sản xuất nhỏ, phân tán.
Để làm rõ khái niệm về trang trại, trước hết chúng ta cần phân biệt 2 thuật ngữ “trang
trại” và “kinh tế trang trại” . Kinh tế trang trại là nói đến mặt kinh tế của trang trại, là
tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế nẩy sinh trong quá trình
tồn tại và hoạt động của trang trại; còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của
sản xuất và là chủ thể của các mối quan hệ kinh tế đó. Hay nói một cách khác khái niệm
về trang trại rộng hơn khái niệm về kinh tế trang trại.
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở vì trang trại là đơn vị trực tiếp sản xuất
ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội bao gồm nông, lâm, thuỷ sản, đồng thời
quá trình kinh tế trong trang trại cũng là quá trình khép kín với các khâu của quá trình tái
sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.
Các học giả trên thế giới khi nghiên cứư về kinh tế trang trại đã đưa ra những quan
điểm sau đây:
Các Mác đã so sánh và phân biệt: Người chủ trang trại bán ra thị trường hầu hết sản
phẩm làm ra , còn người tiểu nông thì tự dùng đại bộ phẩm sản phẩm sản xuất được, mua
bán càng ít càng tôt.
Ông cũng cho rằng trong sản xuất nông nghiệp, mô hình kinh tế trang trại có vai trò
hết sức quan trọng và thường mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn: “ Ngay ở nước Anh với
nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất có lợi nhất không phải là các xí nghiệp
nông nghiệp quy mô lớn m à là các trang trại gia đình dùng lao động làm thuê” [13 ].
Theo tác giả Phạm M inh Đức (1997): “Trang trại là một loại hình sản xuất nông
nghiệp hàng hoá của hộ, do một người chủ hộ có khả năng đón nhận những cơ hội thuận
lợi, từ đó huy động thêm vốn và lao động, trang bị tư liệu sản xuất, lựa chọn công nghệ
sản xuất thích hợp, tiến hành tổ chức sản xuất và dịch vụ những sản phẩm theo yêu cầu
của thị trường nhằm thu được những lợi nhuận cao” [11 ].
12
Trần Đức (1998) cho rằng: “Trang trại là chủ lực của tổ chức là nông nghiệp của các
nước tư bản cũng như các nước đang phát triển và theo các nhà khoa học khẳng định đó
là tổ chức sản xuất kinh doanh của nhiều nước trên thế giới trong thập kỷ 21” [ 12 ].
Nguyền Thế Nhã (1999):
“Trang trại là một hình thức sản xuất cơ sở trong nông,
lâm, ngư nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền
sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy
mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý
tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường”. [ 3 ].
Nguyễn Phượng Vỹ (1999): “Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong nông lâm - ngư nghiệp phổ biến, được hình thành trên cơ sở kinh tế nhưng mang tính chất sản
xuất hàng hoá ” . [ 3 ].
Lê Trọng (2000) “Trang trại là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở, là doanh nghiệp trực
tiếp tổ chức sản xuất ra nông sản hàng hoá dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động
xã hội, được chủ trại đầu tư vốn, thuê mướn phần lớn hoặc hầu hết sức lao động và trang
bị tư liệu sản xuất để hoạt động kinh doanh theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường, được
Nhà nước bảo hộ theo luật định”. [ 3 ].
Có nhiều khái niệm khác nhau về trang trại nhưng chúng tôi thống nhất trên quan
điểm của nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính Phủ cho rằng bản chất
của trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nền nông nghiệp nông thôn
chủ yếu dựa vào hộ gia đình. Kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp hàng hoá (bao gồm trồng
trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản) có quy mô (về đất đai, vốn, lao động,
thu nhập) tương đối cao hơn mức trung bình của kinh tế hộ gia đình tại địa phương, tương
ứng với từng ngành nghề cụ thể. Không nên đề cập tới các hình thức huy động các nguồn
lực (đất đai, lao động, vốn...) khi đưa ra khái niệm trang trại nhưng việc huy động và sử
dụng các nguồn lực đó phải đảm bảo tính hợp pháp, được Nhà nước bảo hộ và các chủ
trang trại phải tự chịu trách nhiệm trước việc huy động và sử dụng các nguồn lực đó.
Ngoài hoat động nông nghiệp thì các hoạt động khác như các ngành nghề dịch vụ cũng
13
cần được tính vào lĩnh vực và phạm vi hoạt động của trang trại để đảm bảo tính hệ thống
của mô hình kinh tế này.
Từ những nhận thức trên, từ kinh nghiệm thực tiễn của trang trại nước ta cũng như các
nước trên thế giới, khái niệm trang trại có thể hiểu như sau: Trang trại là một hình thức tổ
chức kinh t ế nông, lâm, ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ nhưng mang tính
chất sản xuất hàng hoá rõ rệt, cố sự tập trung tích tụ cao hơn về các yếu tô' sản xuất, có
nhu cầu cao hơn về thị trường, về khoa học công nghệ, có giá trị, tỷ xuất hàng hoá và thu
nhập cao hơn so với mức bình quân của các hộ gia đình trong vùng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, trang trại mang đầy đủ và thể hiện rõ nét những
đặc điểm nêu trong khái niệm trên. Tuy nhiên ở mỗi nước trong giai đoạn cụ thể, tuỳ theo
điều kiện và trình độ phát triển mà những đặc điểm trên có thể biểu hiện ở những mức độ
khác nhau. Ở nước ta nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng đang trong
giai đoạn chuyển từ tự cung tự cấp sang trình độ sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị
trường. Do vậy các đặc điểm của trang trại nêu trên cũng chưa được thể hiện rõ nét như ở
các nước có trình độ sản xuất hàng hoá cao trong sản xuất nông nghiệp.
1.1.2. Các mô hình kinh tế trang trại
Việc phân loại các loại hình trang trại phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác nhau có
mang tính chất quyết định đến hướng phát triển và quy mô của trang trại, qua nghiên cứu
thực tế các nhà khoa học đã dựa trên các tiêu chí sau để phân loại trang trại:
- Phân loại theo cơ cấu thu nhập: là hình thức phổ biến thường được phân biệt theo
thu nhập từ nông, lâm nghiệp là chủ yếu (trang trại thuần nông)
- Phân loại theo cơ cấu sử dụng đất đai: Cơ cấu sản xuất được xác định căn cứ vào
điều kiện tự nhiên, trình độ sản xuất và đặc điểm thị trường của từng khu vực. Theo cách
phân loại này, có nhiều trang trại khác nhau mang tính chất kinh doanh tổng hợp: kết hợp
nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp (các nước châu Á), nông nghiệp kết hợp với lâm
nghiệp (các nước châu Âu), ơ các nước mà nông nghiệp phát triển đến trình độ cao như
Mỹ, Pháp, Anh, Đức...thì cơ cấu sản xuất theo hướng chuyên môn hoá trong trồng trọt,
chăn nuôi và cảnh quan sinh thái du lịch.
14
- Phân loại theo hình thức quản lý: Phân theo loại này có trang trại gia đình, trang
trại liên doanh và trang trại hợp doanh kiểu cổ phần.
- Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất: đặc trưng chủ yếu của cách
phân loại này là: người chủ trang trại có sở hữu toàn bộ hay 1 phần số tư liệu sản xuất từ
đất đai, công cụ máy móc, lao động...thường được xuất hiện ở Mỹ, Nhật.
- Phân loại theo phương thức điều hành sản xuất: Đối với các nước có diện tích
trang trại và quy mô sản xuất nhỏ thì chủ trang trại phần lớn là người trực tiếp quản lý, điều
hành các công việc của trang trại gắn liền với nông thôn, gia đình. Nhưng ở một số nước có
nền nông nghiệp phát triển người chủ và gia đình không ở trong trang trại nhưng vẫn trực
tiếp điều hành trang trại, điều hành trang trại theo kiểu thường xuyên hoặc định kỳ. Cũng
có trường hợp người chủ trang trại thuê người khác điều hành quản lý.
Hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta các mô hình trang trại được xây dựng dựa
trên các tiêu chí đã liệt kê ở trên, tuy nhiên ở mỗi quốc gia việc lựa chọn cho mình mô
hình phù hợp nhất còn phụ thuộc và điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng khu vực,
cò thể phân ra một số mô hình trang trại cơ bản sau:
- Trang trại gia đình: Đây là hình thức trang trại phổ biền nhất tại Việt Nam hiện nay
cũng như hầu hết ở các nước thuộc khu vực châu Á V quy mô trang trại thường nhỏ, hơn nữa
I
do phong tục, tập quán kinh doanh của người dân châu Á thường tập trung theo hệ thống
những người cùng huyết thống mà chủ yếu là trong cùng một gia đình, đây là kiểu trang trại
độc lập về sản xuất và kinh doanh, người chịu trách nhiệm quản lý là người có năng lực về
chuyên môn, nhậy bén với nhu cầu của thị trường và có những am hiểu nhất định về kỹ
thuật. Thông thường, trong mô hình trang trại hộ gia đình, người quản lý là chủ hộ.
- Trang trại liên doanh: Là loại trang trại được hình thành do vài trang trại hợp lai
thành. Những trang trại này thường có chung loại hình kinh doanh (cùng trồng một loại
cây, hoặc nuôi cùng một loại con), có vị trí ở gần nhau với mục đích tăng thêm khả năng
về vốn và cơ sở vật chất để có thể cạnh tranh với các trang trại khác. Ban quản lý và
người lao động trong các loại trang trại này thường là người thân, cùng huyết thống, nói
chung là những người trong cùng dòng tộc. Hiện nay loại hình trang trai này đang phát
15
triển mạnh ở khu vực châu Á, ở Việt Nam do quỹ đất hẹp nên việc kết hợp các trang trại
nhỏ thành 1 trang trại lớn đang được coi là một trong những phương án tối ưu vì có thể
tận dụng tối đa mức đầu tư của Nhà nước.
- Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Là loại trang trại được tổ chức theo 1 công ty
cổ phần, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Loại trang trại
này thường có quy mô lớn và nguồn lao động chủ yếu là thuê. Sự khác biệt giữa trang trại
hợp doanh gia đình và phi gia đình là cổ phần của trang trại hợp doanh gia đình không
bán trên thị trường chứng khoán còn hợp doanh khác thì có bán trên thị trường chứng
khoán. Hình thức trang trại này hiện nay đã xuất hiện ở Việt Nam sau khi có luật đất đai
năm 1993, một số nông trường của nhà nước (nông trường chè, cà phê, cao su ...) đã áp
dụng hình thức cổ phần hoá m à cổ đông chính là nhân viên của nông trường, việc thuê
đất của nông trường được áp dụng theo luật đất đai về thời hạn và các quy định khác.
Nông trường có trách nhiệm đầu tư về giống, kỹ thuật và đầu ra cho sản phẩm còn các cổ
đông thì chụi trách nhiệm về m ặt chăm sóc theo đúng yêu cầu của các nhà chuyên môn.
- Trang trại uỷ thác: Là loại hình mà chủ trang trại uỷ quyền sử dụng cho người
khác theo từng vụ hay liên tục trong nhiều vụ khi họ trong một thời gian nào đó không có
nhu cầu kinh doanh loại hình này mà vẫn muốn bảo toàn về đất đai và các cơ sở hạ tầng
khác. Đây cũng là một biện pháp tích cực vừa chống lãng phí đất, vừa có thể tạo thành
những trang trại lớn mở rộng quy mô sản xuất.
Đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp khác với sản xuất công nghiệp là nó tác
động vào sinh vật, bị phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, gặp nhiều rủi ro, do đó không phù
hợp với hình thức sản xuất tập trung, quy mô lớn và việc sử dụng lao động tập trung chỉ
đem lại hiệu quả kinh tế thấp. Hiệu quả kinh tế của các mô hình trang trại trên thế giới và
ở Việt Nam chứng minh rằng kinh doanh trang trại gia đình chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối
về đất canh tác cũng như khối lượng nông sản sản xuất ra.
Các loại hình trang trại ở trên ngoài sự khác biệt về tính chất và quy mô sở hữu, còn
có sự khác nhau về tính chất và quy mô sử dụng lao động. Trong quá trình xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường tất cả các loại hình trang trại trên đều cần được khuyến
16
khích phát triển ở nước ta, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay cần ưu tiên phát triển kinh
tế trang trại gia đình hơn vì ở nước ta loại hình trang trại này là loại hình chủ yếu trong
nông nghiệp, lại gần gũi với kinh tế nông hộ và là một con đường quan trọng để đưa kinh
tế nông hộ nước ta đi lên sản xuất hàng hoá và góp phần tích cực vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình tiến lên của trang trại gia đình, nó không đối lập với kinh tế hợp tác
và kinh tế nhà nước; ngược lại, nó đòi hỏi phải tham gia vào quá trình hợp tác sản xuất
bằng những hình thức phong phú và đa dạng, thực hiện liên kết, liên doanh giữa các tổ
chức kinh tế nhằm tăng thêm năng lực sản xuất của bản thân. Điều đó nói lên tính chất
mềm dẻo của kinh tế trang trại có khả năng dung nạp các hình thức sở hữu khác nhau (từ
cá thể, đến tập thể và quốc doanh), các quy mô sản xuất khác nhau (từ nhỏ đến lớn), các
trình độ khoa học công nghệ khác nhau (từ thô sơ đến hiện đại). Những đặc trưng trên đã
làm cho trang trại gia đình trở thành một tổ chức sản xuất hàng hoá có khả năng thích
ứng trước những biến động của thời tiết cũng như của thị trường để đạt tới một chi phí
sản xuất thấp và hiệu quả kinh tế cao. Với ưu thế đó, trang trại gia đinh có khả năng điều
chỉnh một cách linh hoạt cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu kinh doanh để đáp
ứng những đòi hỏi về thị hiếu của người tiêu dùng và tạo ra lợi thế cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường.
1.1.3. Xu hướng phát triển các mô hình trang trại
Hiện nay các mô hình trang trại ngày càng khẳng định vai trò của chúng trong quá
trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả mà kinh tế trang trại mang lại đã đóng
góp một phần không nhỏ trong nguồn thu kinh tế của nhà nước. Tuỳ từng khu vực, phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội mà xây dựng cho địa phương mình những mô
hình trang trại hợp lý, mang lại hiệu quả kinh tế cao và góp phần bảo vệ môi trường.
Đối với các vùng đồng bằng: Với diện tích đất canh tác không lớn trong khi đó dân cư
lai đông, diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp bình quân trên đầu ngưồi thấp nên quy
mô trang trại vùng này thường nhỏ, nhưng mô hình trang tại ở các khu vực này thường rất
đa dạng và phong phú. Các trang tại thường kết hợp theo hướng kinh doanh tổng hợp vừa
trồng trọt vừa chăn nuôi. Do những vùng này có điều kiện tự nhiên và xã hội tương đối
L
17
' k
c c JÕ C SIA
phát triển: thị trường tiêu thụ rộng lớn, sự vận chuyển, đi lại dễ dàng nên các sản phẩm
thường bán tươi không qua chế biến. Tuy nhiên do yêu cầu của sản xuất và thị trường
hiện nay cũng đã xuất hiện những cơ sở sản xuất chế biến nhằm đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu, hoặc sản phẩm có thời gian sử dụng lâu hơn như vải, nhãn, dứa, mít sấy khô hoặc
đóng hộp, dưa chuột, cà chua muối...đã mang lại hiệu quả kinh tế cao và mở rộng thị
trường tiêu thụ.
Đối với vùng ven biển: Đặc điểm tự nhiên vùng này là diện tích đất canh tác thấp, tính
chất thổ nhưỡng của đất thường bị mặn hoặc lợ vì vậy cây trổng thường cho năng xuất
thấp và có ít chủng loại cây thích hợp với những loại đất này. Trong những năm gần đây
vùng này có xu hướng phát triển nhiêu mô hình trang trại nuôi trồng thuỷ sản nước mặn,
nước lợ cho thu nhập rất cao có thị trường tiêu thụ rất lớn cả trong nước và xuất khẩu.
Đối với vùng đồi núi\ Vùng này thường có diện tích đất rộng, tỷ lệ đất lâm nghiệp lớn,
vì vậy các trang tại lâm nghiệp, chăn nuôi và cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm phát
triển rất nhanh. Diện tích các trang trại cây lâm nghiệp và cây công nghiệp thường lớn,
các trang trại cây ăn quả có diện tích nhỏ hơn nhưng thường lại cho thu nhập cao hơn.
Trong những năm gần đây, một loại mô hình trang trại mới xuất hiện tại những khu vực
có cảnh quan đẹp, hoặc khí hậu ôn hoà có khả năng phát triển du lịch sinh thái nên một
số trang trại thường phát triển theo hướng vườn cây kết hợp với du lịch sinh thái.
1.1.4. Trang trại ở một s ố nước trên th ế giới
Trên thế giới, trang trại đã được hình thành và phát triển từ hơn 2 thế kỷ nay và
giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia. Tuy nhiên, tuỳ điều kịên
và đặc điểm của từng nước m à số lượng và quy mô của các trang trại có sự khác nhau.
Qua nghiên cứu có thể rút ra m ột số bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại
trên thế giới như sau:
*
Thời kỳ bắt đầu công nghiệp hoá số lượng trang trại nhiều, quy mô nhỏ, khi
công nghiệp phát triển đến trình độ cao thì số lượng trang trại giảm nhưng quy mô lại
tăng. Trang trại có thể và có điều kiện phát triển ở hầu hết các lĩnh vực sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp và ở tất cả các vùng khác nhau của lãnh thổ như đổi núi, đổng bằng, ven
biển... ở hầu hết các nước, trang trại là hình thức tổ chức sản xuất giữ vị trí xung kích
18
trong qua trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn và trở thành lực lượng chủ lực
khi nền kinh tế phát triển đến giai đoạn cao.
* Trang trại có thể phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau như tư bản tư nhân,
cổ phần, liên doanh, uỷ th á c ..., tuy nhiên trang trại gia đình vẫn là loại hình thức thích
hợp, phổ biến nhất (trang trại gia đình chiếm tới 80-90% tổng số trang trại trên thế giới).
* Hầu hết các trang trại đều sử dụng lao động gia đình là chủ yếu, ngoài ra còn có
thể thuê mướn thêm lao động bên ngoài theo yêu cầu của sản xuất kinh doanh.
* Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại không hoàn toàn phụ thuộc vào
quy mô đất đai, lao động vì năng xuất, chất lượng của sản phẩm còn chịu ảnh hưởng rất
lớn của việc áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới cũng như trình độ năng lực tổ
chức quản lý của chủ trang trại.
* Vốn kinh doanh trong trang trại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau
ngoài nguồn vốn tự có, chủ trang trại còn có thể huy động thêm từ nhiều nguồn vốn khác
như vay tín dụng ngân hàng, vay tư nhân, liên doanh, liên k ế t...
* Trong nền kinh tế thị trường, các trang trại còn có thể hợp tác, liên kết với nhau
để thực hiện các khâu công việc trong quá trình sản xuất, mua bán vật tư, nguyên liệu
hoặc tiêu thụ sản phẩm.
* Vai trò của Chính phủ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình hình thành
và phát triển của các trang trại thông qua các chính sách vĩ mô như chính sách giá cả, thị
trường, chính sách th u ế ...
Bảng 1. Sỏ lượng, diện tích và quy mồ tra n g trạ i tại m ột số nước châu Á
N hật Bản
1950
1993
T ãng, giảm % nãm
Số trang trại
6.176.000
3.691.000
u 2,1 %
Quy mô (ha)
0,8
1,38
ít
Đài L oan
1955
1988
Số trang trại
744.000
Quy mô (ha)
1,12
li 0,02
ữ 0,20
739.000
1.21
1953
H àn Q uốc
1,3 %
%
%
1979
Số trang trại
2.249.000
1.172.000
u 0,7 %
Quy mô (ha)
0,86
1,20
ữ 0,9
19
%
Bảng 2. Số lượng, diện tích và quy mô trang trại tại một số nước châu Âu
1950
Mỹ
1960
1970
1992
tăng, giảm % năm
Số trang trại
5.648.000
3.962.000
2.954.000
1.925.000
u 2,6 %
Quy mô (ha)
86
120
151
198,7
fĩ 2 %
1950
1987
Số trang trại
453.000
245.000
u 2,1 %
Quy mô (ha)
36
71
ữ 2,7 %
Anh
1993
1955
Pháp
Số trang trại
2.285.000
801.000
li 2,6 %
Quy mô (ha)
14
35,1
íl 2 %
1949
Đức
Quy mô (ha)
11
15
1950
Hà Lan
Quy mô (ha)
1985
7
íỉ 2 %
1987
16
ữ2%
Qua nghiên cứu quá trình phát triển trang trại ở một số nước và qua số liệu thể hiện
tại bảng 1 và 2 ta nhận thấy xu hướng phát triển trang trại của các nước có nhiều điểm
khác nhau:
Đối với các nước có nền công nghiệp phát triển thì số lượng trang trại có xu hướng
giảm nhưng diện tích lại tăng lên: Mỹ giảm từ 5.648.000 trang trại năm 1950 còn
1.925.000 trang trại năm 1992 nhưng diện tích lại tăng từ 86 ha năm 1950 lên 198,7 ha
năm 1992. Các nước khác như Anh, Pháp, Đức, Hà Lan thì xu hướng phát triển cũng
tương tự, số lượng trang trại giảm trong vòng 50 năm qua ở mức 2,6 - 2,1 % / năm và
diện tích tăng ở mức 2% / năm. Tuy số lượng giảm nhưng kinh tế trang trại tại những
nước này cũng góp phần không nhỏ trong nguồn thu của kinh tế Quốc dân.
Tuy là nước ở châu Á, diện tích đất nhỏ nhưng Nhật Bản là nước có kinh tế trang trại
phát triển vào bậc nhất châu Á 6.176.000 năm 1950 và 3.691.000 năm 1993, giảm 2,1%,
diện tích đất trung bình trong mỗi trang trại cũng tuân theo quy luật chung 0,8 ha/ trang
trại năm 1950 và 1,38 ha/ trang trại năm 1993 tăng 1,3%. Đài Loan và Hàn Quốc là 2
20
nước có diện tích bình quân mỗi trang trại không lớn vì diộn tích đất tự nhiên nhỏ, vì vậy
tuy số lượng trang trại giảm từ 744.000 trang trại năm 1955 xuống 739.000 năm 1988 ở
Đài Loan và từ 2.249.000 trang trại năm 1953 xuống 1.172.000 ở Hàn Quốc nhưng quy
mô mỗi trang trại cũng không tăng nhiều lắm 0,20 % ở Đài Loan và 0,90 % tại Hàn
Quốc.
1.2. Nghiên cứu quá trình hỉnh thành trang trại ở Việt Nam
Ở Viột Nam các điền trang, thái ấp đã xuất hiện từ thời Lý - Trần, đến các đồn điền
thời Lê, thời Nguyễn và thời Pháp thuộc. Các ấp trại và các nông, lâm trường quốc doanh
của Việt Nam dân chủ cộng hoà, các hợp tác xã từ đầu thập kỷ 60 đến cuối thập kỷ 80,
ngoài ra còn phải kể đến các hộ kinh tế tiểu nông mà thời nào cũng có.
1.2.1. Các trang trại thời L ý -Trần
Nhà Lý rồi tiếp đến nhà Trần đã đóng vai trò tích cực trong lịch sử nước ta, nhiều chủ
chương, chính sách kinh tế như bán công điền thành tư điền, ban cấp thái ấp, cho phép
vương hầu, tôn thất lập điền trang...Đ ều có ý nghĩa qua trọng trong việc xác lập nhanh
chóng các thế lực qúi tộc và địa chủ phong kiến.
Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất là cơ sở kinh tế cho chế độ chuyên chế tập trung
dưới thời Lý - Trần. Bên cạnh ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, do nhà nước trực tiếp
quản lý, còn có ruộng đất công của làng xã, loại này cũng thuộc sỏ hữu của Nhà nước
(đồng sở hữu). Làng xã lúc bấy giờ có nhiều ruộng công, năm 1254, triều đình ra lệnh
công khai bán ruộng công thành ruộng tư. Ruộng đất tư nhân thường có thái ấp, điền
trang, ruộng đất của nhà chùa, ruộng đất tư hữu của địa chủ, ruộng đất của tiểu nông.
Chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc của nhà Trần được thi hành dưới hình thức
tiêu biểu nhất là thái ấp. Thái ấp là chính sách kinh tế quan trọng nhất của nhà Trần nhằm
tạo ra cơ sở xá hội cho chế độ phong kiến. Theo những tại liệu còn lại thì quy mô thái ấp
bằng khoảng 1/2 làng, về lực lượng lao động thì phần lớn là gia nô. Tuy nhiên thái ấp rất
phân tán, nằm giữa vùng ruộng đất công thuộc sở hữu nhà nước, ở nước ta thái ấp chí
21
chiếm một diện tích nhỏ so với ruộng đất và dân cư trong cả nước, nó không có khả năng
tạo ra một mối liên kết kinh tế xã hội riêng biệt, đối lập với triều đình.
Điền trang được hình thành và phát triển từ thế kỷ thứ XI, năm 1266, nhà Trần quyết
định “cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập những người siêu tán
không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang làm điền trang” . Nhờ quyết
định đó, diện tích canh tác được mở rộng, thế lực của quý tộc được củng cố. Cuối thế kỷ
XIV, tổng diện tích điền trang có thể đã chiếm một tỷ lệ quan trọng trong tổng diện tích
của nhà nước và đó là lý do Hồ Quý Ly đặt ra chính sách “hạn danh điền”, thực chất là
hạn chế quyền sở hữu về ruộng đất.
Ngoài ra thời Lý-Trần còn tham gia tích cực vào việc dựng chùa , đúc chuông, tô
tượng để nuôi số sư tăng, thiện nam tín nữ và đua nhau bỏ tiền, cúng khá nhiều ruộng đất
cho nhà chùa. Nhà chùa trở thành địa chủ lớn, số ruộng đất cúng tặng cho nhà chùa biến
thành một loại tài sản tư hữu thực sự của nhà chùa.
1.2.2. Các loại đồn điển phong kiến
Quá trình hình thành các đồn điền đã xuất hiện từ thời Lý - Trần, tuy nhiên mãi đến
triều Lê Thánh Tông mới chính thức mở rộng quy mô, thành lập các sở đồn điền nhằm
mục đích phát triển sản xuất nông nghiệp và tăng cường việc cung cấp lương thực. Ruộng
đất ở các sở đồn điền thuộc sở hữu và quản lý trực tiếp của nhà nước trung ương, không
ban cấp đồn điền cho quan lại.
Qua mấy thế kỷ, đặc biệt là thế kỷ XIX, đồn điền đóng vai trò quan trọng về các mặt
kinh tế, quân sự, chính trị và xã hội. Khi thức dân Pháp sang xàm lược Nam Kỳ, chính
những người dân đồn điền đã nổi dậy cầm vũ khí chống Pháp, đồn điền là nơi đã nẩy sinh
ra những chiến sỹ và cấp chỉ huy cho các cuộc khởi nghĩa Trương Định, Thủ Khoa Huân,
chính vì tinh thần chiến đấu của các dân đồn điền mà thực dân Pháp đã ra lệnh bãi bỏ chế
độ đồn điền kể từ 20-9-1867
l .2.3. Các đồn điền thời Pháp
ở nước ta trong thời kỳ thuộc Pháp, các đồn điền phong kiến dựa trên sở hữu Nhà
nước bị bãi bỏ, thực dân Pháp chủ trương phát triển các đồn điền dựa trên sở hữu Tư bản
tư nhân. Có 2 loại đồn điền: Loại trồng lúa và loại trồng cây công nghiệp.
22