Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 89 trang )
hai cực trên: ảnh hưởng tới chính nơi phát thải và vùng lân cận xung quanh.
Thành phần gây ô nhiễm trong nước thải, xét về khía cạnh tác động gây hại và
giải pháp công nghệ xử lý, có thể chia thành ba nhóm chính: chất hữu cơ có khả
năng phân hủy, thành phần dinh dưỡng và loại hợp chất hóa học cần đặc biệt quan
tâm. Chất hữu cơ có khả năng phân hủy khi thâm nhập vào trong nước sẽ tiếp tục bị
vi sinh vật sống trong môi trường tự nhiên phân hủy làm mất, suy giảm lượng oxy
hòa tan trong nước, gây ra mùi hôi, thúc đẩy nhiều loại vi sinh vật gây bệnh phát
triển. Môi trường đó không phù hợp với điều kiện sống của phần lớn các loài thủy
động vật. Thành phần dinh dưỡng (cho thực vật) được quan tâm hơn cả là hợp chất
nitơ và photpho. Sự thâm nhập của các hợp chất này vào khu vực nhận nước gây ra
hiện tượng phú dưỡng (giàu dinh dưỡng), thúc đẩy tảo và các loại thủy thực vật phát
triển mạnh khó kiểm soát về mật độ. Khi thủy thực vật, đặc biệt là tảo phát triển
mạnh thì môi trường nước tại đó có sự dao động rất lớn về pH, oxy hòa tan, thế oxy
hóa khử theo Thời gian lưu tổng ngày/đêm. Trong môi trường đó xuất hiện hiện
tượng bùng nổ tảo (nước nở hoa), khi đó tảo chết hàng loạt trong thời gian ngắn,
chìm xuống đáy, tiếp tục bị phân hủy trong tình trạng yếm khí và chu trình được tái
diễn liên tục. Trong môi trường phú dưỡng, điều kiện sống (pH, oxy tan) biến động
liên tục và mạnh là những tác nhân gây khó khăn, thậm chí là môi trường không thể
sống đối với nhiều loài thuỷ, động vật.
Rất nhiều các giải pháp kỹ thuật được sử dụng để xử lý nước thải đã và đang
được sử dụng trong các điều kiện khác nhau như kỹ thuật huyền phù, cố định vi
sinh trên chất mang, kỹ thuật bùn hoạt tính, đĩa quay, lọc nhỏ giọt, tầng cố định,
tầng giãn nở, tầng linh động (lưu thể) hoặc tổ hợp (lai ghép) của các kỹ thuật trên.
Mỗi phương pháp kỹ thuật đều có những ưu, nhược điểm riêng. Xử lý các thành
phần gây ô nhiễm trong nước thải đòi hỏi mức độ phát triển công nghệ khác nhau.
Việc xử lý mức độ khó và chi phí tốn kém đối với việc xử lý các chất thải chứa
thành phần chứa chất dinh dưỡng hay các hợp chất hoá học đặc biệt nêu trên [12].
Công nghệ xử lý nước thải luôn được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những
thành tựu mới về khoa học, kỹ thuật nhằm hạ giá thành xây dựng và vận hành hệ
16
thống xử lý nước thải cũng như nâng cao chất lượng nước sau khi xử lý. Một số
công nghệ xử lý nước thải chăn nuôi hiện nay:
a) Bể phản ứng Aerotank (bể bùn hoạt tính hiếu khí)
Quá trình chuyển hóa vật chất trong bể dựa trên hoạt động sống của các vi
sinh vật hiếu khí. Các vi sinh vật trong bể aerotank tồn tại ở dạng huyền phù, các
huyền phù vi sinh vật có xu hướng lắng đọng xuống đáy, do đó việc khuấy trộn các
dung dịch trong bể là điều cần thiết, có thể cung cấp khí cho bể aerotank bằng nhiều
cách: thổi khí, nén khí, làm thoáng cơ học, thổi-nén khí với hệ thống cơ học.
Có nhiều loại bể aerotank khác nhau tùy theo yêu cầu xử lý, tính kinh tế, diện
tích đất sử dụng mà chọn loại bể nào cho phù hợp: bể aerotank truyền thống, bể
aerotank với sơ đồ nạp nước thải theo bậc, bể aerotank tải trọng cao, bể aerotank có
ngăn tiếp xúc với bùn hoạt tính đã ổn định, bể aerotank làm thoáng kéo dài, bể
aerotank khấy trộn hoàn chỉnh,…
- Ưu điểm của bể Aerotank: đạt được mức độ xử lý cao, ít tạo mùi hôi, có
tính ổn định cao trong quá trình xử lý.
- Nhược điểm: tốn nhiều diện tích và năng lượng.
b) Bể lọc kị khí
Là loại bể kín, phía trong chứa vật liệu lọc đóng vai trò như giá thể của vi
sinh vật dính bám nhờ đó vi sinh vật sẽ không bị rửa trôi theo dòng chảy.
Vật liệu lọc của bể lọc kị khí là các loại cuội, sỏi, than đá, xỉ, ống nhựa, tấm
nhựa hình dạng khác nhau. Kích thước và chủng loại vật liệu lọc được xác định dựa
vào công suất của công trình, hiệu quả xử lý chất hữu cơ (COD), tổn thất áp lực
nước cho phép, điều kiện nguyên vật liệu tại chỗ.
Nước thải có thể được cung cấp từ trên xuống hoặc từ dưới lên.
- Ưu điểm: có khả năng khử được 70 ÷ 90 % BOD, thời gian lọc ngắn, vận
hành đơn giản, ít tốn năng lượng.
- Nhược điểm: Thường hay bị tắc nghẽn, hàm lượng căn lơ lửng ra khỏi bể
lớn. Chưa xử lý được N, P.
17
c) Công nghệ chảy ngược qua lớp bùn yếm khí UASB
- Ưu điểm : Xử lý được tải lượng ô nhiễm cao, không cần vật liệu mang. Dễ
vận hành, ít tốn diện tích. Thu được khí metan. .
- Nhược điểm :
Nhược điểm lớn nhất của hệ là thời gian khởi động (tạo hạt bùn vi sinh) rất
lâu (tới 6 tháng) [4].
Khó kiểm soát trạng thái và kích thước hạt bùn
Các hạt bùn thường không ổn định và rất dễ bị phá vỡ khi có sự thay đổi môi
trường đặc biệt là khi chịu tác động cơ học
Hỗn hợp vi sinh vật yếm khí tham gia phân hủy chất hữu cơ trong bể thường
tồn tại lẫn trong pha khí, pha lỏng và pha rắn.
Chưa xử lý được N, P.
d) Bể khí sinh học (Biogas)
Đây là loại bể thích hợp và đang được sử dụng rộng rãi để xử lý nước thải
chăn nuôi lợn ở các vùng nông thôn ở Việt Nam và trên thế giới.
- Ưu điểm:
Kích thước bể có thể thay đổi, sinh ra khí metan, sử dụng các chất thải và
phụ phẩm trong nông nghiệp.
Tạo ra lượng phân bón phục vụ cho nông nghiệp.
- Nhược điểm:
Tuổi thọ bể ngắn, hiệu quả xử lý chất hữu cơ (COD) thấp, dễ cháy nổ.
Không xử lý được các thành phần P.
e) Kỹ thuật SBR
SBR (sequencing batch reactor): Kĩ thuật phản ứng theo mẻ luân phiên là
dạng công trình xử lý nước thải dựa trên phương pháp bùn hoạt tính với ý nghĩa là
cùng sử dụng vi sinh để xử lý chất ô nhiễm trong nước thải, nhưng khác bùn hoạt
tính ở điểm hai giai đoạn sục khí và lắng diễn ra trong cùng một bể phản ứng
(không có bể lắng riêng).
18
Tương tự hệ bùn hoạt tính nâng cao, hệ thống SBR là hệ thống dùng để xử lý
nước thải sinh hoạt có chứa các chất hữu cơ và nitơ cao. Hệ thống hoạt động theo
chu kì, mỗi chu kì gồm các công đoạn nối tiếp nhau: bơm nước thải đầu vào - phản
ứng - lắng – hút/xả nước thải ra; trong đó công đoạn phản ứng bao gồm khử nitơrat
và nitơrit (nếu có) trong điều kiện thiếu khí (DO ~ 0, nếu có yêu cầu khử N) và ôxy
hoá COD và N-amoni (nitrat, nitrit hoá) trong điều kiện hiếu khí (DO ~ 2mg/l), quá
trình này phụ thuộc vào khả năng cấp khí, mật độ vi sinh và đặc điểm các chất bẩn
có trong nước thải đầu vào. Về nguyên tắc, quá trình vi sinh là quá trình hai mặt
nên một mặt sẽ là các quá trình chuyển hoá (xử lý các chất bẩn), mặt khác sẽ là tổng
hợp sinh khối vi sinh [7].
Các giai đoạn trong một Thời gian lưu tổng xử lý của hệ thống SBR bao gồm:
1. Giai đoạn làm đầy:
Nước thải được đưa vào hệ thống SBR với lượng nước đã định trước. Việc
đưa nước thải vào bể có thể được thực hiện ở 3 chế độ: làm đầy tĩnh, vừa làm đầy
vừa khuấy trộn (khi cần khử nitrat), làm đầy kèm sục khí (khi cần kéo dài thời gian
các phản ứng ôxy hoá hữu cơ, nitrat hóa amoni). Nước thải được cấp vào và trộn lẫn
với bùn để lại từ mẻ trước [4].
Hình 1.3 Hệ thống SBR, giai đoạn nạp (có thể khuấy)
2. Giai đoạn phản ứng
Nước nạp và sau khi khuấy trộn (khử nitrat/nitrit), sẽ được sục khí nhằm thực
hiện quá trình oxi hóa các hợp chất hữu cơ, giảm thiểu nồng độ chất hữu cơ, đồng
thời oxi hóa NH4+ thành NO2- và NO3- phục vụ cho quá trình khử nitrat diễn ra
trong giai đoạn nạp và khuấy trước đó [4].
19
Hình 1.4 Hệ thống SBR, giai đoạn phản ứng (sục khí, có thể khuấy)
3. Giai đoạn lắng:
Nước sau giai đoạn sục khí được để lắng trong thời gian khoảng 1 giờ. Trong
giai đoạn này, quá trình oxi hóa vẫn được diễn ra nhưng với tốc độ chậm, chủ yếu
xảy ra quá trình lắng và cuối quá trình này nước thải và bùn sẽ được tách làm 2 pha:
nước trong ở phía trên được gạn xả ra ngoài. Lớp bùn và nước lắng ở phía dưới là
nguồn cung cấp NO3- để thực hiện quá trình khử nitrat ở giai đoạn cấp mẫu tiếp theo
[4].
Hình 1.5 Hệ thống SBR, giai đoạn lắng (máy khuấy, máy khí tắt)
4. Giai đoạn xả nước ra
Nước đã lắng trong (nước thải đã xử lý) sẽ được qua hệ thống thu nước xả ra
khỏi bể SBR; đồng thời trong quá trình này lượng bùn dư cũng có thể được xả ra ngoài.
20
Nước sau xử lý thường được xả qua hệ khử trùng (nếu thải ra môi trường), hoặc bỏ qua
khử trùng đi xử lý tiếp bằng hệ thủy thực vật nhằm ổn định trước khi xả [4].
Hình 1.6 Hệ thống SBR, giai đoạn xả (mở van xả nước, có thể xả bùn)
Ƣu điểm kỹ thuật SBR:
- Khi thiết kế hệ thống SBR không cần xây dựng bể điều hòa, bể lắng, vì
các quá trình đã được rút gọn trong một bể.
- Thiết kế đơn giản, giảm diện tích và chi phí.
- Vận hành đơn giản.
Nhƣợc điểm:
-
Không áp dụng được trong trường hợp chạy cao tải.
-
Bùn sinh ra tương đối nhiều.
-
Không xử lý được hàm lượng P.
-
Hiệu suất khử nitrat, nitrit thấp.
Các thông số cần xác định khi áp dụng kỹ thuật SBR:
-
Dung tích hữu ích của bể
-
Lượng bùn tích lũy trong bể.
21
-
Chiều cao an toàn từ lớp bùn đến mực nước phải xả.
-
Lượng oxi cần cung cấp.
-
Nồng độ đầu vào các chất ô nhiễm.
-
Thời gian cho từng giai đoạn trong bể.
f) Kỹ thuật tầng vi sinh chuyển động
Thuật ngữ tầng vi sinh là một tập hợp gồm nhiều tế bào vi sinh vật gắn kết với
nhau trên bề mặt tạo thành. Tầng vi sinh hay còn gọi là Biofilm có thể gồm một hay
nhiều chủng vi sinh vật khác nhau, có thể được tạo ra ở trên bề mặt của nhiều loại
vật liệu khác nhau: nhựa, kim loại, kính, gỗ, dụng cụ y tế, đồ ăn… Biofilm có tác
dụng bảo vệ vi sinh vật chống lại tác động của các yếu tố bất lợi của môi trường
sống. Biofilm được hình thành từ các loài vi sinh vật khác nhau bao gồm cả vi
khuẩn Gram dương và Gram âm như Escheriachia coli, Pseudomonas aeruginosa,
Vibrio cholera, Streptococcus sp., Bacillus subtilis…[15].
Tính chất và vai trò của tầng vi sinh:
- Bảo vệ cơ thể vi sinh vật khỏi hệ thống phòng thủ của chính vật chủ hay vi
sinh vật kẻ thù. Các vi sinh vật sống trên biofilm khi liên kết với nhau thường có
khả năng chống chịu cao với các chất kháng khuẩn so với tế bào sống tự do trong
môi trường nuôi cấy (độ chống chịu có thể cao hơn tới 1000 lần).
Hình 1.7 Một số cấu trúc điển hình của màng vi sinh (dạng xếp lớp, dạng
hình nấm, dạng hợp lưu và dạng lông mao; kể từ trên xuống, từ trái sang phải)
- Chống lại sự mất nước.
22
- Chống lại các chất kháng khuẩn thông qua việc tạo kiểu hình mới có tốc độ
sinh trưởng giảm, hạn chế sự tiếp xúc và có khả năng bất hoạt, trung hòa với các
chất kháng khuẩn.
- Nồng độ các chất dinh dưỡng trong biofilm thường tăng cao hơn so với môi
trường xung quanh.
Trong môi trường nước, vi sinh vật tồn tại ở hai trạng thái chính là dạng
huyền phù và dạng tầng vi sinh. Trong dạng huyền phù, vi sinh vật tập hợp lại với
nhau thành các tập hợp keo tụ nhỏ có cấu trúc khá lỏng lẻo và các tập hợp keo tụ đó
phân bố khá đều trong môi trường nước. Tầng sinh vật là một tập hợp của vi sinh
vật bám trên một chất mang với cấu trúc khá đặc, có độ dày nhất định (ví dụ 0,1 –
0,3 mm) [4].
Vi sinh vật hoạt động trong các hệ xử lý nước thải tồn tại ở hai trạng thái kết
khối: tập hợp keo tụ (flocs) và dạng màng (biofilm). Tập hợp keo tụ của vi sinh có
cấu trúc xốp, mật độ vi sinh thấp (ít khi vượt quá 4000 kg/m3) [2], các tập hợp đó
được phân bố khá đều trong môi trường nước. Kỹ thuật sử dụng vi sinh trong trạng
thái tập hợp keo tụ là dạng kỹ thuật huyền phù. Do mật độ vi sinh thấp nên hiệu suất
xử lý của các hệ huyền phù không cao và khó tăng mật độ vi sinh vì nó liên quan
đến các yếu tố vận hành khác. Điển hình của kỹ thuật huyền phù là các quá trình xử
lý bùn hoạt tính.
Tăng mật độ vi sinh (trên một dơn vị thể tích), đồng nghĩa với tăng hiệu quả
xử lý luôn là mong muốn của phát triển công nghệ xử lý nước thải. Kỹ thuật tầng vi
sinh đáp ứng được tiêu chí đó.
So sánh với kỹ thuật huyền phù, tầng vi sinh trong hệ thống xử lý nƣớc
thải có những đặc trƣng sau:
Khả năng tích lũy vi sinh cao. Đặc điểm nổi bật của màng vi sinh là mức độ
tập trung vi sinh vật rất cao so với dạng vi sinh trong trạng thái huyền phù, ví dụ
cao hơn 3 – 4 ngàn lần trong các dòng suối bần dưỡng chảy trên núi cao và 200 lần
cao hơn trong nhiều nguồn nước thải. Trong hệ thống xử lý nước thải theo kỹ thuật
bùn hoạt tính, mật độ vi sinh vật được duy trì trong khoảng 700 – 2500 mg/l, trong
23
khi mật độ vi sinh trong kỹ thuật lọc nhỏ giọt đạt 2000 – 10000 mg trong một lít của
bể lọc [4].
Hoạt tính trao đổi chất lớn. Trong nhiều trường hợp quan sát được hoạt tính
vi sinh của màng vi sinh cao hơn nhiều so với vi sinh trong trạng thái huyền phù.
Hiện tượng trên được giải thích là do trong tập đoàn vi sinh đó tỷ lệ loại vi sinh vật
có hoạt tính cao chiếm số đông, cũng như mức độ tập trung dinh dưỡng cao (do hấp
phụ) của các thành phần dinh dưỡng trên màng vi sinh. Do tính chất nhầy của màng
nên nó có thể bắt giữ cả các thành phần thức ăn ở dạng không tan. Mức độ tập trung
dinh dưỡng cao thúc đẩy sự phát triển của vi sinh và do đó có hoạt tính cao. Cũng
có ý kiến giải thích khả năng tăng hoạt tính nhờ quá trình biến đổi gien của vi sinh
vật trong trạng thái kết khối trong màng.
Khả năng chống chịu độc tố cao. So với vi sinh vật trong trạng thái huyền
phù, vi sinh vật trong màng có khả năng chống chịu độc tố tốt hơn. Nguyên nhân
của hiện tượng trên cũng được giải thích nhờ sự biến đổi gen hay nhờ nồng độ chất
dinh dưỡng cao là điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật sống sót khi phải tiếp xúc với
độc tố.
Bùn dễ lắng. So với bùn hoạt tính, bùn (sinh khối) bong ra từ màng vi sinh
có khả năng lắng tốt hơn nhiều do tính đặc của màng (khối lượng riêng biểu kiến
lớn) do mật độ vi sinh dạng sợi trong đó thấp.
Tuy có nhiều lợi thế của kỹ thuật tầng vi sinh đã liệt kê như trên so với dạng
huyền phù, nhưng nó có những điểm bất lợi là quá trình cung cấp thức ăn cho chúng
xảy ra khó khăn hơn do tính chất khuếch tán khó và mức độ tiêu thụ thức ăn cao (do
mật độ cao).
Ƣu điểm kỹ thuật tầng vi sinh:
Nhu cầu diện tích mặt bằng thấp.
Giá thành duy trì hoạt động thấp về phương diện công lao động.
Tính linh hoạt cao.
24
Chất mang vi sinh:
Để có được mật độ vi sinh cao yếu tố cần có đầu tiên là diện tích của chất
mang phải lớn. Sự phát triển của chất mang vi sinh cũng trải qua nhiều giai đoạn.
Vào thời kỳ đầu tiên, chất mang vi sinh là các loại vật liệu gỗ, đá, xỉ than có
diện tích 10- 30 m2/m3, sau đó sử dụng các loại nhựa tổng hợp tấm phẳng có cấu
trúc hình học khác nhau (dạng tổ ong, dạng cuộn) với diện tích khoảng 200 – 300
m2/m3. Giai đoạn phát triển tiếp theo là loại chế tạo từ nhựa tổng hợp với cấu trúc
hình học phức tạp hơn , ví dụ dạng bánh xe (hình 3) với diện tích bề mặt 500 – 700
m2/m3 với những dạng thương phẩm đang lưu hành rộng rãi trên thị trường thế giới
(Kadles Hà Lan, hình 1.8) [15].
Hình 1.8 Chất mang vi sinh dạng cuộn (BIOPAC, Đức)
Cát thạch anh có kích thước nhỏ 0,15 – 0,3 mm với diện tích bề mặt tới 20000
m /m cũng được sử dụng làm chất mang trong kỹ thuật tầng lưu thể (fluidized bed).
2
3
Thế hệ vật liệu chất mang mới nhất là loại có cấu trúc xốp chế tạo từ polymer
với diện tích bề mặt (bên trong) tới 10000 – 15000 m2/m3, độ xốp 85 – 98 % [2]. Đi
đầu trong nghiên cứu và sử dụng vật liệu mang xốp là Nhật và Hàn Quốc (Công ty
EBRA của Nhật sử dụng vật liệu trên tại các trạm xử lý nước thải Kim Liên, Trúc
Bạch, Bắc Thăng Long, Hồ Bảy Mẫu, Hà Nội) [3].
25
Hình 1.9 Chất mang vi sinh có cấu trúc hình học phức tạp
Với những ưu điểm nổi trội của kỹ thuật tầng vi sinh trong công nghệ xử lý
nước thải, nhưng sẽ xuất hiện một số thách thức cần được giải quyết xuất phát từ
hai đặc điểm căn bản của vật liệu xốp có diện tích bề mặt cao là mật độ vi sinh lớn.
Tổng lượng sinh khối tỷ lệ thuận với diện tích chất mang và độ dày của lớp màng.
Chiều dày của lớp màng lớn không phát huy được tác dụng vì thức ăn khó thẩm
thấu sâu vào bên trong (nếu chiều dày >200 μm kể từ phía ngoài) [15]. Vậy muốn
có hiệu quả cần tạo chất mang có diện tích lớn để tích lũy được lượng sinh khối lớn
nhưng chiều dày của lớp vi sinh vẫn đủ mỏng. Vật liệu xốp chứa các mao quản,
kích thước mao quản càng nhỏ thì diện tích càng lớn, tuy nhiên kích thước mao
quản nhỏ hạn chế sự phát triển của vi sinh trong đó, nhất là khi để ý đến đặc điểm
tính chất đa dạng về chủng loại và kích thước của tập đoàn vi sinh trong màng. Tìm
kiếm loại vật liệu thích hợp cho từng quá trình (xử lý BOD, nitrat hóa, khử nitrat)
phù hợp với điều kiện thực tế đòi hỏi nhiếu nghiên cứu chi tiết.
Mật độ vi sinh cao đòi hỏi nguồn cung cấp thức ăn lớn để chúng phát triển.
Màng vi sinh khá đặc do đó hạn chế quá trình vận chuyển (khuyếch tán) thức ăn cho
vi sinh. Đó là hai hiệu ứng trái chiều nhau và là một trong những điểm cốt lõi cần
được giải quyết để tận dụng được các lợi thế của kỹ thuật màng sinh vật.
Tăng cường quá trình chuyển khối là vấn đề cần được thúc đẩy và được giải
quyết theo phương hướng:
Giảm độ dày của lớp màng vi sinh (giảm quãng đường khuếch tán) mà vần
duy trì mật độ sinh khối cao bằng cách sử dụng chất mang có diện tích lớn.
Sử dụng loại vật liệu xốp có kích thước mao quản phù hợp để khống chế
độ dày của màng vi sinh và chống quá trình bong màng.
26