Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 89 trang )
2020 lượng ô nhiễm do công nghiệp có thể tăng lên gấp 2,4 lần so với bây giờ,
lượng ô nhiễm do nông nghiệp và sinh hoạt cũng có thể gấp đôi mức hiện nay [19].
Để giảm thải ô nhiễm, các nhà doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước ta
hiện thường bỏ tiền ra để nhập khẩu công nghệ. Các hộ cá thể, làng nghề thường ít
quan tâm đến việc xử lý nước thải. Khả năng phát triển và cải tiến cũng như vận
hành công nghệ xử lý nước thải của các doanh nghiệp trong nước không nhiều.
Nhiều công nghệ nhập phù hợp với điều kiện nước ngoài nhưng không phù hợp với
điều kiện trong nước. Về sản xuất vật liệu mang trước đây tại Hà Nội có tới 6 – 8
công ty sản xuất vật liệu mang vi sinh (dạng tổ ong, diện tích bề mặt 180 – 220
m2/m3, dạng quả cầu…) để cung cấp cho thị trường [4]. Tuy nhiên hiện nay số công
ty sản xuất sản phẩm trên đang tiếp tục hoạt động chỉ còn lại rất ít. Công ty ECO
(Thành phố Hồ Chí Minh) đã nhập khẩu và sử dụng một lượng nhất định chất mang
vi sinh tại một số công trình ở cả miền Nam và miền Bắc (nhập từ Hà Lan). Trạm
nuôi giống thủy sản Cửa Hội (Nghệ An) mua công nghệ xử lý nước thải của Na Uy,
sử dụng vật liệu mang vi sinh tầng tĩnh. Tại một số công ty của nước ngoài đang
hoạt động sản xuất tại Việt Nam (Nhật Bản, Hàn Quốc) hay một số trạm xử lý nước
thải sử dụng vốn ODA đang sử dụng công nghệ màng vi sinh chuyển động với vật
liệu mang dạng xốp [4].
Những nghiên cứu mang tính chất “phát triển công nghệ” ở nước ta thường
được thực hiện tại nước ngoài dưới dạng đào tạo học viên cao học, nghiên cứu sinh.
Ví dụ trường Đại học Kumamoto (Nhật Bản) cho đến nay đã đào tạo (hoặc phối hợp
đào tạo) cho Việt Nam 3 – 4 nghiên cứu sinh về xử lý hợp chất nitơ sử dụng vi sinh
thuộc loại mới với tên ANAMOX, sử dụng chất mang do họ tự chế tạo. Nghiên cứu
sinh của Viện Hóa học (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) được đào tạo tại
Bỉ (Đại học Arlon) về xử lý nitơ trong nước rác với kỹ thuật mẻ kế tiếp giai đoạn
(không sử dụng chất mang vi sinh) và kỹ thuật tầng vi sinh chuyển động hướng đến
mục tiêu xử lý xử lý và tái sử dụng nước thải trong các trạm nuôi giống thủy sản [4].
29
Nhìn chung, các nghiên cứu thực hiện tại nước ngoài mang tính chiều sâu và
chỉ là một phần nhỏ của nội dung phát triển công nghệ tại các cơ sở nghiên cứu
trong nước. Nghiên cứu công nghệ phân huỷ photpho bằng phương pháp sinh học ít
được nghiên cứu áp dụng và thực hiện. Nhiều công trình nghiên cứu riêng lẻ về việc
phân lập các chủng vi sinh nhưng chưa có đề cập đến khả năng tạo biofilm và việc
phối hợp chúng với chất mang nhằm xử lý nước thải ô nhiễm N, P.
Các nghiên cứu thực hiện ở trong nước được thực hiện dưới dạng các đề tài
khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ khá phong phú: xử lý nước thải của bãi rác, xử lý
nước ngầm để cấp cho sinh hoạt, xử lý nước thải trong công nghệ chế biến thực
phẩm. Màng vi sinh ít được sử dụng vì khó kiếm được nguồn vật liệu thích hợp nên
thường sử dụng loại thấp cấp: sơ dừa, đá bazan, tre nứa, san hô... Sau các công trình
nghiên cứu, việc tiêu chuẩn hóa vật liệu và công nghệ sử dụng chúng thường bị bỏ
ngỏ.
Vật liệu mang vi sinh cao cấp thường có giá thành cao, theo thông báo của
các nhà khoa học Đức tại hội thảo 28/3/2011 tại trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc Gia Hà Nội thì giá thành tính theo m2 vào khoảng 1 USD, chưa kể
đến tính chất tương hợp của công nghệ xử lý đối với từng vật liệu cụ thể (phải mua
cả công nghệ). Đó là một trong những nguyên nhân hạn chế việc phát triển công
nghệ tầng vi sinh.
Viện Công nghệ sinh học (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã tiến
hành nghiên cứu và chế tạo thiết bị nitrat hóa (oxy hóa amoni thành nitrat) trong
nguồn nước ngầm, phục vụ cấp nước cho sinh hoạt theo kỹ thuật màng vi sinh. Vật
liệu sử dụng là đất sét nung (keramsit), dạng tầng tĩnh. Viện Công nghệ sinh học
cũng đang tiến hành xây dựng hệ thống xử lý nước nuôi giống thủy sản (Quý Kim,
Hải Phòng) tuy nhiên trạm xử lý đã không được đưa vào hoạt động [4].
Trung tâm Công nghệ môi trường và Phát triển bền vững (CETASD, Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên), phối hợp với sở giao thông công chính Hà Nội và thực
hiện đề tài của Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội đã nghiên cứu quá trình nitrat
30
hóa và khử nitrat hóa trong nước ngầm. Vật liệu sử dụng làm chất mang vi sinh là
đá bazan.
Viện Hóa học (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) thực hiện đề tài
nghiên cứu cấp nhà nước vễ xử lý nước thải giàu nitơ và photpho (1999 – 2002) tập
trung vào nước thải chế biến thủy sản; phối hợp với Viện Vật liệu (Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam) thực hiện đề tài cấp nhà nước (2003 – 2005) về xử lý nước
rác (thực chất là xử lý hợp chất giàu nitơ). Các nghiên cứu trên sử dụng kỹ thuật
huyền phù (mẻ kế tiếp giai đoạn) [4].
Nhìn chung, các nghiên cứu xử lý nước thải giàu nitơ và photpho sử dụng
tầng vi sinh đã thực hiện tại Việt Nam nhằm phát triển công nghệ là không nhiều.
Một số nghiên cứu theo xu hướng trên xuất phát từ nhu cầu thực tế (không thuộc
phạm vi của các đề tài) cũng lẻ tẻ được thực hiện. Ví dụ, tại Viện Hóa học (Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam) từ ba năm trở lại đây đang nghiên cứu phát
triển công nghệ màng vi sinh chuyển động (sử dụng vật liệu mang xốp) nhằm xử lý
và tái sử dụng nước nuôi giống thủy sản và xử lý nước thải sinh hoạt dạng phân tán
[3]. Ngoài ra có một số nghiên cứu mới chỉ tập trung vào nghiên cứu vật liệu mang
(nhóm nghiên cứu GS.TS Lê Văn Cát-Viện Khoa học Việt Nam: Nghiên cứu vật liệu
mang xử lý nước thải). Chưa có nhiều những chương trình, đề tài nghiên cứu lớn
phát triển theo hướng nghiên cứu áp dụng công nghệ tầng vi sinh chuyển động
trong lĩnh vực xử lý nước thải đặc biệt là các loại nước thải xử lý ô nhiễm giàu chất
hữu cơ (COD), nitơ và photpho.
31
Chƣơng 2 ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là chất lượng nước thải chăn nuôi trong và sau khi qua
xử lý bằng kỹ thuật bùn hoạt tính sử dụng hệ thống SBR và kỹ thuật tầng vi sinh
chuyển động sử dụng vật liệu mang Polyuretan. 02 hệ được thiết kế, lắp đặt tại
phòng công nghệ, trung tâm nghiên cứu công nghệ môi trường và phát triển bền
vững (CETASD). Diễn biến của các quá trình trong hệ được đánh giá qua các thông
số DO, pH, độ kiềm, COD, N-NO3-, N-NO2-, N-NH4+, SS, tổng N, tổng P, PO4…của nước thải. Từ đó đưa ra kết luận khả năng xử lý nước thải chăn nuôi bằng kỹ
thuật tầng vi sinh chuyển động sử dụng vật liệu mang Polyuretan so với kỹ thuật
bùn hoạt tính truyền thống.
Nước thải chăn nuôi phục vụ thí nghiệm là nước thải chăn nuôi lợn sau bể
Biogas-Viện nghiên cứu giống lợn, Viện Chăn nuôi, Thụy Phương, huyện Từ Liêm,
thành phố Hà Nội.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
a) Kỹ thuật bùn hoạt tính lơ lửng sử dụng hệ thống SBR
Mô hình đầy đủ của hệ thống SBR quy mô thí nghiệm được trình bày trên
hình 2.1.
Theo sơ đồ hình 2.1 nước thải được chứa vào bồn có trang bị máy khấy để
đồng nhất hoá. Từ đây nước thải được bơm định lượng tự động hẹn giờ vào bể phản
ứng.
32
Hình 2.1 Sơ đồ hệ thống SBR phòng thí nghiệm
Tuy nhiên, do điều kiện phòng thí nghiệm chưa cho phép nên hệ thống được
đơn giản hoá theo nguyên lý “gọn hơn nhưng đủ”. Bể phản ứng là hình hộp chữ
nhật không có nắp, được làm bằng plexiglass trong suốt có kích thước 21 x 19 x
40 cm (tương ứng với thể tích phản ứng < 16 Lít). Trong thí nghiệm này, chúng tôi
tiến hành với thể tích nước thải + bùn còn là 9,2 lít với thể tích nước thải bổ sung
cho mỗi mẻ gần 5,2 lít. Trong bể có lắp sẵn các đầu phân tán khí nối với máy nén
khí để cấp khí oxi cho quá trình hiếu khí. Bể được lắp máy khuấy cơ khí để khuấy
đều hỗn hợp phản ứng trong giai đoạn nạp và phản ứng. Các máy khuấy, máy cấp
khí đều được gắn với hệ tự động hoá theo nguyên lý hẹn giờ (tuỳ theo yêu cầu thí
nghiệm). Đáy bể được bố trí van xả để xả bùn dư khi cần.
Vận hành hệ thống SBR
Nước thải đầu vào ( nước thải chăn nuôi lợn) được làm đầy vào bể phản ứng.
Chu trình hoạt động được chọn cho bể SBR như sau:
Làm đầy: cho mẫu vào trực tiếp
Khuấy thêm: 25% thời gian mỗi mẻ
Sục khí : 50% thời gian mỗi mẻ
33
Lắng: 25% thời gian mỗi mẻ
Gạn nước ra khỏi hệ bằng tay.
Không kể thời gian chuẩn bị và phân tích mẫu xen kẽ. Thời gian còn lại
trong ngày hệ sẽ được vận hành theo chế độ khấy, sau đó ngừng khuấy trong 1,0 giờ
để tiến hành mẻ thí nghiệm mới.
- Lấy mẫu phân tích
Hệ thống SBR được chạy hàng ngày. Trong mỗi thời gian lưu tổng, mẫu
được lấy ở cuối mỗi giai đoạn. Các mẫu cần lấy mỗi mẻ là: mẫu đầu vào, mẫu bùn
lưu trong bể, mẫu sau giai đoạn nạp, sau giai đoạn khuấy, sau giai đoạn sục khí, sau
giai đoạn lắng; mẫu được lấy vào cốc thuỷ tinh để lắng, lọc qua giấy lọc bằng máy
và phân tích các chỉ tiêu COD, N-NH4+, N-NO2-, N-NO3-, tổng N, tổng P. Độ kiềm,
pH, nhiệt độ. Chỉ tiêu TSS phân tích bằng cách hút mẫu trực tiếp trong cốc đựng
(khuấy đều) sau đó cho qua máy lọc.
- Xử lý kết quả
Các số liệu phân tích được đưa vào bảng Excel và xử lý bằng Excel.
b) Kỹ thuật tầng vi sinh chuyển động sử dụng vật liệu mang Polyuretan
Cấu tạo hệ thống
* Thiết bị phản ứng vật liệu thủy tinh với thông tin như sau:
- Thể tích tổng V = 0,432 m3; LxWxH = 1,2x0,3x1,2 m
- Thể tích ngăn yếm khí V = 0,108 m3; LxWxH = 0,3x0,3x1,2 m
- Thể tích ngăn thiếu khí V = 0,108 m3; LxWxH = 0,3x0,3x1,2 m
- Thể tích ngăn hiếu khí V = 0,216 m3; LxWxH = 0,6x0,3x1,2 m
* Thiết bị động lực gồm
01 máy bơm chìm (Q = 6 -10m3/h; H = 6 mH2O; N = 0,25kw) đặt trong ngăn
xử lý thiếu khí có chức năng bơm tuần hoàn hỗn hợp bùn nước từ ngăn thiếu khí
sang ngăn hiếu khí. Trên đường bơm từ ngăn thiếu khí sang ngăn hiếu khí có đặt
thiết bị hút khí dạng Injector và đồng hồ đo áp suất. Trên đường bơm từ ngăn thiếu
khí về ngăn yếm khí đặt 01 van nhằm điều chỉnh lưu lượng tuần hoàn hỗn hợp bùn
và nước cho cả 02 dòng trên.
34
Mô tả nguyên lý hoạt động của hệ thống
Hình 2.2 Sơ đồ cấu tạo của hệ thống thí nghiệm yếm khí-thiếu khí-hiếu khí
theo mẻ.
* Ngăn yếm khí:
- Nhận nước thải thô; nhận bùn và nước tuần hoàn từ ngăn thiếu khí.
- Thực hiện các chức năng: phân hủy hữu cơ (BOD/COD); phân hủy bùngiải phóng P-PO43- nuôi dưỡng vi khuẩn tạo biofilm có khả năng hấp thu P ở các
ngăn sau; khử nitrat-nitrit ở dòng tuần hoàn.
- Lưu giữ/phân hủy/xả bùn dư, cho phép hoạt động tới 6 tháng/1 năm mới
phải xả bùn dư; Cho phép giảm ít nhất 50% bùn thải (theo nghiên cứu của TS Lê
Văn Chiều-Trung tâm Công nghệ Môi trường và Phát triển bền vững-Đại học Khoa
học tự nhiên-Đại học Quốc gia Hà Nội).
* Ngăn thiếu khí:
- Nhận nước lắng từ ngăn kị khí; hỗn hợp phản ứng từ ngăn hiếu khí
- Các chức năng: là nơi vi khuẩn thực hiện các quá trình thiếu khí khử nitritnitrat; trung chuyển/ tuần hoàn hỗn hợp phản ứng một phần về ngăn kị khí, tuần
hoàn phần lớn về ngăn hiếu khí.
- Là ngăn điều hòa lưu lượng giờ cao điểm .
Đây là phần quan tâm của chuyên đề này.
35
* Ngăn hiếu khí:
- Nhận hỗn hợp phản ứng từ ngăn thiếu khí nhờ bơm kết hợp bổ sung cung
cấp khí cho quá trình, giảm chi phí thiết bị/bảo trì hệ cấp-phân tán khí; cơ cấu cho
phép giảm ~50% chi phí năng lượng.
- Có cơ cấu tuần hoàn hỗn hợp bùn nước, đồng thời chống váng
- Có cơ cấu lắng/xả linh hoạt, cho phép chạy theo bất kì chế độ nào (liên tục
hay gián đoạn) tùy đặc trưng nước thải
- Các chức năng xử lí chính: khuấy trộn và thực hiện các quá trình
nitrat/nitrit hóa (xử lí nitơ tổng số); nuôi dưỡng phát triển vi khuẩn PAO (xử lí
photpho hòa tan); lắng bùn làm trong nước.
Cả ba ngăn trong hệ thống pilot đều có vật liệu mang polyuretan kích thước
như nhau; các ngăn trong hệ thống pilot đều có các chủng vi khuẩn ngoài khả năng
phân hủy N, P cao còn được tối ưu hóa các điều kiện tạo biofilm để nâng cao hiệu
quả xử lý để thực hiện kĩ thuật tầng vi sinh (vật liệu mang chuyển động).
Quá trình khởi động và vận hành hệ thống
Quá trình khởi động của hệ thống
Vi sinh được cấp từ nhà máy xử lý nước thải bia Hà Nội từ công đoạn xử lý
yếm khí vào đều 03 ngăn pilot nghiên cứu với nồng độ duy trì ban đầu từ 3000 –
3500 mg/l. Nước thải chứa N,C cao là nước thải chăn nuôi lợn. Do nước thải chăn
nuôi thực có hàm lượng các chất tương đối cao (COD ≈ 8000 mgO2/L, N-NH4+ ≈
1200 mg N/L) nên phải tiến hành pha loãng nước thải chăn nuôi nhằm giúp vi sinh
vật dễ dàng ổn định và thích nghi với nguồn nước thải mới. Ưu điểm của hệ thống
là chuyển hoá N-NH4+, vì vậy cần khống chế đầu vào dựa vào nồng độ N-NH4+.
Mỗi chế độ vận hành được thực hiện đến khi hiệu suất chuyển hóa N-NH4+ ổn định
và lặp lại 3 lần (thời gian khoảng 1 tuần/1 chế độ). Các số liệu nhận được là số liệu
trung bình của các lần thí nghiệm.
36
Nước thải được bơm tuần hoàn theo chế độ chạy của bơm cấp nước thải đầu
vào và phụ thuộc vào thời gian đặt lắng vi sinh trong ngăn thiếu khí. Trong quá
trình khởi động các thông số nghiên cứu xử lý chính như chất hữu cơ (COD), N, P
được lấy tại các điểm đầu vào và đầu ra sau công đoạn lắng trong ngăn hiếu khí với
tần suất trung bình 1 lần/ ngày. Hàm lượng vi sinh phân tích trung bình trong 03
ngăn xác định với tần suất 1 lần/ 7 ngày (để kiểm tra mật độ vi sinh). Thời gian chạy
khởi động dao động từ 10 – 30 ngày. Trong quá trình khởi động cần kiểm soát các
thông số cơ học khác như lưu lượng tuần hoàn bùn – nước từ ngăn khử nitrat về
ngăn hiếu khí và ngăn yếm khí. Kiểm soát và ghi chép đầy đủ thông tin giá trị áp
suất đo được trên đồng hồ đặt trước thiết bị injector, đồng thời quan sát khả năng
khuấy trộn trong ngăn hiếu khí và khả năng tuần hoàn từ ngăn hiếu khí về ngăn khử
nitrat.
Quá trình vận hành hệ thống
Sau thời gian vận hành khởi động hệ thống nước thải sẽ được nâng cao nồng
độ các chất ô nhiễm nhằm khảo sát đánh giá khả năng xử lý chất hữu cơ (COD), N,
P của từng quá trình và của cả hệ thống. Các thông số nghiên cứu xử lý chính như
chất hữu cơ (COD), N, P được lấy tại các điểm đầu vào và đầu ra sau công đoạn
lắng trong ngăn hiếu khí với tần suất trung bình 1 lần/ ngày. Mật độ vi sinh phân
tích trung bình trong 03 ngăn xác định với tần suất 1 lần/ 7 ngày.
Vật liệu được lựa chọn là vật liệu mang vi sinh phân tán dạng đệm mút kích
thước LxWxH = 10x10x10mm, thể tích vật liệu chiếm 20% thể tích bể phản ứng
(Theo kết quả nghiên cứu GS.TS Lê Văn Cát-Viện Khoa học Việt Nam).
37
Chƣơng 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu khả năng xử lý chất hữu cơ (COD), N và P trong nƣớc thải
chăn nuôi bằng kỹ thuật bùn hoạt tính lơ lửng sử dụng hệ thống SBR
Mục đích nghiên cứu: nhằm tìm ra các thông số tối ưu như: thời gian lưu
tổng, nồng độ cơ chất đầu vào từ đó đánh giá khả năng xử lý nước thải chăn nuôi
bằng kỹ thuật bùn hoạt tính lơ lửng sử dụng hệ thống SBR so sánh với kỹ thuật tầng
vi sinh chuyển động (sử dụng vật liệu mang Polyuretan).
Bảng dưới đây tóm tắt các thông số chung của hệ thống SBR:
Bảng 3.1. Tóm tắt các thông số chung hệ thống SBR
Thông số
Giá trị
Đơn vị
V tổng
9,2
l
V nước thải + bùn
5,2
l
Thời gian khuấy
25
%
Thời gian sục khí
25
%
Thời gian lắng
25
%
4
g/l
Mật độ bùn
Các giá trị thành phần N và P đo được đều tính theo N hoặc P.
3.1.1. Khả năng xử lý chất hữu cơ (COD), N, P bằng hệ thống SBR khi thay đổi
theo thời gian
Chế độ 1: Thời gian lƣu tổng 06 giờ.
Nồng độ N-NH4+ trong nước đầu vào 100mg/l
Với chế độ chạy đầu tiên chúng tôi tiến hành chạy hệ với thời gian lưu tổng
của mỗi mẻ là 06h, pha loãng nước thải sao cho nồng độ N-NH4+ 100 mgN/l với
mong muốn vi sinh sẽ ổn định thích nghi và phát triển tốt. Nhằm đánh giá sự tăng
trưởng của vi sinh chúng tôi đã tiến hành kiểm tra mật độ vi sinh và mật độ bùn khi
tiến hành chạy hệ, cũng như các hệ bùn hoạt tính thông thường có mật độ sinh khối
khoảng 4g/L.
38
Bảng dưới đây tóm tắt chế độ thí nghiệm và các giá trị trung bình của nước
thải đầu vào:
Bảng 3.2. Tóm tắt chế độ thí nghiệm và các giá trị trung bình của nước thải đầu vào
hệ thống SBR với thời gian lưu tổng 06 giờ.
Thông số
Giá trị
Đơn vị
Thông số
Giá trị
Đơn vị
V tổng
9,2
l
Thời gian khuấy
1,5
h
V nước thải + bùn
5,2
l
Thời gian sục khí
3,0
h
Thời gian lắng
1,5
h
Mật độ vi sinh
4
g/l
Giá trị trung bình thành phần nước thải chăn nuôi được pha loãng đến nồng độ cần khảo sát
pH
7,7-8,2
COD, t
130
mg/l
COD, ht
105
mg/l
T-N, t
125,5
mgN/l
N-NH4+
93,7
mg/l
N-NO2-
10,4
mg/l
N-NO3-
3,9
mg/l
mgP/l
P-PO43-, ht
6,1
mg/l
T-P, t
7,1
Kết quả của chế độ 1 thu được trình bày ở hình 3.1a ; hình 3.1b.
Hệ 6h
mgHCO3-//l
amoni, nitrit, nitrat (mgN/l)
120
350
100
300
250
80
200
amoni
150
nitrit
100
nitrat
50
Độ Kiềm
60
40
20
0
0
Bắt đầu (0h)
Khuấy
(1.5h)
Sục khí (3h) Lắng (1.5h)
Thời gian
Hình 3.1a: Diễn biến các chỉ tiêu N, độ kiềm theo thời gian lưu tổng 6h
Trong giai đoạn khuấy ban đầu N-NO2- đã giảm xuống từ 10,4mg/l đến
39