Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.07 MB, 230 trang )
154
Vấn đề tính đa nghĩa của văn học cũng được các nhà ký hiệu học quan tâm. Các
nhà ký hiệu học quan niệm văn bản là một phức hợp của những ký hiệu gắn bó với
nhau, mang một quá trình tạo nghĩa liên tục và các lớp ký hiệu trong văn bản đều có
mối liên hệ với các lớp hiện thực bên ngoài. Julia Kristeva xem “văn bản” là một “thực
hành tạo nghĩa”, là nơi “sản xuất ra nghĩa”. Nghĩa của tác phẩm không ổn định, duy
nhất, mà thường xuyên vận động, thường xuyên ở “thế khả năng”. Bởi nó là một thế
giới ký hiệu, mà ký hiệu ngôn ngữ trong văn bản luôn luôn có sự không ăn khớp giữa sự
vật hiện tượng được phản ánh với cbđ và giữa cbđ với cđbđ.Tính đa nghĩa của văn học,
do đó, bắt nguồn từ quá trình vận động tạo nghĩa của các ký hiệu (ngôn ngữ) trong tác
phẩm [147,124].
Một đại diện xuất sắc khác của ký hiệu học là Umberto Eco lại nhấn mạnh tính
chất mở của văn bản văn học và cho rằng sự đọc là một quá trình luôn luôn dở dang và
không thể kết thúc. Theo Umberto Eco: “Tất cả mọi tác phẩm, dù được sáng tạo theo
thi pháp tất yếu nào cũng mở theo các kiểu đọc, mỗi kiểu đọc mang đến cho tác phẩm
một đời sống mới từ một triển vọng nào đó theo thị hiếu cá nhân của người đọc”[34,
23-24].
Ở Việt Nam, vấn đề tính đa nghĩa cũng được một số nhà nghiên cứu quan tâm đề
cập đến. Nhà nghiên cứu Lê Bá Hán đã bàn về mối quan hệ giữa tư tưởng của tác phẩm
và ý nghĩa khách quan của nó, về mối quan hệ giữa tác phẩm và người đọc. Ông cho
rằng: “Hình tượng văn học vốn mang tính nhiều nghĩa” và “tính nhiều nghĩa của hình
tượng được tạo thành bởi hàng loạt yếu tố” như ngôn ngữ, phương thức phản ánh, sức
mạnh khái quát của các điển hình văn học. “Điển hình văn học càng giàu sức sống bao
nhiêu, được quảng đại độc giả các thời đại “cộng hưởng” rộng rãi bao nhiêu thì tính
nhiều nghĩa của nó càng lớn bấy nhiêu”. Ông cũng cho rằng “tính nhiều nghĩa của tác
phẩm chịu sự quy định sâu xa và bền vững của những câu chữ, những hình tượng và
những ý tình được thể hiện qua một cấu trúc ổn định của bản thân tác phẩm”[44, 14].
Như vậy, có thể thấy vấn đề tính đa nghĩa của các tác phẩm văn học được rất
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, và đã vận dụng các lý thuyết ký hiệu học, ngữ nghĩa
học, ngữ dụng học, mỹ học tiếp nhận...Những công trình này ít nhiều đề cập đến những
khía cạnh khác nhau của vấn đề trêntrong các tác phẩm văn học.
Đối với tác phẩm văn học, nhìn chung đa nghĩa được xem như là một trong
những đặc điểm quan trọng và thường trực của tác phẩm, đặc biệt là của ngôn từ nghệ
thuật thơ ca. Cụ thể ở đây là những tác phẩm văn học thuộc thể loại ca dao, tính đa
nghĩa được chúng tôi phân tích ở những THTM điển hình.Toàn bộ chương 3, chúng tôi
155
đã trình bày YNTM của 20 THTM điển hình thuộc các trường nghĩa: hiện tượng tự
nhiên, vật thể nhân tạo, thực vật, động vật trong ca dao Nam Trung Bộ. Đó chính là sự
biểu hiện tính đa nghĩa của các THTM trong ca dao.
YNBTcủa những THTM trong ca dao Nam Trung Bộ so với những THTM trong
ca dao vùng miền khác bên cạnh những điểm chung, chúng có những biểu đạt riêng,
khác biệt tạo nên đặc trưng văn hóa vùng miền. Tác nhân tạo nên sự khác biệt đó chính
là những cơ sở tạo nên tính đa nghĩa mang lại nhiều màu sắc thẩm mĩ cho những THTM
trong ca dao Nam Trung Bộ.
4.1.1 Đa nghĩa thẩm mĩ và đặc trưng của tư duy nghệ thuật ca dao Nam
Trung Bộ
Hoạt động nghệ thuật của con người dựa trên kiểu tư duy hình tượng. Nhờ tư duy
hình tượng, con người có thể nắm bắt đối tượng, chiếm lĩnh đối tượng dưới hình thức,
đồng thời, chỉnh thể và trực quan. Với tư duy hình tượng, người sáng tác có thể xây
dựng được những hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh phản ánh các đối tượng của thế giới
hiện thực trong trạng thái tổng thể, không ngừng vận động và biến đổi, trong chiều sâu
và sự sinh động như nó vốn có trong đời sống. Chính sự phản ánh trong trạng thái tổng
thể sinh động, cho nên các hình tượng nghệ thuật và hiện thực đời sống trong tác phẩm
bao giờ cũng được tái tạo với tính chất khả biến và tính chất nhiều mặt, nhiều bình diện,
nhiều khía cạnh, nhiều mối quan hệ phức tạp, đan xen vô cùng phong phú và đa dạng.
Tính chất khả biến, phong phú và đa dạng của các bình diện và quan hệ đời sống được
phản ánh khiến cho tác phẩm văn học- thể loại ca dao không thể nào được cắt nghĩa chỉ
bằng tư duy lôgic một chiều. Chỉ có sự lĩnh hội đồng thời từ nhiều góc độ, nhiều
phương diện, nhiều mối tương quan mới cho thấy hết tính toàn vẹn, phức hợp và sinh
động của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm qua các hình tượng và bằng
các hình tượng.
Ca dao xét về góc độ tư duy của dân tộc, nó như một tấm gương phán ánh hiện
thực khách quan của dân tộc và của mỗi vùng miền khác nhau với những điều kiện
sống, phong tục tập quán, văn hóa riêng.Là loại hình văn học truyền miệng, là sản phẩm
được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân, nội dung của ca dao vừa mang tính chất chung
cũng vừa mang yếu tố riêng, gần gũi với tập quán sinh hoạt của mỗi vùng miền.
Đặc trưng về địa hình của khu vực Nam Trung Bộ là có đầy đủ mọi yếu tố của
thiên nhiên Việt Nam: biển, núi, đồi, đèo, sông, đầm... đặc biệt với địa hình biển cả
mênh mông và núi non hiểm trở bố trí xen kẽ, dày đặc. Nhà nghiên cứu Thạch Phương
đã có nhận xét: “... Dải đất từ phía nam đèo Hải Vân chạy đến địa giới Bình Thuận - Bà
156
Rịa không phải là vùng quá khắc nghiệt (đất cày lên sỏi đá), nhưng cũng không phải là
nơi thiên nhiên có nhiều hào phóng đối với con người. Thiên tai, bão lụt hằng năm vẫn
liên tiếp xảy ra.” Chính vì vậy khi nói về con người nơi đây, tác giả đã viết: “Con người
muốn bám trụ nơi đây, không những chỉ có siêng năng, lao động cần cù, mà còn phải
luôn động não, tìm tòi cái mới, cái hay để xử lí một cách chủ động, thông minh trong các
tình huống. Không giáo điều trong suy nghĩ, bền bỉ, kiên trì trong ý chí, có quyết tâm cao
trong hành động, đó là những đặc tính nổi bật của con người nơi đây: Anh đây quyết chí
câu cua, dầu ai câu chạch, câu rùa mặc ai! Họ quan niệm đã quyết thì hành, đã đẵn thì
vác, đã đan thì lận tròn vành mới thôi”[181, 39].
Sự phản ánh thiên nhiên đa dạng của một vùng đất vào ca dao được xem là đặc
điểm đầu tiên của văn hóa vùng này. Yếu tố biển, núi, đầm, sông...đều ánh xạ vào các
thành tố văn hóa. Có thể nói dấu ấn văn hóa biển khá đậm nét trong ca dao Nam Trung
Bộ.Từ lâu đời cư dân nơi đây đã nương tựa vào biển và ngược lại biển chi phối mạnh
mẽ đời sống của con người. Không chỉ vì trong ca dao Nam Trung Bộ THTM biển xuất
hiện nhiều mà văn hóa về biển còn được thể hiện thông qua các THTM khác nhằm biểu
trưng những hoạt động, những quan niệm của con người nơi đây về biển. Chẳng hạn
như lễ hội cầu ngư là một trong những lễ hội rất lớn ở các tỉnh Nam Trung Bộ. Ngoài ra
còn có các lễ hội như lễ hội Nghinh Ông, lễ hội đua thuyền, song chài, song lưới...Đây
là những sinh hoạt vừa mang tính tâm linh, vừa mang yếu tố văn hóa biển vô cùng đặc
sắc của cư dân Nam Trung Bộ.
Đẳng cấu với THTM biển các BTKH là các TH thuộc trường nghĩa động vật
như cá, tôm hùm, sò huyết...xuất hiện rất nhiều, một lần nữa khẳng định biển gắn bó
sâu đậm trong tâm thức người dân nơi đây. Một biểu hiện nữa mang dấu ấn của biển, đó
là ở THTM núi, chúng ta bắt gặp BTTV là hòn Vọng Phu cũng có quan hệ tới biển,
gần như tất cả các hòn Vọng Phu đều đứng gần biển và hướng ra biển.
Ngoài dấu ấn văn hóa biển, ca dao Nam Trung Bộ còn mang dấu ấn văn hóa
Chămpa. Khác với Bắc Bộ là địa bàn tụ cư và khai thác lâu đời của người Việt, khác với
Nam Bộ được khai phá muộn hơn, vùng Trung Bộ nói chung và Nam Trung Bộ nói
riêng, một thời kì dài thuộc các tiểu quốc của vương quốc Chămpa. Vì vậy, đặc điểm
nổi bật thứ hai của vùng văn hóa Trung Bộ là một vùng đất chứa nhiều dấu tích văn hóa
Chăm-pa. Khắp các tỉnh thuộc Nam Trung Bộ, nhiều di sản văn hóa vật thể còn tồn tại
là các tháp Chăm, đền Chăm phơi sương gió cùng năm tháng. Chúng vẫn sừng sững
như một dấu ấn không thể phai mờ. Đây cũng là lí do vì sao chúng ta gặp những THTM
tháp trong ca dao Nam Trung Bộ mang đậm dấu ấn vùng đất nơi đây:Ai về viếng cảnh
157
Khánh Hòa/Long Sơn nên nhớ Tháp Bà đừng quên;Ai về Xóm Bóng, Hà Ra/Đi ngang
Hòn Chữ mà xem Tháp Chàm; Phú Yên có đỉnh Cù Mông/ Có hòn Nhạn Tháp, có
dòng sông Ba.
Tháp cổ như một đặc trưng không gian văn hóa trong ca dao Nam Trung Bộ.
Tháp- một biểu tượng đẹp gắn bó với cuộc sống con người nơi đây, tháp cổ chứng kiến
và gắn liền với thịnh suy của quê hương.Nếu trong ca dao Bắc Bộ có THTM đình thì
trong ca dao Nam Trung Bộ THTM tháp được sử dụng để thể hiện tâm tư của chủ thể
trữ tình.Với THTM tháp, chúng tôi thấy xuất hiện môtip “ngó lên” mộc mạc, ân tình
làm bật lên đặc trưng vùng đất nơi đây. Đằng sau những cụm từ “ngó lên” bao giờ cũng
là địa danh vùng đất. Những TH núi, tháp, trời, hòn... và từ “ngó” vừa mang tính
phương ngữ, vừa mang tính khẩu ngữ, mộc mạc như lời ăn tiếng nói bình dân. Tất cả
đều chuyển tải những tâm tư, tình cảm giản dị mà lắng sâu của chủ thể trữ tình: Ngó
lên trên đỉnh Tháp Chàm/Nhớ ai như nhớ bóng nàng năm xưa;Ngó lên ngọn tháp
Cánh Tiên/Hỏi thăm ông Hậu thủ thiềng vì ai?Ngó lênhòn tháp chợ Dinh/Biết ai có
tưởng nghĩa mình hay không.
Với địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn,tháp và các ngôi chùa thường được xây
trên núi. Vì vậy, môtip “ngó lên” trên tháp và “lên chùa” xuất hiện nhiều trong ca dao
Nam Trung Bộ.
Những YNTM của tháp trong ca dao Nam Trung Bộ xét đến cùng đều là những
biến thể ngữ nghĩa có nguồn cội sâu xa từ những “mẫu gốc” của nó: “Tháp trở thành
biểu tượng cho sự cảnh giác và hướng thượng....; tháp cũng có chức năng cái thang:
mối liên hệ giữa trời và đất, và theo từng nấc, mỗi bậc thang, mỗi tầng tháp đều thể
hiện một cấp độ của sự lên cao”[13,873].
So với Bắc Bộ và Nam Bộ thì Trung Bộ nói chung và Nam Trung Bộ nói riêng là
vùng đệm, mang tính chất trung gian. Đây là vùng đất “hội tụ” nhiều cuộc di dân. Sự
tiếp biến văn hóa đã khiến diện mạo tín ngưỡng của người Việt ở Nam Trung Bộ đã có
nhiều thay đổi so với người Việt ở các vùng miền khác. Tất cả những đặc điểm nêu trên
đều có tác động đến tư duy nghệ thuật ở thể loại ca dao.
ỞTHTM tháp thuộc trường nghĩa vật thể nhân tạo mà chúng tôi đã trình bày có
đề cập đến môtip “ngó lên” thì ở THTM biển chúng ta gặp môtip “ngó ra” với các ý
nghĩa mới đã được hình thành bất ngờ, thú vị: Ngó ra ngoài biển ba lần/Thấy anh ở
trần trong dạ xót xa;Ngó ra ngoài biển tăm tăm/ Thấy ghe anh chạy có năm mái
chèo...;Ngó ra biển Bắc gành Đông/Thấy người thiên hạ sao không thấy chàng/Ngậm
ngùi thương phụng nhớ loan/Gởi lời cho gió, gió tan mất rồi.
158
Những hiểu biết về từ biển trong hệ thống cũng chỉ cho ta biết cái nghĩa thông
thường (nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm) của nó trên mặt chữ: vùng nước mặn rộng lớn
trên bề mặt trái đất. Những câu ca dao đâu chỉ là sự tái tạo sự việc với ngôn ngữ được
dùng trong tư duy logic- thứ ngôn ngữ đơn nghĩa - mà còn được phản ánh trên bình diện
lịch sử, trong các mối quan hệ phức tạp. Trong sự kết hợp theo trường nghĩa ngang với
các từ cùng xuất hiện trên một dòng ca dao và cả bài ca dao mà ở đây chúng tôi nhấn
mạnh đến môtip“ngó ra”, với tri thức văn hóa làng xã Việt Nam, chúng ta thấy được
mối quan hệ giữa nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn trong ngôn bản.
Để hiểu được môtip“ngó ra biển”,chúng ta phải “ngược về quá khứ” lịch sử là
do các cuộc di dân của người Việt đến vùng đất ven biển - Nam Trung Bộ. Vì vậy,
chúng ta cắt nghĩa được rằng các dòng họ người Việt ở các tỉnh ven biển đều có nguồn
gốc là nông dân hoặc binh lính. Họ chẳng mấy khi gắn bó với biển, mặc dù họ sống gần
biển “đi dọc” biển, lập làng ven biển. Vì thế, ngay từ buổi đầu về gần biển, họ thật sự là
những kẻ cô đơn, cô đơn vì ly hương, cô đơn vì thấy lẻ loi trước biển, và thậm chí sợ
biển. Nên với họ chỉ có thể “ngó ra” không có thể “ nhìn về” được.“Ngó ra” đó kết
hợp với tính chất “mù mù”,“tăm tăm” của biển càng khiến cho sự chờ đợi của chủ thể
trữ tình mông lung, vô vọng.
Biển mù khơi, với bao hiểm nguy, trắc trở. Tâm hồn người con gái miền Trung
âu lo cho người đang giữa biển. Ngó ra ngoài biển ba lần với con số 3 như một ước lệ,
tượng trưng cho vô vàn lần, mở và khép những thế giới tâm trạng: người lênh đênh
trùng khơi có hiểu thấu cho tâm hồn người ở lại? Tình cảm hồn hậu, mặn nồng của
người dân đất biển cứ quấn quyện vào những câu chữ, nhịp điệu của thể thơ lục bát
mang theo điệu hồn dân tộc.
Đằng sau những cụm từ “ngó ra” là tấm chân tình của người xứ biển. Cảnh vật
làm cái cớ, nơi nương tựa của xúc cảm. Ở đây, từ “ngó ra” mang tính khẩu ngữ, mộc
mạc như lời ăn tiếng nói bình dân. Dáng hình của một miền đất và con người cũng từ đó
hiện lên, trong những lời ca dao chắt chiu gió biển mặn nồng. Tất cả đều chuyển tải
những tâm tư, tình cảm giản dị mà lắng sâu của chủ thể trữ tình.
Có thể nói rằng tính đa nghĩa của một tác phẩm văn học nói chung, của một
THTM nói riêng nảy sinh và tồn tại như một hệ quả tất yếu của tư duy nghệ thuật. Biểu
hiện của tính đa nghĩa ấy cho thấy quy luật đặc thù của quá trình nhận thức đời sống
bằng nghệ thuật, thông qua nghệ thuật.
4.1.2 Đa nghĩa thẩm mĩ và đặc trưng của nội dung ca dao Nam Trung Bộ
159
Hiện tượng nhiều YNBT của một THTM chính là tính chất đặc thù của nội dung
tác phẩm văn học nói chung và của ca dao nói riêng. Nội dung của bài ca dao không
giống nội dung của những sự vật thông thường. Tính đặc thù của nội dung bài ca dao
không chỉ được thể hiện ở chỗ nó là sự kết hợp xuyên thấm vào nhau của những phương
diện khách quan và chủ quan của đời sống, mà còn thể hiện ở tính chất vẹn toàn, sâu
thẳm và không thể bao quát hết được của nó.
Sự toàn vẹn, sâu thẳm và không thể bao quát hết nội dung khiến cho bài ca dao
không phải cắt nghĩa một lần là xong. Nó phải thường xuyên được đọc đi đọc lại, cắt
nghĩa đi cắt nghĩa lại, không chỉ bởi một cá nhân người đọc mà nhiều người đọc trong
toàn bộ công chúng độc giả rộng lớn và đa dạng ở nhiều thời điểm, nhiều tình huống và
môi trường khác nhau. Mỗi lần đọc, mỗi lần cắt nghĩa, người ta lại có thể phát hiện ra
một khía cạnh, một phương diện nào đó có thể là khác biệt mới mẻ, bất ngờ và thú vị
của nội dung, tuy nhiên vẫn thấy khôn cùng.
Cơ sở tạo tính đa nghĩa thứ hai này không thể không liên quan mật thiết tới cơ sở
đã nêu trên. Cũng là một THTM nhưng nếu bị “chi phối”, bị “thay đổi” bởi nhiều tác
động của lịch sử, của văn hóa, của con người...thì nó cũng sẽ “gánh” nhiều YNBT.
Chính vì điều này, khi tiếp nhận một THTM để thấu hiểu và hiểu hết những giá trị thẩm
mĩ TH đó mang lại, người tiếp nhận phải có “nền” hiểu biết nhất định.
Những THTM trong ca dao Nam Trung Bộ như chúng tôi đã thống kê ở chương
2 và phân tích YNBT ở chương 3 cho thấy ca dao Nam Trung Bộ không chỉ có số lượng
THTM phong phú mà YNBT của mỗi THTM cũng hết sức đa dạng, sinh động. Bên
cạnh những YNBT chung cho ca dao Việt Nam, những THTM trong ca dao Nam Trung
Bộ còn có những YNBT riêng của vùng đất này. Điều này cũng đã được chúng tôi phân
tích qua các THTM điển hình của từng trường nghĩa. Sự dung hợp văn hóa trong ca dao
Nam Trung Bộ là một trong những yếu tố tác động đến sự hình thành tính đa nghĩa của
các THTM trong ca dao nơi đây.
Như vậy có thể thấy, tính đa nghĩa của THTM thực chất không gì khác hơn là sự
mở ra không ngừng của nội dung THTM trong quá trình tiếp nhận của công chúng độc
giả rộng lớn thuộc nhiều thế hệ và thời đại. Vấn đề này sẽ được chúng tôi trình bày rõ
hơn ở phần sau.
4.1.3 Đa nghĩa thẩm mĩ và đặc trưng của văn bản ca dao Nam Trung Bộ
Một trong những khía cạnh đặc thù của văn bản ca dao nói chung và ca dao Nam Trung
Bộ nói riêng liên quan đến tính đa nghĩa là những đặc điểm về văn cảnh của nó. Văn
cảnh của những bài ca dao mang tính chất định hướng cho sự tiếp nhận về nó một cách
160
đúng đắn. Mặt khác, văn cảnh lại có khả năng mở ra nhiều cách tiếp cận, cách hiểu rất
khác nhau, thậm chí nhiều khi trái ngược nhau trong sự tiếp nhận của người đọc.
Văn cảnh ở đây được hiểu trong phạm vi hẹp và trên phạm vi rộng. Trong phạm
vi hẹp, văn cảnh là những gì xuất hiện trước và sau THTM đang nghiên cứu. Đó chính
là những BTQH, BTKH của những THTM được nghiên cứu.
Trên phạm vi rộng, văn cảnh của một văn bản nghệ thuật bao gồm những đặc
điểm về không gian, thời gian cùng những đặc điểm về địa lý, lịch sử, xã hội, văn hóa...
làm nên hệ quy chiếu cho văn bản. Để hiểu đúng ý nghĩa của những THTM đang nghiên
cứu phải dựa vào hệ qui chiếu này.
Như vậy có thể nói, xét trên cả phạm vi rộng và hẹp, văn cảnh của những câu ca
dao Nam Trung Bộ nói chung và những THTM nói riêng đều có tính chất hai: vừa chặt
chẽ lại vừa lỏng lẻo, vừa khép kín lại vừa mở ngỏ. Đây chính là một trong những
nguyên nhân cơ bản tạo nên tính đa nghĩa của những THTM trong ca dao Nam Trung
Bộ.
Chẳng hạn, là những THTM quen thuộc trong ca dao Việt Nam: trầu- cau,
nhưng trầu- cau ở ca dao Nam Trung Bộ trong mối quan hệ với những BTKH và
BTQH điển hình của vùng miền đã mang lại cho THTM trầu - cau những ý nghĩa đặc
trưng của vùng đất này: Có trầu mà chẳng có cau/Có ăn rễ quạnh với nhau thì vào; Có
trầu mà chẳng có cau/Không tình không nghĩa làm sao vuông tròn; Có trầu mà chẳng
có cau/Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.
Ý nghĩa đầu tiên của trầu- cau vẫn là trầu- cau trong thực tế khách quan, thuần
túy mang nghĩa biểu vật về những thuộc tính đã biết. YNTM điển hình của trầu - cau là
tượng trưng cho tình cảm thủy chung, nồng thắm và hạnh phúc bền chặt của lứa đôi và
trầu- cau được xem như là thông điệp hết sức bình dị mà tinh tế. Sự khác biệt so với
hình ảnh trầu - cau trong ca dao Bắc Bộ là sự tỏ tình mạnh dạn, thẳng thắn được thể
hiện qua TH “làm sao”, “ ăn quạnh”, “với nhau/ thì vào”.Đó chính là tính cách của
con người nơi đây. Với cách tỏ tình dạn dĩ như vậy, phải chăng người con gái vùng đất
này đã vượt qua những ràng buộc gò bó của lễ giáo phong kiến để chủ động ướm hỏi
chàng trai. Động từ “quạnh” rất độc đáo không chỉ thuần ý nghĩa “kết duyên”,“nên
duyên” mà còn thể hiện một thái độ dứt khoát, như một lời “thách thức” chàng trai.
Cùng kết hợp với trầu - cau, còn xuất hiện BTQH “vuông - tròn” thể hiện ước mong về
một cuộc sống tròn đầy, một tình yêu đẹp và BTQH “đỏ” biểu trưng cho hạnh phúc lứa
đôi.
161
Khi nghiên cứu YNTM của những THTM ca dao thì yếu tố không gian và thời
gian có vai trò nghĩa hết sức quan trọng. Thời gian có nhiều loại: thời gian vật lý, thời
gian sinh học, thời gian tâm lí. Quá khứ, hiện tại, tương lai - đó là các dạng của thời
gian tuyến tính. Ngoài ra còn có thời gian lịch sử, thời gian sự kiện, thời gian đời
thường.
Có thể khẳng định rằng hầu hết ca dao Việt Nam đều lấy thời gian hiện tại làm
thời gian nghệ thuật của mình. Nhưng trong ca dao Nam Trung Bộ,điểm khác biệt so
với ca dao các vùng miền khác là sử dụng rất nhiều từ địa phương như: chầu rày, lóng
rày...để thể hiện thời hiện tại. Đó chính là một nét rất riêng cho ca dao vùng đất này:
Chầu rày bạn cựu xa rồi/ Cái trách cũng vụt, cái nồi cũng quăng; Lòng đó trong đựng
cá ngoài nan/ Chầu rày quyết một xa chàng, chàng ơi!
Với thể hỗn hợp kết hợp với trật tự thời gian trước sau của sự việc, bài ca dao sau
đã tạo nên nét độc đáo:
Gánh một gánh cá trích
Leo lên hòn núi bích
Nó rớt cái bịch
Nghèo mà nó mất một con
Uổng công mình trèo núi lội non
Trốn cho hết cực, cực còn chạy theo.
Sự việc được nêu ở 3 câu thơ đầu diễn tả các hoạt động nối tiếp, liên tục theo một
trật tự tuyến tính. Với trật tự này, tác giả dân gian đã lột tả nỗi vất vả, cơ cực của người
dân miền biển Nam Trung Bộ. Sự ngắt nhịp 1/4 “Gánh /một gánh cá trích//Leo/ lên hòn
núi bích” ở 2 câu thơ đầu chuyển sang nhịp 1/3 “Nó /rớt cái bịch” kết hợp với các âm
tiết khép được sử dụng liên tiếp trong bài ca dao trích - bích - bịch - cực càng làm tăng
thêm nỗi cơ cực vất vả của người dân nơi đây.
Không gian trong ca dao Nam Trung Bộ là không gian nghệ thuật có tính chủ
quan và tượng trưng. Trong ca dao, không chỉxuất hiện không gian địa danh- không
gian địa lí, mà còn xuất hiện không gian bình dị của những làng quê. Đó là ngõ quê,
xóm chợ chiều, con đèo, ngọn núi, biển rộng...với những tên sông, tên núi, tên đồng đã
là máu thịt của mọi miền quê hương. Tất cả là những “bức tranh thiên nhiên” rất gần
gũi, thân thương với con người Nam Trung Bộ. Ví dụ: Anh về Bình Định thăm cha/Phú
Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em/Thăm mẹ một chút thì về/Kẻo khuya trăng lặn tứ bề
núi non; Anh nguyện cùng em chợ Giã cho chí Cầu Đôi/Nguyền lên Cây Vốc, vạn Gò
Bồi giao long/Anh nguyền cùng em Thành Cựu cho chí Thành Tân/Cầu Chàm, Đập Đá
giao lân kết nguyền/Trung Dinh, Trung Thuận cho chí Trung Liên.
162
4.1.4 Đa nghĩa thẩm mĩ và đặc trưng tiếp nhận văn bản ca dao Nam Trung
Bộ
Như chúng tôi đã trình bày ở mục 3.1, cái gọi là “nghĩa” phải bắt đầu từ nhận
thức, ý nghĩa của những THTM, là cái được nảy sinh trong quá trình người tiếp nhận ý
thức về tác phẩm. Tính đa nghĩa thẩm mĩ của các THTM thực chất là sự mở ra của nội
dung tác phẩm trong quá trình tiếp nhận. Như vậy có thể thấy, nguyên nhân của tính đa
nghĩa không chỉ dừng lại ở quá trình sáng tác của người tạo lập hay bản thân bài ca dao.
Một nguyên nhân khác nữa đó là từ phía người đọc trong quá trình giao tiếp giữa tác
phẩm và người đọc, cũng như từ những đặc thù của hoạt động tiếp nhận văn học.
D.S.Likhashev- nhà nghiên cứu văn hóa người Nga trong “Văn hóa là một môi
trường thống nhất” cho rằng: “Điểm đầu tiên cần phải chú ý khi phục hồi mối liên hệ
giữa người sáng tạo và sáng tác của nghệ sĩ nhằm phục vụ đó là sự đồng sáng tạo của
người tiếp nhận, nếu không có yếu tố đó thì bản thân sự sáng tạo sẽ mất hết ý nghĩa”
[35,128].
Trong quá trình tiếp nhận ý nghĩa của các THTM, tác động của những yếu tố
thuộc về người tiếp nhận như: vốn sống, kinh nghiệm cá nhân, cá tính, nhu cầu thẩm mĩ,
trình độ thẩm mĩ, năng khiếu thẩm mĩ... có một vai trò quan trọng đặc biệt. Tác động chi
phối của các yếu tố vừa mang tính xã hội -lịch sử vừa mang tính cá nhân đã khiến cho
hoạt động tiếp nhận YNBT của những THTM diễn ra rất đa dạng. Sự cảm thụ, cắt nghĩa
ở những lớp người tiếp nhận khác nhau và ở những cá nhân tiếp nhận khác nhau tuy có
chỗ đồng dạng nhưng cũng có những khác biệt muôn màu muôn vẻ. Ví dụ:
Muốn ăn cá ảu, cá chù
Đem con mà gả mù mù tăm tăm.
Với hai câu ca dao trên, THTM “cá ảu”, “cá chù” đã khiến cho người tiếp nhận
hiểu theo những cách khác nhau. Có người cho rằng cá “ảu”, cá “chù” là tên của hai
loài cá. Để phù hợp với ý nghĩa “mù mù, tăm tăm” của biển cả thì họ hiểu rằng cá “ảu,
chù”là loại cá trong tưởng tượng. Tuy nhiên, có cách hiểu “cá ảu, cá chù ” trong hệ qui
chiếu khác, trong văn hóa tâm linh của những người làm nghề biển thì THTM “cá ảu ,
cá chù” chính là để chỉ hai loại cá nổi tiếng ngon và linh thiêng đó là “cá thu, cá ngừ”.
Những người theo nghề biển cho rằng hai loại cá này rất thiêng, nếu gọi đúng tên của nó
trước khi đi đánh bắt sẽ không thu được những khoang cá đầy. Chính vì thế, họ đã nói
chệch đi để tránh phạm húy. Người tiếp nhận nếu không hiểu phong tục này thì có lẽ sẽ
rất khó tiếp cận đúng YNBT mà THTM mang lại.
163
Người tiếp nhận YNTM của các THTM còn là một chủ thể tích cực, năng động và sáng
tạo. Vai trò tích cực và sáng tạo của người tiếp nhận tham gia tích cực vào quá trình tái
tạo hình tượng, đem lại “sự sống nóng hổi” cho những YNTM. Có thể thấy nhờ có sự
tiếp cận năng động, tích cực của người tiếp nhận mà giới hạn ý nghĩa của các bài ca dao
càng được mở rộng khiến cho chúng thường xuyên “để lộ ra” những lớp ý nghĩa mới thú
vị, thậm chí đầy bất ngờ. Như vậy có thể nói, đứng trên quan điểm tiếp nhận, tính nhiều
YNBT của những THTM được biểu hiện như một tất yếu và là đặc trưng của hoạt động
tiếp nhận tác phẩm văn học- tác phẩm ca dao.
4.2 Ca dao là phương tiện phản ánh văn hóa
Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi dân tộc,
mỗi vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và phong phú. Ca dao,
tiếng nói tâm tình của người Việt, cũng là nơi bộc lộ tâm lý, tập quán, quan niệm sống,
văn hóa của dân tộc. Như vậy, ngay từ tên gọi, ca dao đã là một chứng tích của văn hoá:
đây là một thông điệp ngôn từ dân gian, phản ánh cuộc sống con người một cách tự
nhiên nhất, hồn nhiên nhất.
Qua những YTTM của các THTM nêu trên, chúng ta thấy rằng các trường nghĩa
liên tưởng phần lớn được bắt nguồn từ các phạm trù thuộc cái biểu đạt. Thế nhưng, các
hiện tượng tự nhiên và môi trường tự nhiên, các vật thể nhân tạo và chính con người ở
mỗi dân tộc, mỗi địa phương lại có những điểm khác biệt nên hệ thống biểu tượng nghệ
thuật trong thơ ca trữ tình dân gian ở từng vùng, miền, từng khu vực cư trú cũng có
những đặc trưng riêng. Bên cạnh đó còn có những sự chi phối của các quan niệm thẩm
mĩ, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... ở từng cộng đồng khác nhau trong quá trình hình
thành THTM.
Ở thể loại ca dao, văn hóa vùng miền nổi lên rất rõ. Bên cạnh hệ thống những
THTM chung mà nhân dân ở địa phương nào cũng sử dụng, mỗi miền đất còn có những
THTM riêng của mình. Dĩ nhiên cái riêng- tính địa phương ở đây cũng cần được hiểu
một cách tương đối, bởi ca dao là những sáng tác của dân gian, thuộc về dân gian, sự di
chuyển tác phẩm từ địa phương này qua địa phương khác đã trở thành một quy luật tất
yếu. Chính vì vậy, ca dao giữa các vùng miền vẫn có sự giao thoa nhất định trong hệ
thống THTM. Theo nhận xét của Bùi Mạnh Nhị “Ở Bắc Bộ, những hình ảnh làm nên bộ
mặt tiêu biểu của nông thôn cổ truyền - cây đa, bến nước, sân đình, nhịp cầu, lũy
tre...rất hay được nhắc tới trong các bài ca dao. Câu hát Trung Bộ trùng điệp hình ảnh
của núi, rừng. Trong ca dao - dân ca Nam Bộ, hình ảnh ghe, xuồng, kinh rạch xuất
hiện với tần số cao...”[8, 36]
164
4.2.1 Hệ thống cái biểu đạt và cái được biểu đạt của tín hiệu thẩm mĩ trong
ca dao Nam Trung Bộ
Theo quan niệm phổ biến của các nhà ngôn ngữ học tri nhận: “Bức tranh ngôn
ngữ về thế giới được hình thành trong nhận thức của một cộng đồng ngôn ngữ là tổng
thể hình ảnh về thế giới được phản ánh trong ngôn ngữ, là phương tiện tiếp nhận và cấu
trúc hóa thế giới là sự ý niệm hóa thực tế” [14,117].Theo cách hiểu như vậy, cbđ và
cđbđ trong ca dao chính là những hình ảnh về thực tế được thể hiện trong các THNN và
nghĩa của chúng - sự phân cắt thế giới bằng ngôn ngữ, sự sắp đặt, các sự vật, hiện tượng
ngôn ngữ và là thông tin về thế giới ẩn chứa trong hệ thống nghĩa của từ.
Với quan niệm “bức tranh ngôn ngữ” về thế giới theo cái nhìn riêng đặc thù cho
cộng đồng ngôn ngữ, khi tiếp cận những câu ca dao cũng có nghĩa chúng ta tiếp cận các
yếu tố như cbđ, cđbđ trong mối quan hệ với đặc trưng văn hóa - tư duy cộng đồng.
Chính đặc điểm này giúp chúng ta nhận rõ sự khác biệt - đặc trưng của ca dao vùng
miền này với những vùng miền khác.
Theo Đỗ Việt Hùng trong “Ngữ nghĩa học - Từ bình diện hệ thống đến hoạt
động” thì “một trong những bình diện quan trọng để tìm hiểu đặc trưng văn hóa- tư duy
cộng đồng từ ngôn ngữ là bình diện từ vựng. Cụ thể, xem xét cách nhìn của cộng đồng
từ các góc độ:
- Sự chia cắt thế giới của cộng đồng thể hiện qua vốn từ của ngôn ngữ;
- Quan niệm của cộng đồng về sự vật, hiện tượng thông qua các phương thức
định danh của ngôn ngữ;
- Quan niệm của cộng đồng về sự vật, hiện tượng thông qua ý nghĩa của từ;
- Quan niệm của cộng đồng thông qua hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng;
- Quan niệm của cộng đồng thông qua các ngữ cố định;
- Quan niệm của cộng đồng thông qua hiện tượng biểu trưng hóa của từ ngữ”
[55,118].
Dựa vào những quan niệm như trên, chúng tôi sẽ nêu những đặc trưng của các
THTM trong ca dao Nam Trung Bộ, có sự so sánh với ca dao vùng miền khác.
Trong số 20 THTM chúng tôi đã chọn phân tích có những THTM truyền thống
trong ca dao Việt Nam. Mặc dù ca dao Nam Trung Bộ sử dụng những THTM truyền
thống nhưng khi tiếp nhận những câu ca dao này, chúng ta vẫn nhận thấy được đặc trưng
riêng mang dấu ấn vùng miền ở những THNN đẳng cấu cùng với THTM trung tâm. Ví
dụ:Trồng cây cũng muốn cây xanh/Kết duyên với bậu muốn thành phu thê; Trồng tre
chớ để bẻ măng/Để cho măng lớn kết bè đưa dâu/Đưa dâu bằng sõng bằng ghe/Đừng