Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.46 KB, 81 trang )
Trường ĐHSP Hà Nội 2
7
Khóa luận tốt nghiệp
Tổng Phục Lễ là tiêu biểu cho vùng đất ven biển huyện Thủy Nguyên,
nơi đã hình thành “tục bịt mặt” của phụ nữ, một trong những tục lệ cổ hiếm
hoi và nó còn biểu hiện trong nội dung lời ca. Đó chính là cơ sở là nền tảng
quan trọng để khẳng định yếu tố độc đáo, đặc sắc của loại hình dân ca cổ còn
được bảo lưu và phát huy trên vùng đất tổng Phục, huyện Thủy Nguyên,
thành phố Hải Phòng. Mặc dù, hát Đúm có cả ở năm xã Phục Lễ, Phả Lễ, Lập
Lễ, Du Lễ và Tam Hưng nhưng điểm hát Đúm hàng năm được chọn ở chùa
Phục Lễ. Vì vậy Phục Lễ trở thành trung tâm hát Đúm của cả vùng và mang
màu sắc riêng của vùng tổng Phục Hải Phòng xưa.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình huyện Thủy Nguyên rất đa dạng: Suốt từ phía bắc đến phía
đông huyện có núi xen kẽ với đồng ruộng. Sông Lạch chia làm hai lớp, lớp
ngoài là núi đá vôi từ Trại Sơn, Doãn Lại đến Minh Tân, Minh Đức. Lớp
trong là núi đất, từ An Sơn - Phù Ninh qua Kỳ Sơn, Chính Mỹ, Kênh Giang
đến Hòa Bình, Thủy Đường, Trung Hà, Ngũ Lão. Nổi lên cao nhất là đỉnh
Sơn Đào nằm ở trung tâm huyện. Phía đông nam kéo dài từ Hợp Thành, Cao
Nhân qua Trịnh Xá, Kiền Bái, Hoàng Hoa, Lâm Động, Tân Dương kéo dài
đến Tam Hưng, Lập Lễ. Địa thế ở đây bằng phẳng, đất đai màu mỡ, thuận lợi
trồng cây lương thực, rau màu, cây ăn quả. Dọc theo triền sông Cấm, sông
Bạch Đằng có nhiều rừng Sú, rừng Chang rậm và những bãi bồi, hàng năm
tiếp nhận lượng phù sa đáng kể do hệ thống sông bồi đắp.
Về cơ bản, địa hình huyện Thủy Nguyên được chia làm 4 dạng:
Thứ nhất là dạng đồi núi ở phía Bắc huyện là địa hình núi đá vôi chạy từ
An Sơn qua các xã Lại Xuân, Liên Khê, Lưu Kiếm, Minh Tân, Gia Minh, Gia
Đức. Xen kẽ giữa địa hình núi đá vôi là vùng đồi núi thấp. Đây là dạng địa hình
bán bình nguyên cổ với các đồi tròn bị bào mòn chạy từ An Sơn, Phù Ninh,
Quảng Thanh, Chính Mỹ, Kênh Giang đến Lưu Kiếm, Minh Tân, Ngũ Lão.
Thứ hai là dạng địa hình đồng bằng trung tâm huyện gồm các xã Kiền
Bái, Mỹ Đồng, Thủy Sơn, Thủy Đường… với phù sa cổ, đất bị bạc màu, đất
có pha cát.
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
8
Khóa luận tốt nghiệp
Thứ ba là dạng địa hình ven sông là các xã Hoàng Hoa, Lâm Động, Tân
Dương, Phục Lễ, Phả Lễ, An Lư, Thủy Đường, vùng đồng bằng mới được bồi
tụ, thường ngập nước, đất ở đây còn bị chua mặn.
Thứ tư là địa hình đặc trưng dải ven biển là các cửa sông ven biển. Ở
đây, hình thành các bãi lầy được cấu tạo bằng một lớp phù sa bùn nhão, trên
mặt có màu phớt hồng. Đây là môi trường phát triển thực vật ngập mặn như
sú, vẹt, thuận lợi cho các loài tôm cá vào đẻ trứng và sinh sôi.
Khí hậu: Thủy Nguyên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Trong đó, từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau là khí hậu có một mùa
đông lạnh và khô, từ tháng 5 đến tháng 10 là khí hậu mùa hè, nồm mát và
mưa nhiều.
Sông ngòi: Sông Bạch Đằng chảy theo hướng Đông Bắc đến thôn Phi
Liệt thì chia dòng về hướng Tây Nam là sông Giá, dòng chính theo hướng cũ,
lòng sông mở rộng dần đến Gia Đức thì đổi hướng Đông Nam, gặp sông Giá
tại núi U Bò, xã Minh Đức. Từ đây, lòng sông càng mở rộng, nằm án ngữ phía
Đông Nam huyện. Một nhánh là sông Chanh, chảy tiếp đến xã Lập Lễ, gặp
sông Ruột Lợn từ sông Cấm chảy ra, cùng hòa đổ ra cửa Nam Triệu. Sông
Hàn ở phía Đông Bắc, phía bên trái là các xã An Sơn, Lại Xuân. Sông Cấm là
đoạn cuối cùng của sông Kinh Môn, là một nhánh của sông Thái Bình bao lấy
huyện ở phía nam và Đông Nam… Ngoài hệ thống sông ngòi, huyện Thủy
Nguyên còn có diện tích hồ, đầm khá lớn như hồ Đà Nẵng, đầm Tám Xã.
Thủy Nguyên có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú: 51 dãy núi đá
vôi có thể khai thác làm nhiều mặt hàng quý, 48 dãy núi đất có thể khai phá
trồng cây lấy gỗ, cây ăn quả, nguyên liệu công nghiệp và hàng xuất khẩu.
Thủy Nguyên có khả năng nông nghiệp lớn, có tiềm năng nuôi thả, đánh bắt
tôm cá lớn.
Với đặc điểm vị trí địa lý, địa hình và nguồn tài nguyên thiên nhiên như
vậy, Thủy Nguyên có đầy đủ điều kiện thuận lợi để phát triển về kinh tế - xã
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
9
Khóa luận tốt nghiệp
hội, đặc biệt là có điều kiện quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần của người
dân. Thủy Nguyên là nơi sớm tiếp nhận và phát triển Phật giáo. Từ đời nhà Trần,
Thủy Nguyên cùng với vùng Yên Tử đã là một trung tâm Phật giáo lớn của nước
ta. Ở đây có các công trình được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, các
di tích nổi tiếng của huyện phải kể đến đình Kiền Bái, đền thờ Trần Quốc Bảo,
chùa Kiến Linh…Phục Lễ là quê hương của nghệ thuật hát Đúm và môn thể
thao bơi lội. Đây là làn điệu hát cổ xưa và môn thể thao đầy tinh thần thượng võ
mà ngày nay vẫn được nhân dân Phục Lễ duy trì và phát triển.
1.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Phục Lễ là vùng đất giáp biển, đồng ruộng luôn bị ngập mặn, ngập úng,
khí hậu ở Phục Lễ rất khắc nghiệt, thường có bão biển đe dọa, con người luôn
phải đối mặt với gió biển, với ánh nắng gay gắt vào mùa hè, mùa đông thì gió
lạnh buốt da. Ngày nay, người dân nơi đây đã khắc phục khó khăn, đắp đê và
trồng rừng ngập mặn biến miền đất hoang vu, với các bãi sú vẹt, đầm lầy
thành những cánh đồng màu mỡ, xanh tươi. Trong quá trình tạo dựng và phát
triển vùng đất, người dân Phục Lễ đã vừa đi biển đánh bắt cá, vừa mở mang
đất đai, quai đê, lấn biển, phát triển nghề nông. Sự đan xen giữa nghề biển và
nghề nông đã tạo nên một sắc diện văn hóa riêng cho Phục Lễ và tổng Phục
Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng.
Cùng với sự hình thành và phát triển của vùng đất Phục Lễ thì huyện
Thủy Nguyên xưa kia là vùng đất bồi, khí hậu khắc nghiệt, cư dân ở nhiều nơi
khác đến đây lập đất định cư và khai khẩn cải tạo thành đồng ruộng. Họ vốn
là dân từ nhiều nơi thuộc Hải Phòng, hay nhiều tỉnh khác đến nhập cư, họ đã
đem đến nhiều nghề khác nhau.
Với vị thế địa lý, tài nguyên thiên nhiên phong phú kết hợp với truyền
thống oanh liệt cùng trí thông minh, cần cù, dũng cảm của người dân Phục Lễ
đã tạo cho nơi đây nhiều tiềm năng phát triển kinh tế như tiềm năng nông
nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và du lịch.
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
10
Khóa luận tốt nghiệp
Về nông nghiệp: Ở Phục Lễ đã phát triển ngành nông nghiệp với các cây
trồng chính như trồng lúa, trồng bông, nuôi tằm dệt vải. Ở đây có những cánh
đồng chuyên trồng bông gọi là Đồng Bông.
Về công nghiệp: Phục Lễ là xã ven biển để phục vụ cho việc đi biển của
người dân trong vùng nên nơi đây rất phát triển công nghiệp đóng tàu, phát
triển sản xuất xi măng.
Về ngư nghiệp: Phát triển hình thức kinh tế mới như có các đầm nuôi hải
sản như tôm, cua, cá…bên bờ cửa biển Nam Triệu, kết hợp với làm vườn
trồng các cây ăn quả.
Về du lịch: Là vùng đất hình thành từ lâu nên nơi đây đã sớm hình thành
những tín ngưỡng, phong tục, tập quán. Các lễ hội đã thu hút được rất nhiều
khách du lịch đặc biệt là “Hội mở mặt” - “Hội hát Đúm” vào mỗi dịp xuân
về. Đây vừa là hoạt động văn hóa của xã vừa là của huyện Thủy Nguyên.
Phục Lễ có hệ thống giao thông đường biển rất thuận lợi, một bên là
trung tâm thành phố, bên kia là các xã trong vùng. Vì thế rất thuận lợi cho
phát triển thương mại và lưu thông hàng hóa. Hiện nay thành phố Hải Phòng
có rất nhiều dự án phát triển kinh tế, du lịch văn hóa, đã tạo điều kiện cho sự
phát triển của xã Phục Lễ - Thủy Nguyên. Với sự phát triển kinh tế thì thành
phố cũng rất quan tâm đến đời sống tinh thần, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa,
các lễ hội được quan tâm tổ chức mang bản sắc riêng và đậm đà tính dân tộc.
1.2. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG
1.2.1. Di tích văn hóa
Hải Phòng là một trong những nơi phát triển văn hóa sớm của nước ta.
Vùng biển đặc biệt này đã để lại cho kho tàng văn hóa dân tộc những tài sản
vô cùng quý giá. Ngoài hát Đúm còn có nghệ thuật tạc tượng ở xã Đồng
Minh, múa rối nước Nhân Hòa (Vĩnh Bảo) và một số công trình văn nghệ
dân gian khác. Những di chỉ khảo cổ như di chỉ đồ đồng Việt Khê (Thủy
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
11
Khóa luận tốt nghiệp
Nguyên), chuông chùa Văn Bản (Đồ Sơn), di chỉ đồ đá, đồ đồng ở Núi Voi
(Kiến An) và đặc biệt công trình khảo sát khu di chỉ Tràng Kênh là những
đóng góp lớn cho ngành khảo cổ cả nước. Trong quá trình xây dựng nền văn
hóa mới của dân tộc, những công trình đó có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Trong cuốn “Hát Đúm Hải Phòng” của tác giả Đinh Tiếp có trích câu nói của
đồng chí Trường Chinh: “có khai thác được vốn cũ của hàng nghìn năm lao
động sáng tạo của nhân dân ta, chúng ta mới tạo nên được một nền văn
nghệ mới phong phú hơn nền văn nghệ của tất cả các thời đại từ trước đến
nay trong lịch sử dân tộc”.
Ra đời trên một vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời ấy, hát Đúm ở
xã Phục Lễ có được những ưu điểm như mọi dân ca khác, nó là sản phẩm của
tinh thần. Mặt khác, ra đời ở một mảnh đất “trên bến dưới thuyền”, một nơi
nhiều dòng văn hóa khác nhau, thường xuyên qua lại tranh chấp nên hát Đúm
ở Phục Lễ cũng rất phức tạp. Trên cơ sở tìm hiểu về nguồn gốc và quá trình
phát triển của nó, phân tích cặn kẽ về phương diện từ ngữ, âm thanh, nhạc
điệu cũng như đề tài, chủ đề tư tưởng của mỗi bài ca, đánh giá cho đúng giá
trị nội dung, nghệ thuật và những yếu tố pha tạp, hạn chế của nó, qua đó tìm
hiểu được những nét riêng biệt độc đáo của hát Đúm và phong cách con người
miền biển.
Là một vùng đất cổ có bề dày truyền thống văn hóa, xã Phục Lễ có một
quần thể di tích lịch sử, văn hóa phong phú và giữa chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Trung tâm của quần thể di tích này là đình Phục Lễ (nay
không còn nữa). Trong quá khứ, đình Phục Lễ tức là trung tâm sinh hoạt văn
hóa, tín ngưỡng không chỉ của dân làng Phục Lễ mà còn là của các làng xã
thuộc Tổng phục xưa. Các cụ cao niên kể lại rằng: “Trước kia, cứ vào mồng 2
tháng Chạp hàng năm, các xã Phục Lễ, Đoan Lễ, Phả Lễ, Do lễ, Do Nghi đều
tổ chức rước mã từ đình, miếu của làng mình về đình Phục Lễ, tổ chức lễ tế
Thành hoàng chung” [5, tr.48]. Sau đó, các xã tiến hành nghi lễ rước mã mới
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
12
Khóa luận tốt nghiệp
về miếu, đình làng mình thờ phụng năm sau mới hóa mã. Hiện nay, trên địa
bàn xã còn bảo tồn được một số di tích lịch sử văn hóa:
Thứ nhất là đình Phục Lễ
Xưa kia, Phục Lễ có một ngôi đình thờ Thành hoàng của làng. Tương
truyền, đình Phục Lễ thuộc loại nguy nga, đồ sộ nhất vùng chẳng kém gì đình
Tây (Minh Tây), đình Phong Cốc (Quảng Ninh). Đình Phục Lễ được dựng lại
với quy mô lớn vào năm 1892. Đình quay hướng Tây nhìn ra khu đầm Cầu,
bố cục hình chữ Công. Tòa đình ngoài cao rộng 5 gian. Khung đình là sự liên
kết tài tình của gỗ, chỉ có mộng, không cần đến sự tham gia của chút kim loại
nào. Những cột cái, cột quân được làm bằng cột gỗ lim nguyên cây đứng
thẳng trên từng hòn kê bằng đá tảng được gia công cẩn thận. Mái đình xòe
rộng và lan xuống thấp có tác dụng chống nắng chống mưa và bão gió miền
ven biển. Trước đình là khoảng sân rộng. Từ sân lên nền đình là hệ thống bậc
5 cấp được ghép bằng các phiến đá xanh phẳng phiu mở ra phía trước là hồ
bán nguyệt, quanh đình trồng cây cổ thụ. Đình làng Phục Lễ là nơi diễn ra các
hội lớn vào dịp tế Thành hoàng, trong tổng Phục Lễ, lễ vật dâng cúng thường
là mổ trâu, lợn, xôi, rượu, gà luộc, trầu cau, chuối và hoa quả. Ngoài ra, đình
làng còn là nơi hội họp của các nhà chức sắc vào dịp các thành viên cai đám,
khao làng lên lão hay nhận hương chức.
Thứ hai là miếu Phục Lễ
Theo quan niệm dân gian, miếu là nơi “Thánh ngự quanh năm”. Miếu
Phục Lễ nằm ở khu đầm Cầu, tọa lạc trên gò đất cao cây cối xanh tốt quanh
năm, cảnh quan thâm u, huyền bí. Khởi thủy miếu chỉ được làm bằng tranh
tre, nứa lá đơn sơ đến năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711), dân làng bỏ tiền của,
công sức xây dựng miếu thành một công trình kiến trúc nghệ thuật bề thế. Tòa
chính là kiến trúc năm bít đốc có hậu cung ở giữa tạo thành hình chữ đinh.
Hai phía tả hữu có dãy giải vũ, mỗi dãy ba gian. Miếu nhìn ra đầm Cầu, phía
trước có Hồ Rối hình bán nguyệt. Hồ Rối nay không còn nữa, đằng sau miếu
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
13
Khóa luận tốt nghiệp
có hồ đào hình bầu dục, phía Bắc có bến nước rộng rãi được xây nhiều bậc để
cho nhân dân lấy nước sinh hoạt.
Thứ ba là chùa Phục Lễ
Chùa Phục Lễ tên chữ là Kiến Linh tự, tài liệu văn bia và truyền ngôn
địa phương cho biết: Xưa kia, chùa Kiến Linh là một quần thể kiến trúc nghệ
thuật nguy nga với nhiều tòa ngang dãy dọc. Tương truyền, chùa Kiến Linh
được xây dựng lớn vào thời Trần. Một trong những chính sách kinh tế của nhà
Trần là phong cấp thái ấp cho vương hầu quý tộc và những người có công để
bảo vệ chính quyền. Ngày ấy, hai anh em Trần Hộ, Trần Độ đều có phủ riêng
ở Phục Lễ, Phả Lễ. Các ông đã mời các vị cao tăng thuộc dòng thiền Trúc
Lâm huy động phật tử trong vùng dựng chùa Kiến Linh. Chùa Kiến Linh là
cảnh Phật nổi tiếng trong vùng, trong một bài minh bia của chùa có ghi lại sự
kiện vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) về thăm Kiến Linh tự và có bài thơ ca ngợi cảnh
đẹp của chùa nằm giữa hồn linh thiêng, dựa vào Yên Tử sơn, trông lên đỉnh
Tường Long (tháp Tường Long ở Đồ Sơn) vời vợi. Chùa Kiến Linh là một
quần thể văn hóa tâm linh được xây dựng trong khuôn viên rộng 6 sào Bắc
Bộ. Theo bia kí hiện tồn thì chùa đã trải qua nhiều lần sửa chữa trùng tu. Chùa
hiện nay quy mô nhỏ, kiến trúc mới nhưng vẫn bảo lưu được nhiều tượng phật
pháp có giá trị lịch sử bia kí. Đặc biệt chùa Kiến Linh có bia tạo năm Thuần
Phúc 2 (1563), Bính Dần (1566) và đôi sấu đá thời nhà Mạc. Nội dung bia ca
ngợi đất Phục Lễ địa linh nhân kiệt, ghi lại việc nhân dân và sãi vãi trùng tu
cổ tự.
Thứ tư là đền Bạch Đằng hay còn gọi là miếu Bến Đò
Miếu Bến Đò thờ Mai Đình Nghiễm, một danh tướng thời Trần. Miếu
Bến Đò vốn là kiến trúc đơn sơ bằng tranh tre, nứa, lá, mặt quay ra phía Cái
Giá. Vào khoảng năm 1909 - 1910, miếu được xây dựng bằng gạch với ba
gian tiền đường và một gian chuôi vồ, nhìn ra sông Bạch Đằng. Sau miếu có
lăng mộ xây hình long đình, xung quanh lăng có tường bao, phía trước đắp
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
14
Khóa luận tốt nghiệp
ngựa bạch phủ phục. Sau hòa bình lập lại miếu không có người trông coi, bị
hư hỏng, xuống cấp, nhân dân địa phương đưa sinh phần và lăng Mai Đình
Nghiễm về khu miếu thờ Thành hoàng. Đến năm 1989 - 1990 các cụ trong xã
tiến hành phục dựng lại miếu Bến Đò tại khu nền xưa. Tương truyền Mai
Đình Nghiễm là một trong những vị tướng chỉ huy nhân dân vùng Phục - Phả
vào rừng ven sông Chanh đẵn gỗ, đẽo cọc để chuẩn bị cho cuộc phục kích
trên sông Bạch Đằng ngày 9 tháng 4 năm 1288.
Thứ năm là Miếu Ngói (còn gọi là miếu Ba Xã)
Miếu Ngòi thờ danh tướng triều Mạc (1527 - 1592) Phạm Tử Nghi. Miếu
do nhân dân ba xã Phục Lễ, Phả Lễ và Lập Lễ xây dựng. Miếu bố trí theo
hình chữ Công quen thuộc gồm ba gian tiền đường và một gian hậu cung.
Miếu tọa lạc trên một gò đất cao ven đầm Ba Xã, mặt quay hướng đông nam.
Cổng miếu mở ra hướng tây nam. Trước miếu là khoảng sân rộng, nơi tổ chức
tế lễ hàng năm. Sau hòa bình lập lại, miếu hư hỏng nặng nên bị dỡ bỏ, bài vị
Phạm Tử Nghi chuyển về miếu Phục Lễ phối thờ. Địa phương còn giữ được 4
đạo sắc phong thời Đồng Khánh (1887), Thành Thái (1889), Duy Tân (1906),
Khải Định (1909).
Thứ sáu là Từ Vũ (tức từ Đồng Chùa)
Từ Vũ được xây dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711) tại Đồng Chùa
nay là trường trung học cơ sở Phục Lễ. Từ Vũ quay hướng tây nam cùng với
hướng chùa, khuôn viên rộng 2 sào Bắc bộ, xung quanh xây tường bao và có
cổng tam quan thanh thoát. Từ Vũ là một kiến trúc ba gian thoáng đãng, bốn
mặt có hệ thống cột đá vuông. Hai vì trung tâm được làm hoàn toàn bằng gỗ
lim, kết cấu theo kiểu thuận chồng ba con, chạm khắc tinh xảo. Giữa sân từ
dựng đài thờ hình Tam Sơ, hai bên có hệ thống bằng đá chạm khắc hoa văn. Từ
Vũ là nơi tôn thờ những bậc tiên hiền có nhiều công lao xây dựng làng, nước.
Thứ bảy là từ Hàng Tổng (Văn Chỉ)
Từ Chỉ (Văn Chỉ) được xây dựng tại thôn Nam rộng hơn sào Bắc bộ, xung
quanh xây dựng tường bao và có tam quan bề thế. Hình thức trang trí bên ngoài
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
15
Khóa luận tốt nghiệp
tương tự như Từ Vũ nhưng cầu kì hơn. Từ Chỉ là nơi đặt nhà bia với hàng chục
tấm bia đá lớn nhỏ, khắc ghi những sự kiện lớn đã xảy ra tại làng và hàng tổng.
Những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp Từ Chỉ đã bị phá hủy, bia
đá bị thất lạc gần hết, số còn lại được chuyển về chùa làng.
Đây là những di tích lịch sử văn hóa có mối quan hệ mật thiết với sinh
hoạt văn hóa cổ truyền của người Phục Lễ nói riêng và các địa phương thuộc
Tổng Phục xưa nói chung. Phục Lễ là một trong ít miền quê có được những giá
trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Do tình yêu quê hương đất
nước, yêu đời và trên cơ sở kinh tế xã hội, từ xa xưa người Phục Lễ xây dựng
các công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, sáng tạo ra một lễ hội mùa xuân
mang đậm tính văn hóa và trong lễ hội đã xuất hiện một làn điệu dân ca đặc sắc
đó là hát Đúm. Điều đó thể hiện tính cộng đồng rất cao của các thế hệ người
Phục Lễ. Những giá trị văn hóa ấy đã in sâu vào máu thịt mỗi người, hình
thành nên nếp sinh hoạt học tập và nhận thức đúng giá trị văn hóa quê hương.
1.2.2. Các sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Thứ nhất là lễ tế Thành Hoàng
Hội Miếu Phục Lễ được tổ chức từ mồng 1 đến ngày mồng 6 tháng Chạp
âm lịch hàng năm. Theo cổ lệ, ngày mồng 1 tháng Chạp các giáp tổ chức giã
bánh dày tế thánh. Bánh dày được làm thành hai loại, loại nhỏ để dành chia
cho các suất đinh của giáp, mỗi suất một chiếc và loại bánh to làm lễ vật tế
Thành hoàng.
Lễ rước mã được tổ chức vào ngày mồng 2 tháng Chạp và thi cỗ bánh
dày tổ chức vào ngày mồng 5 tháng Chạp mang nét đặc trưng của văn hóa
vùng tổng Phục. Không khí chuẩn bị náo nức và vui như ngày Tết nguyên
đán. Sau khi làm lễ tại đình xong, các xã tổ chức rước mã về đình Phục Lễ tế
Thành hoàng chung, sau đó hóa mã cũ và tiến hành nghi lễ rước mã mới từ
đình Phục Lễ về miếu Thành hoàng của các làng. Mã mới được thờ một năm
mới hóa. Sáng mồng ba tháng Chạp, nhân dân các giáp tề tựu đông đủ về
miếu Phục Lễ tổ chức tế Thành hoàng làng. Ngày mồng 5 tháng Chạp, các
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
16
Khóa luận tốt nghiệp
giáp rước bánh dày về miếu Phục Lễ cúng tiến Thành hoàng. Dâng lễ cúng
thánh xong là đến lễ chấm giải làm bánh dày. Ban giám khảo do các vị bô lão,
chức sắc, chức dịch trong làng cử ra. Cỗ bánh của giáp nào đạt giải nhất, làng
thưởng cho mời đoàn chèo, rối nước về phục vụ tại nhà trưởng giáp, có năm
được tổ chức biểu diễn tại hồ Rối của làng. Ngày mồng 7 tháng Chạp ba xã
Phục Lễ - Phả Lễ - Lập Lễ dâng lễ tế ở miếu ba xã. Ngoài ra, Phục Lễ còn có
lễ tế hạ điền vào tháng 6 âm lịch hàng năm.
Thứ hai là hội làng
Hội làng còn gọi là hội xuân Phục Lễ được tổ chức từ mồng 4 đến mồng
10 tháng Giêng âm lịch hàng năm, tại khu vực chùa Kiến Linh. Việc tổ chức
hội xưa chủ yếu là của quan viên trong làng, trong giáp và các cai giáp, với
vai trò quan trọng của cai giáp theo lệ luân phiên. Ngày nay xã bầu ra Ban tổ
chức và Ban khánh tiết gồm đại biểu các ngành, đoàn thể quản lý, điều hành
lễ hội.
Hiện nay, sinh hoạt lễ hội không còn có sự phân biệt ngôi thứ. Tất cả mọi
người từ già trẻ, trai gái, giàu nghèo, dù quê ở Phục Lễ hay ở nơi khác đến
nhập cư đều có quyền tham gia lễ hội. Đặc biệt còn có những đoàn khách từ
nhiều nơi xa và các địa phương lân cận về dự hội, dâng lễ vật lên thần, phật.
Vào ngày hội khắp xóm thôn ồn ào nhộn nhịp từ sáng đến tối. Trong
chùa khói hương nghi ngút, ngoài sân cờ tàn phấp phới, dưới hồ múa rối, trên
bờ thì thi đấu vật, giải cờ người, đu tiên, tổ tôm, hát đúm. Quanh năm vất vả
với công việc đồng áng, chài lưới, nhân ngày hội mở, ai nấy trong vùng đều
nghỉ việc đi dự hội. Trong những ngày này, du khách từ khắp nẻo đường tấp
nập đổ về, áo quần đua sắc, ai nấy đều hồ hởi, vui tươi. Xóm thôn, cảnh vật ở
đây vốn yên tĩnh bỗng trở nên náo nhiệt, nhất là vào ngày cuối. Người vào
chùa, người xem đấu cờ, tổ tôm điếm, đánh đu, đấu vật, người dự hát Đúm,
chen chúc, ngược xuôi. Môn tổ tôm điếm thu hút những nam giới trung và
cao tuổi tham dự, ban tổ chức phải lo chuẩn bị 6 điếm. Mỗi điếm một trống
con để người chơi sử dụng báo hiệu ăn hoặc không ăn bài, bố trí người chia
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa