Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.46 KB, 81 trang )
Trường ĐHSP Hà Nội 2
25
Khóa luận tốt nghiệp
Là loại hình dân ca giao duyên, hát Đúm - một sinh hoạt văn hóa nghệ
thuật dân gian được biểu hiện ở những góc độ khác nhau. Lúc nó đứng độc
lập, hát lẻ, hát tự phát trên cánh đồng, lúc bên bến sông trong khi lao động, có
lúc nó được tổ chức thành đội hình theo nhu cầu của cuộc chơi mà ta gọi là
“hát Hội”; “hát Hàng”…
2.2. LÀN ĐIỆU HÁT ĐÚM Ở XÃ PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của hát Đúm ở xã Phục Lễ - Thủy
Nguyên - Hải Phòng
Hải Phòng khác với nhiều vùng biển khác, đây là vùng đất lâu đời và
phát triển từ rất sớm. Chính vì là vùng đất phát triển từ rất sớm nên nơi đây
cũng đã hình thành và phát triển nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, đặc biệt
phải kể đến hát Đúm. Hát Đúm cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian
khác phát triển không đồng đều ở những vùng khác nhau. Những vùng đất
được hình thành sớm thì có đời sống văn hóa tinh thần phong phú và đặc sắc
hơn. Hát Đúm ra đời từ cuộc sống sản xuất chiến đấu và sáng tạo của nhân
dân lao động. Nhưng ở những vùng khác nhau, nó lại có nguồn gốc ra đời và
quá trình phát triển khác nhau. Có nơi hoàn chỉnh, phong phú về đề tài, nội
dung, đa dạng về mặt tiết tấu nhưng lại nghèo về làn điệu. Có nơi phong phú
về làn điệu nhưng lại đơn điệu và nghèo về lời ca. Có nơi lại nghèo cả làn
điệu lẫn lời ca.
Nơi tập trung và tiêu biểu hơn cả của hát Đúm Hải Phòng là huyện Thủy
Nguyên. So với các vùng khác thì vùng này đất đai và con người phát triển sớm
hơn. Tuyệt đại đa số dân chuyên làm nghề nông, chỉ có một số xã như Phả Lễ,
Lập Lễ, Phục Lễ có nghề đánh cá biển, ở đây hát Đúm được sản sinh và tập
trung chủ yếu ở vùng nông nghiệp. Đặc biệt hội làng mùa xuân ở xã Phục Lễ Thủy Nguyên là nơi phát triển cao nhất của hát Đúm, chẳng những giàu về số
lượng bài ca mà đề tài, nội dung tư tưởng cũng rất phong phú, đa dạng.
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
26
Khóa luận tốt nghiệp
Ở vùng này trừ một vài xã có nghề làm muối và đánh cá, tuyệt đại đa số
dân sống bằng nghề nông, họ là những người nông dân chăm chỉ làm ăn, có
kinh nghiệm hơn nhiều vùng khác. Vì đây là vùng đất chua mặn, cày cấy thì
“chiêm khê, mùa thối” lại không có những đặc sản quý để tăng thu nhập như
các vùng đồng màu khác. Dưới chế độ phong kiến đời sống người nông dân ở
đây rất cơ cực. Về kinh tế gần như họ tự cấp tự túc hoàn toàn. Con gái ở đây
đều biết dệt vải, đây là nghề nhẹ nhàng, có những động tác mềm mại uyển
chuyển. Tiếng xa quay xè xè, tiếng ống suốt ro ro, tiếng thoi đưa đều đều lách
cách tạo nên một âm hưởng gợi cảm. Từ đó mà những cô thợ dệt, những bà
mẹ quay xa bật lên tiếng hát. Tiếng hát ban đầu có thể chỉ là những bài hát ru
quen thuộc, những câu ca do truyền miệng của mỗi người tự cất lên, tự mình
hát tự mình nghe để gây hưng phấn tinh thần và làm cho không khí làm việc
vui hơn, năng suất lao động tốt hơn. Nhưng rồi đến những ngày đông vụ
những cô gái thợ dệt lại thành thợ cấy, thợ gặt thì những tiếng hát quen thuộc
ấy lại véo von trên đồng, lúc đó tiếng hát không để một mình nghe mà để
nhiều người nghe. Một đám gặt, đám cấy có người hát thì đám khác cũng bị
thôi thúc, bị cuốn theo.
Tiếng hát trữ tình trong trẻo cất lên từ những giọng rất ấm, rất thanh của
các cô thiếu nữ đã có sức lay động tận chiều sâu tâm hồn mỗi người, đặc biệt
là các chàng thanh niên mới lớn. Họ cũng muốn hát, muốn đối đáp, muốn thổ
lộ tâm tình, vì vậy khi ra về họ cũng tìm cách học câu hát, học cách hát, họ có
sách vở có thầy đồ, là những người biết chữ, yêu thích văn thơ trong làng,
chẳng bao lâu sau họ đã đối đáp lại được chị em, và họ trở thành những người
thầy dạy thêm chị em câu hát. Tiếng hát của chị em lúc này không còn là
tiếng hát đơn lẻ nữa, mà đã có sự hưởng ứng, sự đối đáp của các chàng trai.
Những buổi hát ví von, đối đáp nhau như vậy dần dần được gọi là “hát ví”.
Hát ví phát triển theo hình thức đó cho đến khi chùa Phục Lễ được xây dựng
(cách đây 200 năm), vào ngày hội những cuộc hát ấy mới được gọi là “hát
Đúm”. Hát Đúm ở đây đầu tiên chỉ có hát chào, hát mừng, hát hỏi, hát đố, hát
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
27
Khóa luận tốt nghiệp
họa, hát huê tình và hát ra về. Sau này vào thời kì chiến tranh phong kiến liên
miên, nhất là khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, bắt nhiều thanh niên đi lính
sang Pháp chết thay cho chúng, lúc đó hát lính và hát thư mới ra đời. Phần lớn
loại hát này ra đời do những người biết chữ vận sách sáng tác, hoặc là những
người lính gửi về nói lên tâm sự của mình, nhiều người truyền tay đọc và dần
dần phổ biến thành bài hát lính.
Từ khi có hội chùa làng hàng năm vào đầu mùa xuân từ ngày 4 đến ngày
10 tháng giêng âm lịch thì hát Đúm ở đây chỉ hát ở hội. Có những trường hợp
hát trong lúc gặt lúc cấy nhưng chỉ có nữ hát để vui say trong lúc lao động.
Từ đời này qua đời khác, hát Đúm cùng với hội chùa làng đã là một nhu
cầu không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ của nhân dân vùng này.
Hát Đúm bắt nguồn từ cuộc sống lao động của nhân dân và buổi đầu tiên là
những tiếng tự hát tự nghe để gây hứng khởi của người phụ nữ. Sau có sự
tham gia của nam giới nó phát triển thành đối đáp và trở thành hát Đúm ngày
nay. Nó là sản phẩm tinh thần quý báu của nhân dân lao động, mà tiêu biểu là
người dân huyện Thủy Nguyên - Hải Phòng.
2.2.2. Phân loại hát Đúm
Qua điền dã thực tế và theo các cụ già ở Phục Lễ thì hát Đúm Phục Lễ
có 3 loại: Hát Đúm lẻ, hát Đúm hội và hát Đúm hàng với những biểu hiện
khác nhau.
Hát Đúm lẻ là hình thức hát ở mọi môi trường, mọi thời điểm khác nhau.
Hát trên cánh đồng, trên bến sông, trên biển, gái trai gặp nhau cùng hát tạo
cho không khí lao động thêm vui, họ trao đổi tình cảm với nhau qua câu hát
tự nhiên. Hát Đúm lẻ hoàn toàn mang tính tự do, tự phát và tùy thuộc vào cảm
hứng của người diễn xướng.
Hát Đúm hội là hình thức hát chính thức trong hội chùa làng nhân ngày
đầu xuân với mục đích cầu mưa thuận gió hòa, mong cho cuộc sống ấm no,
hạnh phúc.
Hát Đúm hội là hình thức hát đối đáp nam nữ có sự tham gia, trợ giúp
của tập thể công chúng. Nghệ thuật hát Đúm hội còn biểu hiện rõ sự thi thố tài
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
28
Khóa luận tốt nghiệp
năng giữa bên nam với bên nữ. Hát Đúm hội khuyến khích sáng tạo nghệ
thuật cho cả cộng đồng thông qua hai đại diện là giới nam và giới nữ.
Như vậy, hát Đúm lúc đầu chỉ là những bài hát đơn lẻ, tự phát, sau đó
được đưa vào hát trong hội chùa nên đã có tên hát Đúm hội.
Hát Đúm hàng là hình thức hát vòng ngoài của hội chùa làng có đặc
điểm khác với hát Đúm hội. Hát Đúm hàng mang tính trình diễn nghệ thuật
hơn là tính thi thố tài năng nghệ thuật. Xưa kia, khi có hội những người giàu
có trong làng và khách thập phương vì say mê tiếng hát, họ đến ngồi ở các
hàng quán nhỏ trước sân chùa hoặc hai bên sân chùa sẽ có các cô gái, chàng
trai ra hát đối đáp, cầu vui. Nếu hát hay họ sẽ thưởng tiền hoặc khao ăn uống.
Theo tác giả Đinh Tiếp trong cuốn “Hát Đúm Hải Phòng” thì hát Đúm hàng ra
đời đáp ứng nhu cầu thưởng thức và là thú vui tiêu khiển cho tầng lớp phong
kiến, nhất là từ thời Pháp thuộc, hát Đúm Hàng phát triển mạnh, nội dung của
nó có tính hạn chế, không phong phú như hát Hội. Nhưng hát Hàng chỉ khác
hát Hội ở chỗ nó phục vụ riêng cho một số người nào đó, nó mang tính trình
diễn hơn là tính thi thố. Tuy hát Đúm Hàng bị bó hẹp về nội dung đề tài
nhưng lại phát triển về nghệ thuật ca hát vì nếu ai hát hay, hát giỏi thì người
đó mới được phép mời hát. Hát Đúm Hàng không mang tính phục vụ số đông
cộng đồng nhưng lại là cơ sở tốt khuyến khích cho sự phát triển, sáng tạo
nghệ thuật cá nhân (người diễn xướng phục vụ theo nhu cầu khán giả)
2.2.3. Nội dung làn điệu hát Đúm ở xã Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng
2.2.3.1. Hình thức hát Đúm
Hát Đúm là tục hát đối đáp giữa một bên nam và một bên nữ. Nét đặc
sắc của hát Đúm là lối ứng khẩu tại chỗ, tuỳ hứng từ những hoàn cảnh cụ thể
nên đòi hỏi người hát phải thông minh nhanh trí. Giai điệu của hát Đúm rất
đơn giản chỉ gồm ba nốt nhạc, cứ theo một giai điệu quay đi quay lại, chỉ khác
nhau ở phần lời. Tuỳ theo giọng của người hát mà ba âm này có thể dịch lên
hoặc xuống cho phù hợp với cách bắt giọng vào câu hát. Do làn điệu chỉ tiến
hành trên ba âm như vậy nên nhiều trường hợp đã làm biến đổi dấu giọng của
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
29
Khóa luận tốt nghiệp
ca từ như: Thanh bằng, thanh sắc. Từ bao đời nay, người dân Thuỷ Nguyên
vẫn chấp nhận một lối hát lơ lớ như vậy và coi đây là nét đặc trưng trong nghệ
thuật hát Đúm của quê hương mình. Lối tiến hành giai điệu trong hát Đúm
không sử dụng luyến láy, không có từ đệm, từ phụ, không có hiện tượng đảo
từ, mỗi từ chỉ tương ứng với một nốt nhạc. Trong các câu hát thường sử dụng
một loại tiết tấu đồng chất với âm vực hẹp trong phạm vi quãng năm.
Do những nét đặc trưng như đã nêu, có thể coi hát Đúm là một trong
những loại hình dân ca cổ nhất của người Việt từ bao đời nay. Giống như hát
quan họ Bắc Ninh, hát Xoan Phú Thọ, hát Ví Dặm Nghệ Tĩnh, hát Đúm ở đây
cũng được chia thành các tốp nam nữ hát đối đáp. Nơi mở hội hát Đúm là
vườn trước hay sau, tả hay hữu kề sát với đình làng hay hội chùa, thường là đi
từ nhà ra ngõ, ra đình, rồi ra chùa. Ngày nay, hát Đúm được trình diễn ngay
tại đình làng. Nhóm bạn của hai bên nam nữ cử đại diện bên mình là những
chàng trai, cô gái có tài, có sắc, đã nhập tâm nhuần nhuyễn nhiều bài thơ và
truyện cổ có vần cả những bài ca dao, tục ngữ nhạy bén mà mượn câu, mượn
chữ, trích đoạn, trích từ, ứng vận, đối đáp, các bạn ngồi vây quanh hoặc dàn
hàng ngang theo dõi, chuẩn bị sẵn sàng góp phần cùng ứng đáp. Thường mỗi
cặp hát, hát qua nhiều bước, mỗi bước hát thường ít nhất qua từ 4 - 6 bài.
Trong khi chuyển bước bên nam hoặc bên nữ có những bài xướng (hỏi hay
đố) mới lạ, thâm ý khó giải. Người đại diện chính của nam hay nữ đang hát
đối đáp chưa tìm được lời đáp thì bạn hát cùng nhóm có thể đỡ lời, nếu bên
nào thua phải để lại “vật làm tin” (khăn, áo, mũ, ô, nón) và như vậy càng thôi
thúc họ gắng tìm ra lời đáp để chuộc lại “vật làm tin” đó. Các buổi hát luôn
được kéo dài từ sáng tới chiều. Rất nhiều chàng trai, cô gái càng hát, càng say,
quên ăn, quên mệt, hát hết hôm nay vẫn còn lưu luyến hẹn ngày mai hát tiếp.
Đâu đâu từ mờ sáng cho đến tận khuya vẫn còn nghe tiếng hát véo von của
những cặp say hát.
Tuy phong trào này có bị mờ nhạt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nhưng gần đây đang được phục hồi lại. Tuy nhiên, hát Đúm chỉ còn tập
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
30
Khóa luận tốt nghiệp
trung ở Thủy Nguyên mà chủ yếu là ở Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ và các thôn
Nghi Lễ, Đoan Lễ, Du Lễ xã Tam Hưng cùng khu vực lễ hội Tràng Kênh
(Minh Đức). Ở khu vực này ban tổ chức lễ hội kê bàn trải khăn, kê ghế băng,
có để sẵn ấm trà, đĩa trầu, bày làm hai dãy đối diện, đủ để cho mỗi nhóm từ 5
- 7 người ngồi. Từng tốp nam, nữ đến đăng kí với lễ hội, được sự giúp đỡ sử
dụng micro hát qua loa phóng thanh cho mọi người cùng nghe. Nhưng cũng
chỉ còn chủ yếu là bảo lưu vốn văn hóa dân gian cổ truyền của địa phương,
góp phần cho thần và người cùng chung vui trong lễ hội xuân.
2.2.3.2. Thể lệ hát Đúm
Theo các tiền nhân đi trước truyền lại thì ngay từ khi hình thành hội hát
Đúm đã có những quy định, thể lệ chặt chẽ và cụ thể. Trước hết, nhóm hát
phải đồng giới (nhóm nam hay nhóm nữ) xấp xỉ cùng lứa tuổi, thường là phải
cùng tuổi với nhau, nhất là khi chọn bạn dẫn đầu nhóm hát, như đại diện
nhóm bên nam phải hát với nhóm bạn nữ cùng lứa tuổi hoặc ít tuổi hơn.
Khi làm quen để hát mời thì bên nam hát trước nhưng khi ra điều kiện
hát thì bên nữ được quyền hát trước. Các chàng trai cô gái hát đối đáp với
nhau nhất thiết phải phòng tránh phạm lệ, ngay từ lúc mới gặp nhau các bạn
gái thường có những câu chào, hỏi dò tên tuổi họ hàng, quê quán và gia đình
nếu thấy hợp lệ mới tiếp tục hát các bước tiếp theo của hát Đúm. Thường thì
cả tốp nam, nữ cùng chứng kiến đại diện của “bên mình” hát đối với người
“bên kia”.
Đối với người có vợ hoặc có chồng rồi cũng được tham gia hội hát,
nhưng những người này cùng hát với nhau. Mọi người cho rằng thú vị nhất là
hát với người làng bên. Đã ra đến hội đi hát thì các ông chồng hay vợ không
được ghen khi thấy chồng hay vợ mình cầm tay người khác để hát (vì có tục
hát thường nắm cổ tay nhau). Và tiếp tục đối đáp bằng những lời ca mang nội
dung ân ái, mơ ước, hứa hẹn, tình tứ, đằm thắm lứa đôi.
2.2.3.3. Cách thức tạo Đúm
Hát Đúm Thủy Nguyên là lối diễn xướng đối đáp giao duyên nam nữ, nó
vừa mang nét chung của dân ca giao duyên người Việt vừa có nét riêng của
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
31
Khóa luận tốt nghiệp
dân ca vùng miền. Hát Đúm Thủy Nguyên có hình thức diễn xướng đơn, đơn
nam và đơn nữ. Theo những người tham gia hát Đúm lâu năm ở Phục Lễ thì
xưa kia khi ra hát ở hội chùa, người ta phải tạo ra các Đúm tức là các đám
người tham gia.
Quá trình tạo Đúm: Ngày xưa khi làng mở hội vào dịp đầu năm mới
trên sân chùa, các chàng trai ăn mặc chỉnh tề chặn ở cổng chùa. Khi thấy các
cô gái làng đi tới liền cử một đại diện hát giỏi ra cầm tay một cô gái có dáng
người đẹp, mặc dù chưa biết mặt vì cô gái bịt khăn. Chàng trai hát mấy câu
mời cô gái vào tham gia hát trong hội. Lúc đầu do còn bẽn lẽn thẹn thùng, cô
gái chưa ưng thuận ngay nên chàng trai hát mời tiếp, nếu cô chưa ưng thuận
chàng trai vẫn giữ lấy tay cô và hát tiếp mời cô vào hội cho đến khi cô phải
thốt lên: “bỏ tay em ra thì em vào hát”. Lúc này biết cô gái đã ưng thuận,
chàng trai cùng đám bạn liền mời cô gái và các bạn cô vào tham gia hát.
Người đi hội lúc này đã rất đông, thấy có đôi nam nữ hát đối đáp, họ xúm lại
xem và tự nhiên đám người thành vòng tròn vây quanh. Lúc này, cuộc hát đối
đáp giao duyên và so tài giữa một chàng trai và một cô gái mới thực sự bắt
đầu. Đám thanh niên nam nữ cũng chia nhau ra đứng vây quanh làm cho vòng
tròn càng thêm kín.
Với hình thức tạo Đúm như vậy, hát Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải
Phòng đã mang một hình thức diễn xướng riêng, nó biểu hiện sự cố kết cộng
đồng, tinh thần cộng cảm của tập thể, tạo sự hưng phấn, khích lệ cho người
diễn xướng. Diễn xướng đối đáp diễn ra giữa một cá nhân với một cá nhân
bên cạnh đó lại có sự tham gia của cộng đồng vừa thưởng thức vừa trợ giúp.
Do đó, hát Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng là một chỉnh thể nguyên
hợp của sinh hoạt văn hóa nghệ thuật cộng đồng.
2.2.3.4. Trang phục trong hát Đúm
Cũng như các loại hình nghệ thuật dân gian khác bao giờ cũng có trang
phục riêng thì trong làn điệu hát Đúm các chàng trai cô gái cũng có những bộ
trang phục riêng thể hiện nét tính cách và phù hợp với làn điệu hát Đúm.
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
32
Khóa luận tốt nghiệp
Xưa kia, chàng trai cô gái đều sử dụng các sắc phục truyền thống.
Nam áo dài the thâm, hay áo dài phin màu đen, màu gụ, quần trắng, chân đi
guốc, đầu quấn khăn nhiễu hay đội khăn xếp, tay cầm ô hay quạt với dáng
vẻ thư sinh, lịch thiệp tao nhã. Nữ thường mặc váy lĩnh hay lụa đen, áo tứ
thân mớ ba, mớ bảy, yếm trắng hay yếm hồng lưng thắt bao tượng sắc màu
rực rỡ, đầu đội khăn mỏ quạ hay vấn tóc bọc nhung đen để vắt đuôi gà vừa
mềm mại, tinh nghịch, vừa bay bướm dịu dàng trong khí trời tươi ấm. Tất
thảy đều tưng bừng rộn rã tràn đầy nhựa sống lồng vào lời ca tiếng hát
nghe tha thiết yêu thương.
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 cùng với trào lưu cách tân mở
rộng, trang phục truyền thống dần dần biến đổi, nhất là thanh niên đã ảnh
hưởng mạnh từ nhà trường về thôn xóm, sự ảnh hưởng của trào lưu cách tân
này diễn ra từ thành thị về đến các thôn xóm. Những trang phục đã tiện lợi,
gọn ngàng hơn, mới hơn. Nữ đã từ chiếc áo tứ thân yếm hồng, bao lưng hoa
lý đã thay bằng chiếc áo dài thướt tha hay chiếc áo cánh. Từ chiếc váy lĩnh, áo
lụa đen thay bằng quần trắng hay quần đen trông vẻ gọn gàng và trẻ trung.
Nam từ chiếc áo dài thâm hay quần trắng thay bằng áo sơ mi hay bộ com lê,
quần âu chỉnh tề, lịch sự. Trang phục cổ truyền ở đây đã hoàn toàn hiện đại
hoá, bóng dáng trang phục cổ truyền xưa kia chỉ còn ở các pho tượng hay phù
điêu trong đình chùa. Tuy vậy, trang phục cổ truyền vẫn được những người
nghệ nhân say mê hát Đúm duy trì, để hội hát thực sự là một nét sinh hoạt văn
hóa dân gian của cư dân Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng.
2.2.3.5. Nghệ thuật diễn đạt trong hát Đúm
Nét đẹp độc đáo trong hát Đúm không phải ở bước tiến hành làn điệu mà
là tài năng nghệ thuật ứng khẩu, ví von, đối đáp linh hoạt với nhiều hình ảnh
sinh động khác nhau. Nghệ thuật diễn đạt hát Đúm ở đây chủ yếu họ khéo léo
mượn những câu ca dao, tục ngữ, mượn trong cổ tích, mượn truyện tình xưa,
mượn cảnh thiên nhiên, mượn hình sản vật, mượn dáng công cụ lao động hay
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
33
Khóa luận tốt nghiệp
mượn đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, với những tư duy liên tưởng ứng vật theo
ngữ điệu có vần, ví von vào mình vào bạn, lấy tình nói cảnh, lấy cảnh nói
tình. Khi hát cứ lần lượt sau mỗi bên nữ rồi đến bên nam, bài ngắn nhất cũng
thường là bốn câu lục bát, hoặc dài thì tám đến chín câu cho tới khi hai bên
không còn câu hát để đối đáp nữa thì coi như thua cuộc và ra về để chuẩn bị
các câu hát tiếp cho lần gặp sau.
Để đi tới chỗ bén duyên nhau tâm đầu ý hợp của đôi bên thường phải trải
qua nhiều câu đố hát, đố ghẹo, có khi kéo dài tới vài ngày liền. Sự tài tình của
người hát là biết vận dụng các câu ca dao, tục ngữ, các áng văn chương kim
cổ, truyện dân gian. Đặc biệt là khả năng ngẫu hứng, ứng tác, miễn sao các
câu hát đủ ý, đủ lời.
Về học luyện, họ đã nghe quen giai điệu từ lời ru của mẹ, từ học
truyền miệng của người hơn tuổi, khi cùng lao động, lúc cùng nghỉ ngơi
rảnh rỗi, kể cả khi còn bập bẹ dõi theo chị, nhẩm theo anh từ những hội
xuân từ ngày còn bé.
Với loại hình văn hóa dân gian này, đặc biệt là ở tổng Phục (Phục Lễ,
Phả Lễ, Lập Lễ, một phần xã Tam Hưng) được thể hiện vừa giàu trí tuệ, vừa
thỏa mãn với tình cảm đại chúng, vừa cuốn hút tuổi trẻ sôi động. Khi hát Đúm
kết hợp với hội xuân, hội Mở mặt của các cô gái đã quanh năm bịt kín đã tạo
nên nét văn hóa đặc sắc của văn hóa nơi đây. Nên dù qua nhiều giai đoạn lịch
sử thăng trầm, phải biến đổi nội dung, hoán cải lời ca thích ứng với mỗi thể
cảnh của xã hội, nó vẫn được duy trì và phát triển, cùng tồn tại song song với
làng nghề Đông Môn gần kề đó, có giáo phường hát ả đào, chuyên thơ ca bác
học, chỉ phục vụ đối tượng danh nhân, danh sĩ, quan liêu và lễ tế thần hoàng.
Hát Đúm ở đây cũng đã thành tục lệ truyền thống, trai gái mới lớn đều
say sưa học luyện, họ học qua cách truyền miệng và bạn bè có biết chút ít chữ
nghĩa, ghi chép giùm cho những bài hát mẫu, truyền nhau luyện giọng, ngân
rung, luyến láy buông thả, nhấn nhá và ngắt mạch chia đoạn, giúp nhau thăng
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
34
Khóa luận tốt nghiệp
giáng, đảm bảo có trường độ cao độ khi đối đáp sao cho vừa thanh, vừa ngọt,
vừa ấm, vừa vang. Hay đúng ra chỉ là lối nói ngân nga có vần có điệu, sau
tiếng gọi vào đầu những bài hát: “Rằng người thương ơi!”, tới cuối bài cũng
lại tiếp tiếng gọi: “Duyên kết bạn tình ơi!”.
Trong tổ chức hội thi hát Đúm, tuy chưa hề thấy có văn bản nào quy định
tiêu chuẩn đạt giải. Nhưng dù sao thì mỗi hội hát, ai ai cũng đều thống nhất,
xếp giải cao nhất cho người ứng tác nhanh nhạy, hát được nhiều bài, nội dung
phong phú đa dạng, giọng hát ấm ngọt, dịu dàng, trong trẻo, âm vang gây
được nhiều cảm xúc.
Có thể nói rằng, nội dung lời ca trong Hát Đúm vô cùng đa dạng, đề cập
đến nhiều khía cạnh của cuộc sống thông qua chủ đề chính là tình yêu nam
nữ. Trong một số bài dù lời ca chưa thật sự tinh tế, trau chuốt về ngôn từ,
nhưng những câu hát ấy vang lên phản ánh tình cảm yêu thương giữa con
người với con người, giữa con người với thiên nhiên, quê hương đất nước và
đặc biệt nhiều bài thể hiện tính cách chân thật, mạnh bạo, hồn nhiên, dí dỏm
của con người vùng biển Hải Phòng.
2.2.3.6. Các bước trong hát Đúm
Bước vào hội, tất cả mọi người đều có quyền tham gia vào hội hát,
dùng lời ca tiếng hát có vần để chào mời thăm hỏi làm quen, tỏ tình, tỏ tài ứng
đáp, gửi gắm thân thương, ước mong thỏa mãn được mọi khía cạnh cuộc sống
thường nhật của cả cộng đồng. Thường trước khi hát vào lời ca sẽ có câu mở
đầu: “Rằng người thương ơi!” và khi hết mỗi bài ca, có đệm tiếp câu: “Duyên
kết bạn tình ơi!”. Hát đúm chia làm 9 bước hát:
Bước 1: Hát chào hỏi - giao hẹn
Khi làm quen để hát mời thì bên nam hát trước nhưng khi ra điều kiện
hát thì bên nữ được quyền hát trước. Các chàng trai cô gái hát đối đáp với
nhau nhất thiết phải phòng tránh phạm lệ, ngay từ lúc mới gặp nhau các bạn
gái thường có những câu chào, hỏi dò tên tuổi họ hàng, quê quán và gia đình
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
35
Khóa luận tốt nghiệp
nếu thấy hợp lệ như về tuổi tác, họ hàng mới tiếp tục hát các bước tiếp theo
của hát Đúm. Thường thì cả tốp nam, nữ cùng chứng kiến đại diện của “bên
mình” hát đối với người “bên kia”.
Kể cả ở hội hát thi hay ở hội hát vui giao duyên thuần túy. Khi vào hội,
lúc đầu nam nữ gặp nhau, các chàng trai thường chủ động hát chào các bạn
gái trước. Ví dụ:
Nam:
“Rằng người thương ơi!
Năm cũ thì đã qua rồi
Bước sang năm mới đôi người chơi xuân
Mỗi năm chơi có mỗi lần
Trai tài gái sắc chơi xuân dập dìu...
Nữ:
Gặp đây phải hỏi phải chào
Trông chàng em biết người nào người quen…
Hay:
Nữ:
…Để tôi xin hát một lời
Xem rằng anh bạn yêu tôi chăng là
Nhẽ thì có khẩu giầu hoa
Hiếm vì chợ vắng nhà xa thế nào…
Nam:
…Gặp đây anh hỏi nước non
Em có chồng chửa hay còn giá cao
Còn không cho chúng anh vào
Hay là đã có nơi nào thì thôi…
Nữ:
…Anh nào muốn hát với tôi
Xưng tên bảo tuổi cho tôi biết chừng…
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa