Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.46 KB, 81 trang )
Trường ĐHSP Hà Nội 2
45
Khóa luận tốt nghiệp
Bên cạnh đó còn có cả cưới chịu, tổ chức cưới, sau cưới và sắm sửa
cho nhau:
Nam:
…Anh sắm cho em đủ mọi mặt hàng
Hàng mật, hàng đường, hàng gạo trong tay…
Nữ:
…Em sắm cho anh một người nàng hầu mười bảy mười ba
Tay cầm cái quạt Long Ly Quy Phượng đứng xa xa vừa tầm…
[10, tr.52 -55]
Bước 9: Hát ra về
Họ gặp nhau, hát chào hỏi, hát giao duyên…Giờ phải chia tay nhau, họ
vẫn còn lưu luyến nên đã dùng những câu hát để chào nhau ra về, thông qua
đó để thấy được tình cảm của hai bên quyến luyến không muốn rời nhau,
những lời ca đã thể hiện được những hình ảnh và tâm tư của người hát. Qua
gặp gỡ đối đáp giao duyên trong mỗi hội hát, người ta không chỉ nói với
những người cùng hát, mà còn nói với cả những bạn cùng dự hội này, không
chỉ chào nhau ra về mà còn chào cả cộng đồng, với câu hát “Giã ơn người lập
hội xuân, để cho trai gái chơi xuân chốn này…”. Ví dụ đôi câu hát trong
những bài ca:
Chào ra về:
“....Chào chàng ở lại chàng ơi
Nhà em bận rộn xa xôi em về
...Yêu nhau quá đỗi nên mê
Mời chàng ở lại cùng về đường quen.....
Lưu luyến:
…Chàng về em nhớ em thương
Kìa như thóc nếp rải đường người đi…
…Chàng về cho em về cùng
Cho cha mẹ mừng như đũa có đôi…”
[10, tr.56 - 57]
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
46
Khóa luận tốt nghiệp
Hát ra về cũng để nói lên cảm xúc khi chia tay nhau, tiếp theo hát trao ô,
trao mũ, trao khăn, trao nón, hay hát xin lại mũ nón, ô, khăn đã trao gửi nhau khi
vào hội hát, cùng lời ca hẹn hò gặp lại, với ước mong gặp lại nên nghĩa bạn đời,
nên tình gia thất, và gặp lại buổi hát ngày mai, hay hội hát mùa sau.
Nam:
“…Nhà nàng công việc bộn bề
Thì nàng hãy cứ ra về
Nàng về hầu mẹ hầu thầy
Ngày mai lại đến chốn này cùng anh…”
[10, tr.58]
Trên đây là 9 bước hát của hát Đúm, nhưng không bắt buộc phải theo thứ
tự mà tùy theo đối tượng đối đáp ứng vận tự do thay đổi nội dung cung đoạn
của lời ca, hát nội dung nào trước sau. Chỉ có hát chào, hát huê tình, hát ra về
thì buổi hát nào cũng có. Giữa các buổi hát hay chuyển lời nội dung miêu tả,
thường có các bài hát để dẫn đề, tạo sự nối tiếp liên tục cho liền mạch cuộc
hát, họ thường gọi là hát chuyển lời. Với bài hát này không nhất thiết các đôi
nam nữ hát đối, mà nhằm gợi mở chuyển đổi nội dung, bước hát bất kì hát
tiếp nội dung bước hát nào, miễn sao cho lời ca thích hợp với hội cảnh và tạo
sự cuốn hút cho cuộc hát.
Ngoài ra, các đôi hát thường có những câu hát đệm. Loại hát này rất khó vì
lời ca bâng khuâng ngoại cảnh, hay lời ca trêu cợt chanh chua, họa chăng có đôi
ba người ứng vận nhanh nhạy, suy đoán liên tưởng linh lợi mới đáp lại được.
2.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀN ĐIỆU HÁT ĐÚM Ở XÃ PHỤC LỄ - THỦY
NGUYÊN - HẢI PHÒNG
2.3.1. Chất thơ trong hát Đúm
Thiên nhiên đã dành cho Hải Phòng những ưu đãi lớn, có đủ sông biển,
núi rừng. Ra đời trên mảnh đất đẹp và thơ ấy, hát Đúm Thủy Nguyên đã được
các tác giả dân gian xúc cảm, bồi đắp thành những bài ca đầy chất thơ. Ở đó,
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
47
Khóa luận tốt nghiệp
vẻ đẹp của thiên nhiên được miêu tả quyện lấy tình người hài hòa, trong sáng.
Nội dung bài hát có nhiều đề tài, nhiều góc độ tình cảm khác nhau. Có những
bài “huê tình” thổ lộ tình yêu nam nữ mặn mà, nhưng cũng có những bài đố,
hát họa gay go, có lúc hát giữa mùa xuân hội làng, cảnh vật nên thơ, nhưng
cũng có những lúc hát giữa bãi biển ầm ầm sóng vỗ, hoặc trong lúc kéo lưới
quăng chài mệt nhọc.
Khi tiếng hát chào mở đầu một cuộc hát vừa cất lên thì mọi người đều
như bị cuốn trong tiếng hát. Giọng hát không to rất ấm, nhưng có độ âm vang
và sức quyến rũ lạ thường. Nội dung những bài hát chào đều na ná giống
nhau, nhưng khi đã cất lên thì mỗi người đều có riêng một vẻ, một sức lay
động tâm hồn độc đáo của mình. Có được sự cuốn hút ấy chính là do hát Đúm
Thủy Nguyên đã có những lợi thế riêng, có một chất thơ đồng điệu với những
tình cảm, tâm hồn vốn rất trữ tình, rất thơ của con người Việt Nam. Quả vậy,
nếu chỉ tìm hiểu trên lời ca - có khi còn đơn sơ, ước lệ thì không ai có thể cắt
nghĩa được sức mạnh ấy. Nhưng khi nghe tiếng hát thì thật sự đã chinh phục
được lòng người, đã khơi dậy trong lòng mỗi người một tình cảm đầm ấm cổ
truyền rất Việt Nam.
Sự kết hợp hài hòa giữa cảnh và tình, giữa vẻ đẹp thiên nhiên với tình cảm
con người là nội dung của cái đẹp mà các tác giả dân gian đã hiểu một cách sâu
sắc. Thiên nhiên quyện lấy con người, ủng hộ con người, và con người chi phối
thiên nhiên, đẹp lên trong vẻ đẹp của thiên nhiên. Trong những tác phẩm dân
gian có lẽ ít có tác phẩm nào mà ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên một cách đơn
lẻ, con người đứng ngoài thiên nhiên. Hát Đúm cũng vậy, chất thơ không bao
giờ là sự thuần túy tự nhiên, không bao giờ là vẻ đẹp thiếu con người.
Mùa xuân là mùa đẹp nhất, thơ nhất trong cả bốn mùa, là mùa sinh sôi,
nảy nở, mùa hứa hẹn mọi sự tốt lành. Mùa xuân diễn ra tết cổ truyền của dân
tộc, các hội làng được tổ chức, có lẽ vì vậy mà được các tác giả dân gian đưa
vào hát Đúm như một hình tượng trung tâm của lời ca, như một chất keo dính
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
48
Khóa luận tốt nghiệp
giữa con người và tự nhiên. Trong cảnh đẹp như vậy những đôi trai gái gặp
gỡ nhau, cầm tay nhau hát lên những tiếng hát say đắm lòng người, tiếng hát
mở đầu cho ngày hội, mở đầu cho một mùa xuân, và cũng có thể mở đầu cho
một mối tình, ở vào khung ảnh ấy con người đã thổi linh hồn và làm sống lại
vẻ đẹp của thiên nhiên.
Mùa xuân bắt đầu cho một năm mới luôn được dùng làm nền cho nhiều
bài hát, nhất là hát chào:
Thoạt vào chào đám hội xuân
Chào các quý chúc xa gần ngồi chơi”
“Hôm nay năm cũ đã qua
Bước sang năm mới đôi ta chơi chùa…”
[18, tr. 37]
Để rồi từ đó thổ lộ những tình cảm đẹp trong hoàn cảnh đẹp, thiên nhiên
đẹp. Mùa xuân đã là mùa của thơ, mùa của tình yêu và tạo nên trong hát Đúm
Thủy Nguyên một chất thơ giàu mỹ cảm và sức sống.
Độc đáo hơn nhiều dân ca khác, hát Đúm Thủy Nguyên có hàng ngàn
bài đố, bài họa về các hiện tượng tự nhiên, về những đồ ăn, vật dụng, về
những động vật dưới biển, trên rừng. Qua đây, chứng tỏ người Hải Phòng
hiểu rất sâu về tự nhiên và đặc biệt là những hiện tượng tự nhiên ở khu vực
miền biển và những sản vật của biển. Những thứ ấy có cái là tai họa nữa.
Nhưng dưới con mắt của tác giả dân gian tất cả đều gần gũi gắn bó với con
người, vì nó đều là phương tiện là cái cớ để thể hiện tình cảm con người. Yêu
thương - hờn giận và mọi trạng thái khác không phải lúc nào cũng thể hiện
khi sóng yên biển lặng, mà chính trong lúc sóng gió dữ dội những tình cảm
đẹp ấy càng thêm đẹp. Thiên nhiên trong hát Đúm Thủy Nguyên không phải
chỉ có mùa xuân ấm áp, mà còn có cả mùa hạ bức nồng, không phải chỉ có
trời đẹp, trăng cao mà còn có cả gió mưa bão tố.
Nhưng bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, tình cảm con người cũng thủy chung
son sắt trong vẻ đẹp của thiên nhiên. Đọc nội dung hát Đúm Thủy Nguyên
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
49
Khóa luận tốt nghiệp
càng thấy con người lao động thật thông minh, giàu trí tưởng tượng và rất yêu
thiên nhiên, vũ trụ của mình. Bầu trời bao la xanh vời vợi, với con người ngày
xưa thì đó là cả một thế giới bí mật vô cùng. Nhưng với lòng yêu thiên nhiên,
những nghệ sĩ dân gian đã hình dung bầu trời rất cụ thể, rất gần gũi và gắn bó
với con người:
“Trên trời có sao thất tinh
Có sao cân nước trung bình phương nam
Trên trời sấm chớp đã vang
Có giăng, có cuội, có bàn cờ tiên
Trên giời có cửa phật tiền
Có ông cầm quyền giũ mục nắng mưa
Làm cho thiên hạ được mùa
Vạn vật thảo mộc bốn mùa kỳ sinh”
[18, tr.38]
Đất càng gần gũi hơn đáng yêu hơn, đất là cội nguồn của mọi sự nảy nở
sinh sôi, cội nguồn của sự sống:
“Đất sinh vạn vật cỏ cây
Đình chùa Phật tự nay là đất gần
Đất có đài các phương dân
Quan sởn địa lý cửu nhân hợp hòa
Đất sinh ra ngói lợp nhà…”
[18, tr.38]
Đất trời không bao giờ độc lập với con người mà gắn bó và ủng hộ con
người, tạo nên vẻ đẹp rất thực mà rất thơ cho cuộc sống con người.
Ngay cả những hiện tượng tự nhiên bất lợi cho con người cũng được các
tác giả dân gian miêu tả bằng những mỹ cảm riêng biệt của người lao động, vì
người ta không nghĩ đến thời tiết mà chỉ nghĩ đến tình yêu hạnh phúc. Hoặc
có nghĩ đến cũng chỉ là để lo cho hạnh phúc, tình yêu trọn vẹn hơn. Chính vì
vậy mà cái bức nồng ở đây đã đến với con người cùng với sự âu yếm, thiết tha
của tình yêu thương đằm thắm:
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
50
Khóa luận tốt nghiệp
“Tháng ba bức nực chàng ơi
Em đi xuống chợ mua đôi quạt ngà
Đem về mà để trong nhà
Phòng khi có bức đôi ta sẽ dùng”
[18, tr.39]
Mưa là một hiện tượng tự nhiên dễ gợi buồn cho nhiều thi sĩ ngày xưa,
nỗi buồn đêm mưa vốn là một nỗi buồn lê thê dai dẳng. Với tâm hồn thơ trong
sáng, người lao động nhìn mưa vẫn đẹp, vẫn gần gũi:
“Mưa từ trong Quảng mưa ra
Mưa khắp Hà Nội, mưa ra Hải Phòng
Hạt mưa trong thật là trong
Mưa khắp Hải Phòng, mưa cả mọi nơi”
[18, tr.40]
Mỗi hạt mưa, mỗi tháng mưa đều gắn bó với cuộc sống thiết thực của
con người, gắn với tình yêu xứ sở, với hạnh phúc gia đình. Mưa mát mẻ trong
lành mang đến no ấm yên vui cho người lao động:
“Thanh minh sang tiết tháng ba
Hễ đi chơi hội mưa đà dù che
Tư, năm, tháng sáu mưa hè…”
[18, tr.40]
Yêu mến và gần gũi thiên nhiên hơn cả vẫn là người lao động. Nói đúng
hơn là người trực tiếp vật lộn với thiên nhiên để sinh tồn. Trước mắt họ bao
giờ cũng là một thiên nhiên rộng lớn. Từ đó, họ thấy được và tự hào về vị trí
của mình trong trời đất. Cái nhìn của họ, tình yêu của họ bao giờ cũng bắt đầu
từ một vũ trụ bao la.
Hát Đúm Thủy Nguyên - Hải Phòng, đặc biệt là hát họa và hát chèo đã
tận dụng vẻ đẹp của thiên nhiên tạo nên một chất thơ độc đáo. Nghe tiếng hát,
người nghe được thưởng thức những bài thơ trữ tình đầy chất họa. Hát Đúm ở
Thủy Nguyên - Hải Phòng là tiếng hát trái tim của người lao động. Đối với
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
51
Khóa luận tốt nghiệp
người lao động, thiên nhiên vốn gắn bó mật thiết trong đời sống sản xuất cũng
như trong tình cảm, tâm hồn. Những người lao động miền biển cũng vậy, khí
hậu miền biển, địa dư miền biển và nghề làm ăn trên sông nước khiến những
sản vật của thiên nhiên như cá, chim, những hiện tượng tự nhiên như gió,
mưa, sấm, chớp đều có mặt sinh động trong hát Đúm. Ở thời đại khoa học
chưa phát triển, nền kinh tế còn bị phong kiến kìm hãm, thì những điều kiện
tự nhiên ấy là cơm áo, là hạnh phúc của con người.
Chính vì vậy, trong hát Đúm ở Thủy Nguyên - Hải Phòng, những hiện
tượng tự nhiên đã được in sâu khắc đậm trong tình cảm con người, được con
người thổi cho sức sống tâm hồn và nâng lên thành vẻ đẹp, thành chất thơ trong
sáng. Và cũng chính trong điều kiện sống ấy mà tình cảm, tình yêu của con
người ở đây lúc nào cũng trong sáng, tha thiết và mãnh liệt. Đó là những tâm
hồn khỏe đẹp, dào dạt chất thơ và những tiếng hát đậm đà tâm hồn dân tộc.
2.3.2. Hát Đúm thể hiện cá tính và sinh hoạt của người Hải Phòng
Trên mỗi miền đất nước đều có những địa danh, tên gọi khác nhau, có
nghề nghiệp làm ăn sinh sống khác nhau nên văn nghệ dân gian cũng như văn
học nghệ thuật nói chung phản ánh cuộc sống tình cảm con người mỗi nơi ấy
cũng có những nét cá tính khác nhau. Hát Đúm Hải Phòng cũng vậy, ngoài
những nét chung của ca dao dân ca cả nước thì có một số nét riêng nào đó về
nội dung, hình thức đã thể hiện cá tính con người Hải Phòng.
Những câu ca xưa của người Hải Phòng đã nói lên tác phong của những
chàng trai Hải Phòng đến với người tình rất đỗi tự nhiên, mạnh bạo. Nó có gì
tưởng như thô bạo, sỗ sàng, nhưng xét cho cùng thì chỉ là tình cảm hồn nhiên
chân thực:
“Anh nay con trai Hải Phòng
Chạy tàu Phi Hổ vào trong Ninh Bình
Thấy em vừa đẹp vừa xinh
Anh thuận nhân tình anh nắm cổ tay
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
52
Khóa luận tốt nghiệp
Nắm rồi anh hỏi cổ tay
Ai nặn nên trắng ai day nên tròn”
[18, tr.27]
Trong các cuộc hát Đúm, bao giờ các chàng trai cũng cầm tay cô gái đang
hát với mình. Có phải do tục hát Đúm mà các chàng trai có thói quen cầm tay
con gái hay do tác phong của người Hải Phòng mà thói quen ấy được hình
thành trong hát Đúm xưa nay. Nhưng trong văn học dân gian Hải Phòng ta thấy
hầu như lúc nào đôi trai gái gặp gỡ yêu nhau thì phút đầu các chàng trai cũng
đến cầm tay. Mới gặp nhau người con gái đã bị nắm cổ tay, bị chất vấn:
“Gặp đây cầm lấy cổ tay
Ai vuốt lên trắng, ai day lên tròn
Gặp đây anh hỏi nước non
Em có chồng chửa hay còn giá cao
Còn không cho chúng anh vào
Hay là đã có nơi nào thì thôi…”
[18, tr.27]
Các chàng trai không cần rào mở, đón đưa mà gặp nhau là để bõ lúc
xanhau:
Gặp nhau ta nắm cổ tay
Bõ đêm quên ngủ bõ ngày quên ăn
Đến nỗi các cô gái muốn giữ phần e lệ, giữ tình yêu kín đáo hơn, vẫn
thường phản đối với các chàng:
“Xin chàng buông tay em ra
Để em đi chợ kẻo đà chợ trưa”
“Xin chàng buông tay em ra
Kẻo rầu long thiếp xót xa lòng chàng”
[18, tr.27]
Tuy vậy, họ yêu nhau là yêu tha thiết, là đến với nhau bằng tất cả sự
hồn nhiên, trong sáng của tình yêu tuổi trẻ, “Yêu nhau từ thuở buôn thừng” từ
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
53
Khóa luận tốt nghiệp
lúc “Mình chăn trâu ta cũng chăn trâu”. Chính vì vậy mà nó có cơ sở vững
chắc, có chiều sâu của tình cảm:
“Yêu nhau quá đỗi quá chừng
Trèo non quên mệt ngậm gừng quên cay
Nói đây lại bảo nói hay
Ta yêu mình từ thuở trên tay bác mẹ bế bồng”
[18, tr.28]
Yêu nhau là tất cả vì nhau. Dù có phải gian truân, đau đớn cũng vẫn
coi thường:
“Vì nàng anh phải đi đêm
Ngã năm ba cái đất mềm không đau
Vì nàng anh phải đi thầm
Ngã sấp đầu gối, ngã thâm bánh chè”
[18, tr.28]
Tình yêu không câu lệ vào vật chất, không quản ngại gần xa: “Yêu nhau
xa mấy cũng gần”, yêu nhau thì “Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”:
“Yêu nhau như bát nước sung
Chồng hôi như cú em cũng nằm chung một giường
Yêu đến nỗi:
Một điều mình quyết lấy ta
Thì ta bán cửa bán nhà ta theo
Bán từ cái cối đâm bèo
Cái chày đâm rốc ta theo cô mình
Yêu đến liều lĩnh:
Em trông thấy anh em cũng yêu rồi
Biết rằng chị cả không rời anh ra
Dù anh chín vợ mười con
Thì em cũng ghé mình con em vào
Chị cả có bảo làm sao
Dao găm cất váy, em vào chơi xuân.”
[18, tr.28]
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
54
Khóa luận tốt nghiệp
Gần nhau thì yêu nhau tha thiết, xa nhau thì nhớ nhau và giữ lòng chung
thủy. Sau những ngày hội vui, những buổi gặp gỡ, họ phải tạm biệt nhau ra về,
ai về nhà nấy, một nỗi bâng khuâng, nhớ nhung da diết tràn ngập trong lòng:
“- Ra về mở cửa trông trời
Trông đường đường vắng, trông người người qua
- Ra về thiếp chỉ nhớ chàng
Chàng nhớ thì ít, em thương thì nhiều”
[18, tr.29]
Họ không muốn rời nhau ra:
“Gặp nhau ở chốn linh đình
Anh đi em quyết gieo mình xuống đây
Dao vàng cắt ruột em này
Không bằng chàng bỏ em đây mà về”
[18, tr.29]
Khi phải xa nhau họ ước ao mình như con chim biết bay để đi tìm người
yêu gặp lại:
“Ước gì mình thiếp như chim
Thiếp xin chắp cánh đi tìm tận nơi
Ước gì có cánh mà bay
Thì em bay tới nước Tây tìm chàng”
[18, tr.29]
Nói chung, tình yêu của người lao động ở đâu cũng mạnh bạo, hồn
nhiên, thủy chung, tha thiết. Nhưng ở đây từ phút đầu gặp gỡ đến cách thổ lộ
tâm tình, ước mong, thương nhớ vẫn có gì cụ thể, mạnh bạo hơn, tự nhiên và
mộc mạc hơn. Mạnh bạo đến xô bờ nhưng không thô lỗ, tầm thường, sỗ sàng
mà vẫn giữ được vẻ trong sáng của tình cảm người lao động.
Cuộc sống của người Hải Phòng hàng ngày tiếp xúc với thuyền bè, sông
nước, bến bãi, kho tàng. Dưới chế độ phong kiến người nông dân rất nghèo,
cái nghèo của người nông dân nói chung là:
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa
Trường ĐHSP Hà Nội 2
55
Khóa luận tốt nghiệp
“Lấy anh em chẳng làm gì
Sáng thì đi mót tối về lại rang
Chày tra cối đất sẵn sàng
Đèn trăng, quạt gió, trấu càng sạch tinh”
[18, tr.30]
Nhưng cái nghèo của người nông dân miền biển có khác, ngoài việc đi
mót, họ có sông để kiếm thêm con cua, con cá cải thiện đời sống gia đình:
“Lấy em thì sướng bằng vua
Em đi bắt cáy, bắt cua, bắt càng
Em về em nấu em rang
Em đi mua rượu mời chàng xơi cua”
[18, tr.30]
Người Hải Phòng chịu khó lam lũ làm ăn sinh sống trong những ngày
khó khăn, sau mùa gặt hái rỗi rãi họ lại rủ nhau đi ra sông kiếm thêm con cáy
làm mắm, đồng tiền mua rau. Tuy có cực nhọc vất vả nhưng đó là nguồn
sống, là lối thoát cảnh chết đói trong những ngày giáp hạt.
Là nơi trên bến dưới thuyền nên người Hải Phòng đã sớm có mối quan hệ
buôn bán với các tỉnh. Những chiếc tàu của hãng Bạch Thái Bưởi đã thành cái
tên quen thuộc với người Hải Phòng lúc ấy. Họ từ Hải Phòng đi Bắc Ninh, đi
Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội, Hòn Gai… và nhiều tỉnh khác trên miền Bắc. Họ
buôn bông, buôn bè và mọi thứ khác cần dùng cho đời sống hàng ngày.
Những cô gái có thể nói: “Em là con gái Hải Phòng, em chạy tàu nước
vào trong Ninh Bình”, có thể mua nón ở Bắc Giang, có thể tìm người yêu ở
tỉnh Đông (Hải Dương) và những chàng trai từ tỉnh “Đáp Cầu” (Bắc Ninh) có
thể “Chạy tàu Phi Hổ xuống chơi Hải Phòng”. Do mối quan hệ ấy mà trong
lúc giao thông đường bộ chưa phát triển mấy thì cái cảnh thuyền bè đi lại tấp
nập ở một nơi trên bến dưới thuyền như Hải Phòng là tất nhiên và đó là một
đặc trưng riêng của Hải Phòng. Người Hải Phòng phải bươn trải với sóng gió
Nguyễn Thị Luyên
Lớp K35 Lịch sử Văn hóa