1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Văn hóa - Lịch sử >

Bước hát này còn mang một ý nghĩa sâu sắc là nói lên hạnh phúc của con người trên thế gian - đó là ngày mà họ được nên duyên vợ, chồng với người mình thương yêu:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.46 KB, 81 trang )


Trường ĐHSP Hà Nội 2



45



Khóa luận tốt nghiệp



Bên cạnh đó còn có cả cưới chịu, tổ chức cưới, sau cưới và sắm sửa

cho nhau:

Nam:

…Anh sắm cho em đủ mọi mặt hàng

Hàng mật, hàng đường, hàng gạo trong tay…

Nữ:

…Em sắm cho anh một người nàng hầu mười bảy mười ba

Tay cầm cái quạt Long Ly Quy Phượng đứng xa xa vừa tầm…

[10, tr.52 -55]

Bước 9: Hát ra về

Họ gặp nhau, hát chào hỏi, hát giao duyên…Giờ phải chia tay nhau, họ

vẫn còn lưu luyến nên đã dùng những câu hát để chào nhau ra về, thông qua

đó để thấy được tình cảm của hai bên quyến luyến không muốn rời nhau,

những lời ca đã thể hiện được những hình ảnh và tâm tư của người hát. Qua

gặp gỡ đối đáp giao duyên trong mỗi hội hát, người ta không chỉ nói với

những người cùng hát, mà còn nói với cả những bạn cùng dự hội này, không

chỉ chào nhau ra về mà còn chào cả cộng đồng, với câu hát “Giã ơn người lập

hội xuân, để cho trai gái chơi xuân chốn này…”. Ví dụ đôi câu hát trong

những bài ca:

Chào ra về:

“....Chào chàng ở lại chàng ơi

Nhà em bận rộn xa xôi em về

...Yêu nhau quá đỗi nên mê

Mời chàng ở lại cùng về đường quen.....

Lưu luyến:

…Chàng về em nhớ em thương

Kìa như thóc nếp rải đường người đi…

…Chàng về cho em về cùng

Cho cha mẹ mừng như đũa có đôi…”

[10, tr.56 - 57]

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



46



Khóa luận tốt nghiệp



Hát ra về cũng để nói lên cảm xúc khi chia tay nhau, tiếp theo hát trao ô,

trao mũ, trao khăn, trao nón, hay hát xin lại mũ nón, ô, khăn đã trao gửi nhau khi

vào hội hát, cùng lời ca hẹn hò gặp lại, với ước mong gặp lại nên nghĩa bạn đời,

nên tình gia thất, và gặp lại buổi hát ngày mai, hay hội hát mùa sau.

Nam:

“…Nhà nàng công việc bộn bề

Thì nàng hãy cứ ra về

Nàng về hầu mẹ hầu thầy

Ngày mai lại đến chốn này cùng anh…”

[10, tr.58]

Trên đây là 9 bước hát của hát Đúm, nhưng không bắt buộc phải theo thứ

tự mà tùy theo đối tượng đối đáp ứng vận tự do thay đổi nội dung cung đoạn

của lời ca, hát nội dung nào trước sau. Chỉ có hát chào, hát huê tình, hát ra về

thì buổi hát nào cũng có. Giữa các buổi hát hay chuyển lời nội dung miêu tả,

thường có các bài hát để dẫn đề, tạo sự nối tiếp liên tục cho liền mạch cuộc

hát, họ thường gọi là hát chuyển lời. Với bài hát này không nhất thiết các đôi

nam nữ hát đối, mà nhằm gợi mở chuyển đổi nội dung, bước hát bất kì hát

tiếp nội dung bước hát nào, miễn sao cho lời ca thích hợp với hội cảnh và tạo

sự cuốn hút cho cuộc hát.

Ngoài ra, các đôi hát thường có những câu hát đệm. Loại hát này rất khó vì

lời ca bâng khuâng ngoại cảnh, hay lời ca trêu cợt chanh chua, họa chăng có đôi

ba người ứng vận nhanh nhạy, suy đoán liên tưởng linh lợi mới đáp lại được.

2.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀN ĐIỆU HÁT ĐÚM Ở XÃ PHỤC LỄ - THỦY

NGUYÊN - HẢI PHÒNG

2.3.1. Chất thơ trong hát Đúm



Thiên nhiên đã dành cho Hải Phòng những ưu đãi lớn, có đủ sông biển,

núi rừng. Ra đời trên mảnh đất đẹp và thơ ấy, hát Đúm Thủy Nguyên đã được

các tác giả dân gian xúc cảm, bồi đắp thành những bài ca đầy chất thơ. Ở đó,



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



47



Khóa luận tốt nghiệp



vẻ đẹp của thiên nhiên được miêu tả quyện lấy tình người hài hòa, trong sáng.

Nội dung bài hát có nhiều đề tài, nhiều góc độ tình cảm khác nhau. Có những

bài “huê tình” thổ lộ tình yêu nam nữ mặn mà, nhưng cũng có những bài đố,

hát họa gay go, có lúc hát giữa mùa xuân hội làng, cảnh vật nên thơ, nhưng

cũng có những lúc hát giữa bãi biển ầm ầm sóng vỗ, hoặc trong lúc kéo lưới

quăng chài mệt nhọc.

Khi tiếng hát chào mở đầu một cuộc hát vừa cất lên thì mọi người đều

như bị cuốn trong tiếng hát. Giọng hát không to rất ấm, nhưng có độ âm vang

và sức quyến rũ lạ thường. Nội dung những bài hát chào đều na ná giống

nhau, nhưng khi đã cất lên thì mỗi người đều có riêng một vẻ, một sức lay

động tâm hồn độc đáo của mình. Có được sự cuốn hút ấy chính là do hát Đúm

Thủy Nguyên đã có những lợi thế riêng, có một chất thơ đồng điệu với những

tình cảm, tâm hồn vốn rất trữ tình, rất thơ của con người Việt Nam. Quả vậy,

nếu chỉ tìm hiểu trên lời ca - có khi còn đơn sơ, ước lệ thì không ai có thể cắt

nghĩa được sức mạnh ấy. Nhưng khi nghe tiếng hát thì thật sự đã chinh phục

được lòng người, đã khơi dậy trong lòng mỗi người một tình cảm đầm ấm cổ

truyền rất Việt Nam.

Sự kết hợp hài hòa giữa cảnh và tình, giữa vẻ đẹp thiên nhiên với tình cảm

con người là nội dung của cái đẹp mà các tác giả dân gian đã hiểu một cách sâu

sắc. Thiên nhiên quyện lấy con người, ủng hộ con người, và con người chi phối

thiên nhiên, đẹp lên trong vẻ đẹp của thiên nhiên. Trong những tác phẩm dân

gian có lẽ ít có tác phẩm nào mà ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên một cách đơn

lẻ, con người đứng ngoài thiên nhiên. Hát Đúm cũng vậy, chất thơ không bao

giờ là sự thuần túy tự nhiên, không bao giờ là vẻ đẹp thiếu con người.

Mùa xuân là mùa đẹp nhất, thơ nhất trong cả bốn mùa, là mùa sinh sôi,

nảy nở, mùa hứa hẹn mọi sự tốt lành. Mùa xuân diễn ra tết cổ truyền của dân

tộc, các hội làng được tổ chức, có lẽ vì vậy mà được các tác giả dân gian đưa

vào hát Đúm như một hình tượng trung tâm của lời ca, như một chất keo dính

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



48



Khóa luận tốt nghiệp



giữa con người và tự nhiên. Trong cảnh đẹp như vậy những đôi trai gái gặp

gỡ nhau, cầm tay nhau hát lên những tiếng hát say đắm lòng người, tiếng hát

mở đầu cho ngày hội, mở đầu cho một mùa xuân, và cũng có thể mở đầu cho

một mối tình, ở vào khung ảnh ấy con người đã thổi linh hồn và làm sống lại

vẻ đẹp của thiên nhiên.

Mùa xuân bắt đầu cho một năm mới luôn được dùng làm nền cho nhiều

bài hát, nhất là hát chào:

Thoạt vào chào đám hội xuân

Chào các quý chúc xa gần ngồi chơi”

“Hôm nay năm cũ đã qua

Bước sang năm mới đôi ta chơi chùa…”

[18, tr. 37]

Để rồi từ đó thổ lộ những tình cảm đẹp trong hoàn cảnh đẹp, thiên nhiên

đẹp. Mùa xuân đã là mùa của thơ, mùa của tình yêu và tạo nên trong hát Đúm

Thủy Nguyên một chất thơ giàu mỹ cảm và sức sống.

Độc đáo hơn nhiều dân ca khác, hát Đúm Thủy Nguyên có hàng ngàn

bài đố, bài họa về các hiện tượng tự nhiên, về những đồ ăn, vật dụng, về

những động vật dưới biển, trên rừng. Qua đây, chứng tỏ người Hải Phòng

hiểu rất sâu về tự nhiên và đặc biệt là những hiện tượng tự nhiên ở khu vực

miền biển và những sản vật của biển. Những thứ ấy có cái là tai họa nữa.

Nhưng dưới con mắt của tác giả dân gian tất cả đều gần gũi gắn bó với con

người, vì nó đều là phương tiện là cái cớ để thể hiện tình cảm con người. Yêu

thương - hờn giận và mọi trạng thái khác không phải lúc nào cũng thể hiện

khi sóng yên biển lặng, mà chính trong lúc sóng gió dữ dội những tình cảm

đẹp ấy càng thêm đẹp. Thiên nhiên trong hát Đúm Thủy Nguyên không phải

chỉ có mùa xuân ấm áp, mà còn có cả mùa hạ bức nồng, không phải chỉ có

trời đẹp, trăng cao mà còn có cả gió mưa bão tố.

Nhưng bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, tình cảm con người cũng thủy chung

son sắt trong vẻ đẹp của thiên nhiên. Đọc nội dung hát Đúm Thủy Nguyên

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



49



Khóa luận tốt nghiệp



càng thấy con người lao động thật thông minh, giàu trí tưởng tượng và rất yêu

thiên nhiên, vũ trụ của mình. Bầu trời bao la xanh vời vợi, với con người ngày

xưa thì đó là cả một thế giới bí mật vô cùng. Nhưng với lòng yêu thiên nhiên,

những nghệ sĩ dân gian đã hình dung bầu trời rất cụ thể, rất gần gũi và gắn bó

với con người:

“Trên trời có sao thất tinh

Có sao cân nước trung bình phương nam

Trên trời sấm chớp đã vang

Có giăng, có cuội, có bàn cờ tiên

Trên giời có cửa phật tiền

Có ông cầm quyền giũ mục nắng mưa

Làm cho thiên hạ được mùa

Vạn vật thảo mộc bốn mùa kỳ sinh”

[18, tr.38]

Đất càng gần gũi hơn đáng yêu hơn, đất là cội nguồn của mọi sự nảy nở

sinh sôi, cội nguồn của sự sống:

“Đất sinh vạn vật cỏ cây

Đình chùa Phật tự nay là đất gần

Đất có đài các phương dân

Quan sởn địa lý cửu nhân hợp hòa

Đất sinh ra ngói lợp nhà…”

[18, tr.38]

Đất trời không bao giờ độc lập với con người mà gắn bó và ủng hộ con

người, tạo nên vẻ đẹp rất thực mà rất thơ cho cuộc sống con người.

Ngay cả những hiện tượng tự nhiên bất lợi cho con người cũng được các

tác giả dân gian miêu tả bằng những mỹ cảm riêng biệt của người lao động, vì

người ta không nghĩ đến thời tiết mà chỉ nghĩ đến tình yêu hạnh phúc. Hoặc

có nghĩ đến cũng chỉ là để lo cho hạnh phúc, tình yêu trọn vẹn hơn. Chính vì

vậy mà cái bức nồng ở đây đã đến với con người cùng với sự âu yếm, thiết tha

của tình yêu thương đằm thắm:

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



50



Khóa luận tốt nghiệp



“Tháng ba bức nực chàng ơi

Em đi xuống chợ mua đôi quạt ngà

Đem về mà để trong nhà

Phòng khi có bức đôi ta sẽ dùng”

[18, tr.39]

Mưa là một hiện tượng tự nhiên dễ gợi buồn cho nhiều thi sĩ ngày xưa,

nỗi buồn đêm mưa vốn là một nỗi buồn lê thê dai dẳng. Với tâm hồn thơ trong

sáng, người lao động nhìn mưa vẫn đẹp, vẫn gần gũi:

“Mưa từ trong Quảng mưa ra

Mưa khắp Hà Nội, mưa ra Hải Phòng

Hạt mưa trong thật là trong

Mưa khắp Hải Phòng, mưa cả mọi nơi”

[18, tr.40]

Mỗi hạt mưa, mỗi tháng mưa đều gắn bó với cuộc sống thiết thực của

con người, gắn với tình yêu xứ sở, với hạnh phúc gia đình. Mưa mát mẻ trong

lành mang đến no ấm yên vui cho người lao động:

“Thanh minh sang tiết tháng ba

Hễ đi chơi hội mưa đà dù che

Tư, năm, tháng sáu mưa hè…”

[18, tr.40]

Yêu mến và gần gũi thiên nhiên hơn cả vẫn là người lao động. Nói đúng

hơn là người trực tiếp vật lộn với thiên nhiên để sinh tồn. Trước mắt họ bao

giờ cũng là một thiên nhiên rộng lớn. Từ đó, họ thấy được và tự hào về vị trí

của mình trong trời đất. Cái nhìn của họ, tình yêu của họ bao giờ cũng bắt đầu

từ một vũ trụ bao la.

Hát Đúm Thủy Nguyên - Hải Phòng, đặc biệt là hát họa và hát chèo đã

tận dụng vẻ đẹp của thiên nhiên tạo nên một chất thơ độc đáo. Nghe tiếng hát,

người nghe được thưởng thức những bài thơ trữ tình đầy chất họa. Hát Đúm ở

Thủy Nguyên - Hải Phòng là tiếng hát trái tim của người lao động. Đối với

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



51



Khóa luận tốt nghiệp



người lao động, thiên nhiên vốn gắn bó mật thiết trong đời sống sản xuất cũng

như trong tình cảm, tâm hồn. Những người lao động miền biển cũng vậy, khí

hậu miền biển, địa dư miền biển và nghề làm ăn trên sông nước khiến những

sản vật của thiên nhiên như cá, chim, những hiện tượng tự nhiên như gió,

mưa, sấm, chớp đều có mặt sinh động trong hát Đúm. Ở thời đại khoa học

chưa phát triển, nền kinh tế còn bị phong kiến kìm hãm, thì những điều kiện

tự nhiên ấy là cơm áo, là hạnh phúc của con người.

Chính vì vậy, trong hát Đúm ở Thủy Nguyên - Hải Phòng, những hiện

tượng tự nhiên đã được in sâu khắc đậm trong tình cảm con người, được con

người thổi cho sức sống tâm hồn và nâng lên thành vẻ đẹp, thành chất thơ trong

sáng. Và cũng chính trong điều kiện sống ấy mà tình cảm, tình yêu của con

người ở đây lúc nào cũng trong sáng, tha thiết và mãnh liệt. Đó là những tâm

hồn khỏe đẹp, dào dạt chất thơ và những tiếng hát đậm đà tâm hồn dân tộc.

2.3.2. Hát Đúm thể hiện cá tính và sinh hoạt của người Hải Phòng



Trên mỗi miền đất nước đều có những địa danh, tên gọi khác nhau, có

nghề nghiệp làm ăn sinh sống khác nhau nên văn nghệ dân gian cũng như văn

học nghệ thuật nói chung phản ánh cuộc sống tình cảm con người mỗi nơi ấy

cũng có những nét cá tính khác nhau. Hát Đúm Hải Phòng cũng vậy, ngoài

những nét chung của ca dao dân ca cả nước thì có một số nét riêng nào đó về

nội dung, hình thức đã thể hiện cá tính con người Hải Phòng.

Những câu ca xưa của người Hải Phòng đã nói lên tác phong của những

chàng trai Hải Phòng đến với người tình rất đỗi tự nhiên, mạnh bạo. Nó có gì

tưởng như thô bạo, sỗ sàng, nhưng xét cho cùng thì chỉ là tình cảm hồn nhiên

chân thực:

“Anh nay con trai Hải Phòng

Chạy tàu Phi Hổ vào trong Ninh Bình

Thấy em vừa đẹp vừa xinh

Anh thuận nhân tình anh nắm cổ tay



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



52



Khóa luận tốt nghiệp



Nắm rồi anh hỏi cổ tay

Ai nặn nên trắng ai day nên tròn”

[18, tr.27]

Trong các cuộc hát Đúm, bao giờ các chàng trai cũng cầm tay cô gái đang

hát với mình. Có phải do tục hát Đúm mà các chàng trai có thói quen cầm tay

con gái hay do tác phong của người Hải Phòng mà thói quen ấy được hình

thành trong hát Đúm xưa nay. Nhưng trong văn học dân gian Hải Phòng ta thấy

hầu như lúc nào đôi trai gái gặp gỡ yêu nhau thì phút đầu các chàng trai cũng

đến cầm tay. Mới gặp nhau người con gái đã bị nắm cổ tay, bị chất vấn:

“Gặp đây cầm lấy cổ tay

Ai vuốt lên trắng, ai day lên tròn

Gặp đây anh hỏi nước non

Em có chồng chửa hay còn giá cao

Còn không cho chúng anh vào

Hay là đã có nơi nào thì thôi…”

[18, tr.27]

Các chàng trai không cần rào mở, đón đưa mà gặp nhau là để bõ lúc

xanhau:

Gặp nhau ta nắm cổ tay

Bõ đêm quên ngủ bõ ngày quên ăn

Đến nỗi các cô gái muốn giữ phần e lệ, giữ tình yêu kín đáo hơn, vẫn

thường phản đối với các chàng:

“Xin chàng buông tay em ra

Để em đi chợ kẻo đà chợ trưa”

“Xin chàng buông tay em ra

Kẻo rầu long thiếp xót xa lòng chàng”

[18, tr.27]

Tuy vậy, họ yêu nhau là yêu tha thiết, là đến với nhau bằng tất cả sự

hồn nhiên, trong sáng của tình yêu tuổi trẻ, “Yêu nhau từ thuở buôn thừng” từ

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



53



Khóa luận tốt nghiệp



lúc “Mình chăn trâu ta cũng chăn trâu”. Chính vì vậy mà nó có cơ sở vững

chắc, có chiều sâu của tình cảm:

“Yêu nhau quá đỗi quá chừng

Trèo non quên mệt ngậm gừng quên cay

Nói đây lại bảo nói hay

Ta yêu mình từ thuở trên tay bác mẹ bế bồng”

[18, tr.28]

Yêu nhau là tất cả vì nhau. Dù có phải gian truân, đau đớn cũng vẫn

coi thường:

“Vì nàng anh phải đi đêm

Ngã năm ba cái đất mềm không đau

Vì nàng anh phải đi thầm

Ngã sấp đầu gối, ngã thâm bánh chè”

[18, tr.28]

Tình yêu không câu lệ vào vật chất, không quản ngại gần xa: “Yêu nhau

xa mấy cũng gần”, yêu nhau thì “Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”:

“Yêu nhau như bát nước sung

Chồng hôi như cú em cũng nằm chung một giường

Yêu đến nỗi:

Một điều mình quyết lấy ta

Thì ta bán cửa bán nhà ta theo

Bán từ cái cối đâm bèo

Cái chày đâm rốc ta theo cô mình

Yêu đến liều lĩnh:

Em trông thấy anh em cũng yêu rồi

Biết rằng chị cả không rời anh ra

Dù anh chín vợ mười con

Thì em cũng ghé mình con em vào

Chị cả có bảo làm sao

Dao găm cất váy, em vào chơi xuân.”

[18, tr.28]

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



54



Khóa luận tốt nghiệp



Gần nhau thì yêu nhau tha thiết, xa nhau thì nhớ nhau và giữ lòng chung

thủy. Sau những ngày hội vui, những buổi gặp gỡ, họ phải tạm biệt nhau ra về,

ai về nhà nấy, một nỗi bâng khuâng, nhớ nhung da diết tràn ngập trong lòng:

“- Ra về mở cửa trông trời

Trông đường đường vắng, trông người người qua

- Ra về thiếp chỉ nhớ chàng

Chàng nhớ thì ít, em thương thì nhiều”

[18, tr.29]

Họ không muốn rời nhau ra:

“Gặp nhau ở chốn linh đình

Anh đi em quyết gieo mình xuống đây

Dao vàng cắt ruột em này

Không bằng chàng bỏ em đây mà về”

[18, tr.29]

Khi phải xa nhau họ ước ao mình như con chim biết bay để đi tìm người

yêu gặp lại:

“Ước gì mình thiếp như chim

Thiếp xin chắp cánh đi tìm tận nơi

Ước gì có cánh mà bay

Thì em bay tới nước Tây tìm chàng”

[18, tr.29]

Nói chung, tình yêu của người lao động ở đâu cũng mạnh bạo, hồn

nhiên, thủy chung, tha thiết. Nhưng ở đây từ phút đầu gặp gỡ đến cách thổ lộ

tâm tình, ước mong, thương nhớ vẫn có gì cụ thể, mạnh bạo hơn, tự nhiên và

mộc mạc hơn. Mạnh bạo đến xô bờ nhưng không thô lỗ, tầm thường, sỗ sàng

mà vẫn giữ được vẻ trong sáng của tình cảm người lao động.

Cuộc sống của người Hải Phòng hàng ngày tiếp xúc với thuyền bè, sông

nước, bến bãi, kho tàng. Dưới chế độ phong kiến người nông dân rất nghèo,

cái nghèo của người nông dân nói chung là:

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



55



Khóa luận tốt nghiệp



“Lấy anh em chẳng làm gì

Sáng thì đi mót tối về lại rang

Chày tra cối đất sẵn sàng

Đèn trăng, quạt gió, trấu càng sạch tinh”

[18, tr.30]

Nhưng cái nghèo của người nông dân miền biển có khác, ngoài việc đi

mót, họ có sông để kiếm thêm con cua, con cá cải thiện đời sống gia đình:

“Lấy em thì sướng bằng vua

Em đi bắt cáy, bắt cua, bắt càng

Em về em nấu em rang

Em đi mua rượu mời chàng xơi cua”

[18, tr.30]

Người Hải Phòng chịu khó lam lũ làm ăn sinh sống trong những ngày

khó khăn, sau mùa gặt hái rỗi rãi họ lại rủ nhau đi ra sông kiếm thêm con cáy

làm mắm, đồng tiền mua rau. Tuy có cực nhọc vất vả nhưng đó là nguồn

sống, là lối thoát cảnh chết đói trong những ngày giáp hạt.

Là nơi trên bến dưới thuyền nên người Hải Phòng đã sớm có mối quan hệ

buôn bán với các tỉnh. Những chiếc tàu của hãng Bạch Thái Bưởi đã thành cái

tên quen thuộc với người Hải Phòng lúc ấy. Họ từ Hải Phòng đi Bắc Ninh, đi

Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội, Hòn Gai… và nhiều tỉnh khác trên miền Bắc. Họ

buôn bông, buôn bè và mọi thứ khác cần dùng cho đời sống hàng ngày.

Những cô gái có thể nói: “Em là con gái Hải Phòng, em chạy tàu nước

vào trong Ninh Bình”, có thể mua nón ở Bắc Giang, có thể tìm người yêu ở

tỉnh Đông (Hải Dương) và những chàng trai từ tỉnh “Đáp Cầu” (Bắc Ninh) có

thể “Chạy tàu Phi Hổ xuống chơi Hải Phòng”. Do mối quan hệ ấy mà trong

lúc giao thông đường bộ chưa phát triển mấy thì cái cảnh thuyền bè đi lại tấp

nập ở một nơi trên bến dưới thuyền như Hải Phòng là tất nhiên và đó là một

đặc trưng riêng của Hải Phòng. Người Hải Phòng phải bươn trải với sóng gió



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

×