1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Văn hóa - Lịch sử >

Thứ nhất là lễ tế Thành Hoàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.46 KB, 81 trang )


Trường ĐHSP Hà Nội 2



16



Khóa luận tốt nghiệp



giáp rước bánh dày về miếu Phục Lễ cúng tiến Thành hoàng. Dâng lễ cúng

thánh xong là đến lễ chấm giải làm bánh dày. Ban giám khảo do các vị bô lão,

chức sắc, chức dịch trong làng cử ra. Cỗ bánh của giáp nào đạt giải nhất, làng

thưởng cho mời đoàn chèo, rối nước về phục vụ tại nhà trưởng giáp, có năm

được tổ chức biểu diễn tại hồ Rối của làng. Ngày mồng 7 tháng Chạp ba xã

Phục Lễ - Phả Lễ - Lập Lễ dâng lễ tế ở miếu ba xã. Ngoài ra, Phục Lễ còn có

lễ tế hạ điền vào tháng 6 âm lịch hàng năm.

Thứ hai là hội làng

Hội làng còn gọi là hội xuân Phục Lễ được tổ chức từ mồng 4 đến mồng

10 tháng Giêng âm lịch hàng năm, tại khu vực chùa Kiến Linh. Việc tổ chức

hội xưa chủ yếu là của quan viên trong làng, trong giáp và các cai giáp, với

vai trò quan trọng của cai giáp theo lệ luân phiên. Ngày nay xã bầu ra Ban tổ

chức và Ban khánh tiết gồm đại biểu các ngành, đoàn thể quản lý, điều hành

lễ hội.

Hiện nay, sinh hoạt lễ hội không còn có sự phân biệt ngôi thứ. Tất cả mọi

người từ già trẻ, trai gái, giàu nghèo, dù quê ở Phục Lễ hay ở nơi khác đến

nhập cư đều có quyền tham gia lễ hội. Đặc biệt còn có những đoàn khách từ

nhiều nơi xa và các địa phương lân cận về dự hội, dâng lễ vật lên thần, phật.

Vào ngày hội khắp xóm thôn ồn ào nhộn nhịp từ sáng đến tối. Trong

chùa khói hương nghi ngút, ngoài sân cờ tàn phấp phới, dưới hồ múa rối, trên

bờ thì thi đấu vật, giải cờ người, đu tiên, tổ tôm, hát đúm. Quanh năm vất vả

với công việc đồng áng, chài lưới, nhân ngày hội mở, ai nấy trong vùng đều

nghỉ việc đi dự hội. Trong những ngày này, du khách từ khắp nẻo đường tấp

nập đổ về, áo quần đua sắc, ai nấy đều hồ hởi, vui tươi. Xóm thôn, cảnh vật ở

đây vốn yên tĩnh bỗng trở nên náo nhiệt, nhất là vào ngày cuối. Người vào

chùa, người xem đấu cờ, tổ tôm điếm, đánh đu, đấu vật, người dự hát Đúm,

chen chúc, ngược xuôi. Môn tổ tôm điếm thu hút những nam giới trung và

cao tuổi tham dự, ban tổ chức phải lo chuẩn bị 6 điếm. Mỗi điếm một trống

con để người chơi sử dụng báo hiệu ăn hoặc không ăn bài, bố trí người chia

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



17



Khóa luận tốt nghiệp



và xuống bài. Môn tổ tôm điếm thể hiện sự đấu trí cao thấp của người chơi và

nghệ thuật của người xướng bài.

Xưa kia đi dự hội xuân Phục Lễ, các già thường mặc áo dài nâu, đội nón

thúng quai thao, chân mang dép lốp vào chùa tụng kinh niệm phật. Các cụ lão

ông khoác áo lương the, khăn xếp, chân mang guốc mộc, tay cầm ô che,

thưởng lãm cảnh xuân. Các chàng trai đi giầy Gia Định, mặc áo the, quần

trắng, đội mũ cát hay che ô. Các cô thôn nữ đầu chít khăn đen mỏ quạ, mặc

yếm trắng hay khoác áo đồng lầm, mặc quần thâm mới đi chơi hội, trẻ em có

quần áo mới. Hội xuân còn có sinh hoạt văn hóa nổi bật như chơi cờ tướng là

một hoạt động lôi cuốn được nhiều du khách tham gia. Đấu cờ người không

chỉ là cuộc thi tài cao thấp giữa các kỳ phùng địch thủ, mà còn là cuộc trình

diễn sắc đẹp của các cô gái làng trong vai quân xanh, quân đỏ, với đủ tướng,

sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt.

Hội xuân Phục Lễ còn có đu Tiên trồng ở bãi chợ Phục, cột đu được

chọn những cây tre hóa to cao, ròng rọc đục bằng tre làm ba tầng để đánh

được lên cao.

Hoạt động vui chơi lôi cuốn được đông đảo người tham gia và thưởng

thức nhất trong hội xuân Phục Lễ là hát Đúm. Hát Đúm là hình thức giao

duyên, trao đổi tình cảm nam nữ bằng những làn điệu dân ca đối đáp quen

thuộc. Có lề lối trình tự theo bài văn nhất định với lối gieo vần thể lục bát, lục

bát giảm thất hay lục bát biến thể. Tục truyền hát Đúm ở Phục Lễ nói riêng và

tổng Phục nói chung có từ nghìn năm trước. Hát Đúm Phục Lễ thường là

những câu ví von xa xôi thăm dò ý tứ mà hát những bài, những câu gần gũi

với cuộc sống thực tại hơn. Hát Đúm là loại hình nghệ thuật đặc sắc góp phần

làm phong phú cuộc sống vùng ven biển Thủy Nguyên.

1.2.3. Tín ngưỡng dân gian



Phục Lễ nằm trong không gian sinh tồn của con người thời tiền sử thuộc

di chỉ Tràng Kênh (Minh Đức - Thủy Nguyên), trải qua hàng nghìn năm đấu



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



18



Khóa luận tốt nghiệp



tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm, cộng đồng dân cư Phục Lễ đã xây

dựng được truyền thống văn hóa giàu bản sắc riêng và đậm đà tính dân tộc.

Tôn giáo chủ yếu ở đây là đạo Phật. Từ xưa, người dân trong xã đều có tục lệ

thờ cúng tổ tiên, gắn bó với sinh hoạt cộng đồng. Thờ Phật là tín ngưỡng tự

do, tự nguyện, những người đi lễ chùa trước kia hầu như cả làng, cả xã.

Nhưng hiện nay chủ yếu là các cụ già. Việc tế lễ thường diễn ra vào ngày rằm,

mồng một âm lịch hàng tháng và các dịp Tết nguyên đán. Đồ lễ trong chùa là

cỗ chay, oản, gạo nếp, hoa quả, cau, chè.

Việc thờ cúng tổ tiên của người Phục Lễ rất tôn nghiêm, cẩn trọng nhưng

không cầu kỳ và không nhuộm màu mê tín dị đoan. Nhà nào cũng có bát

hương, thậm chí có gia đình có từ năm đến bảy bát hương. Gia đình nào có

người chết trẻ thì lập bát hương thờ riêng, bên cạnh bàn thờ tổ tiên. Hàng

tháng vào mười tư hôm rằm, ba mươi, mồng một, người ta thắp hương lên bàn

thờ. Ngày giỗ, ngày tết có một đến hai mâm cơm cúng để nhớ ngày mất của

người quá cố. Ngày tết thì cúng cầu may, mong cho mọi người trong gia đình

mạnh khỏe, bình an.

Trước đây, Phục Lễ có tục trọng lão, người già đến 60 tuổi là lên lão,

phải có lễ bàn xôi, con gà, cúng Thành hoàng để trình làng thì được miễn phu

phen, tạp dịch. Lễ mừng thọ 70 tổ chức cỗ bàn chỉ có những gia đình giàu và

người có chức tước. Việc mừng thọ không thành lệ bắt buộc.

Tổng Phục Lễ (Thuỷ Nguyên) xưa là các xã Phục Lễ, Lập Lễ, Du Lễ

(Tam Hưng) Thuỷ Nguyên ngày nay. Về ngữ âm, từ vựng đều thuộc ngữ hệ

Việt Mường, không có phương ngữ riêng. Với các miền đất cổ, theo tập tục

các hội đều được mở vào đầu xuân. Đã có những tổ chức sinh hoạt văn hóa,

văn nghệ dân gian, về hình thức gần giống với hội hát Đúm. Hát Đúm ở Phục

Lễ bắt nguồn từ xa xưa với âm điệu ngữ điệu, nhạc điệu rất đơn giản nguyên

sơ, chỉ khác với nói là có giai điệu biểu cảm nghe như dân tộc Mường (Hòa

Bình) với ngữ điệu hát sắc bùa hay hát ví, còn gọi là “Hát ví đúm”, với hình



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



19



Khóa luận tốt nghiệp



thức phô diễn như hát Quan họ (Bắc Ninh), hát Xoan - Ghẹo (Phú Thọ), hát

Khắp dân tộc Thái. Nhưng vì cuộc sống vất vả nơi cuối bãi lại thường xuyên

làm lụng xa nhà chỉ có mùa xuân là “trời yên biển lặng” nhàn rỗi, nên người

dân lấy đó làm mùa tụ họp mở hội. Vui nhất là tuổi trẻ vào hội hát Đúm, dài

rộng không gian, thời gian trai gái gặp gỡ trao tình, thi tài khoe sắc đó cũng là

dịp tìm hiểu xây dựng tổ ấm cả đời. Đa số người xưa đã từ đây nên vợ nên

chồng, khác với hội hát Quan họ không được lấy nhau.

Theo một lời nghệ nhân kể lại thì Hải Phòng có nhiều địa phương có hát

Đúm như Cát Bà, Cát Hải, An Hải, Đồ Sơn, Thủy Nguyên. Hát Đúm được

diễn ra trên bãi biển, trên cánh đồng. Khi anh câu cáy, đào cua, giăng thả lưới

chài, theo trâu, đắp bờ, cuốc cỏ, chị đi mò cá, mò ốc, vui trao duyên tình bằng

những làn điệu dân ca đối đáp với những câu vần, theo thể lục bát, lục bát

biến thể.

Ở mỗi vùng thì hát Đúm lại có những đặc trưng riêng phụ thuộc vào điều

kiện tự nhiên - văn hóa - xã hội của vùng ấy. Song có lẽ hát Đúm Thủy

Nguyên mà cụ thể là hát Đúm ở tổng Phục Lễ xưa (nay là xã Phục Lễ ) có nét

đặc trưng độc đáo hơn cả. Đây không chỉ là quê hương, là cái nôi của hát

Đúm mà làn điệu hát Đúm được bắt nguồn từ “tục bịt mặt” (của phụ nữ tổng

Phục) và “hội Mở mặt” khiến cho hội làng Phục Lễ mang một nét văn hóa

riêng không gì trộn lẫn.

Tổng Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên còn nổi tiếng là nơi có con gái xinh

đẹp nhất vùng với tiếng cười trong trẻo, với giọng nói ngọt ngào, đoan trang.

Tổng Phục có con gái đẹp vì tương truyền hướng chùa của cả làng là hướng

“Chùa Tiên”. Với tục lệ độc đáo rất xa xưa của vùng quê này là con gái

thường quanh năm, hầu hết là che kín mặt. Cứ 15 - 16 tuổi trở lên là các cô

thôn nữ lại dùng khăn mùi xoa hay khăn bông bịt kín mặt chỉ để lộ đôi mắt

lúng liếng, đã làm cho các chàng trai gần xa háo hức chờ đón ngày hội xuân

(Hội mở mặt), bởi chỉ có ngày này các cô mới gỡ bỏ khăn che mặt, để thiên

hạ được chiêm ngưỡng tường tận dung nhan.

Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



20



Khóa luận tốt nghiệp



Có nhiều thuyết từ xưa truyền lại về tục bịt mặt rằng:

Từ trước trận chiến thắng quân Mông - Nguyên trên sông Bạch Đằng

năm Mậu Tý (1288), quân dân ta dưới triều Trần đã thường chặn đánh, tiêu

diệt các đoàn thuyền tiếp vận lương thảo của giặc từ ngoài cửa Bạch Đằng,

xác giặc Mông - Nguyên trôi dạt chất chồng hai bên bờ sông. Với cội nguồn

tín ngưỡng bạch vật sơ khai, cùng lòng thương đồng loại, giữa cuộc sống ven

biển khí hậu thiên nhiên luôn đổi thay, sóng to bão lớn thất thường, sống chết

may rủi luôn xảy ra bất ngờ. Với nhận thức ấu trĩ nguyên sơ, người ta cho

rằng thiên tai bệnh tật, giàu nghèo, sống chết thành bại… đều do những thế

lực thần linh siêu hình, cùng tà ma quỷ quái gây ra. Với tâm thức tín ngưỡng

sùng bái pháp thuật của Đạo Lão Trang, lại gặp cảnh tử khí xông lên gây

nhiều bệnh hoạn và đêm đêm thường lập lòe ma trơi bởi chất lân tinh từ

những xác người trôi dạt, rữa nát trên bến bãi, mà nhân dân ta cho rằng chúng

còn đang trong cơn đói khát, do ta đánh phá chìm đắm hết lương thảo, nên

trước khi chết chúng chưa được bữa ăn nào no. Bởi vậy, dân ta mời thầy phù

thủy lập đàn bên cửa sông Bạch Đằng cúng lễ tống tiễn các vong hồn đói khát

ấy còn đang dật dờ lẩn khuất quấy nhiễu ở khu vực này. Trong buổi lễ các

vong hồn ấy, các cụ cao tuổi ở địa phương tham dự đàn lễ có hỏi “hồn muốn

gì”, qua thanh đồng chúng đáp rằng “Cho gì cũng được”. Các cụ sẵn lòng căm

thù giặc, nóng nảy bực tức quát to đáp lại “cho chúng mày ăn máu… (của đàn

bà)”. Sau đó, các cụ tự thấy lỡ lời và quần chúng vùng này đã xem đó như

một lời nguyền, sợ các vong hồn sẽ theo dõi hút máu phụ nữ, nên đàn bà con

gái ở đây từ đó không dám ra khỏi nhà nếu chưa che kín mặt. Đặc biệt, những

ai khi sinh nở, thường phải hòa một chậu nước có màu đỏ như máu để làm

phép trừ tà ma, đem ra sông đổ. Không chỉ bên này cửa Bạch Đằng địa bàn

Thủy Đường mà đối diện bên kia cửa Bạch Đằng - xã Hà Nam - huyện Yên

Hưng - tỉnh Quảng Ninh, giới phụ nữ cũng đều sợ tà ma này, đã đối phó bằng

cách vá thật dày đũng váy, nhất là những ngày có kinh nguyệt lại càng phải



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



21



Khóa luận tốt nghiệp



che giấu kín đáo hơn. Vì thế, vùng này có phương ngữ lưu truyền trong dân

gian: “Phục, Phả bịt má, Hà Nam vá trôn”.

Còn có thuyết khác cho rằng khi Thoát Hoan đem quân sang xâm lược

nước ta, lần thứ hai có đem theo tên hướng đạo (đạo giáo) Nguyễn Nhan, vốn

phạm tội chám quyết, đã tình nguyện lấy công chuộc tội dùng phép phi thủy

giúp quân Mông - Nguyên. Trên trận chiến Bạch Đằng, tiết chế Đại vương

Trần Hưng Đạo chém đầu. Nguyễn Nhan chết nhưng linh hồn hắn vẫn hiện

lên những bóng hình ma quái để trêu ghẹo đàn bà con gái, hễ hồn nó xâm

phạm vào ai thì người ấy chết. Vì vậy nó còn có tên Phạm Nhan.

Sợ hãi vong hồn này, đàn bà con gái vùng cửa sông Bạch Đằng thuộc xã

Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên thường phải bịt mặt tránh hồn ma quái ác của

hắn bắt gặp, trêu ghẹo. Chỉ có hội xuân trước của đình, đền, được các thánh

linh là những vị anh hùng đã từng diệt giặc ngoại xâm, cứu dân độ thế chứng

kiến họ mới bỏ khăn bịt mắt ra, do đó trở thành “Hội mở mặt”.

Tục “bịt mặt” như hầu hết các tục khác đều có nguồn gốc sâu xa của nó,

ở đây nguyên phát là do đặc điểm địa lí. Vì môi sinh tự nhiên ở tổng Phục là

nơi bờ sông, ven biển, bãi sú hoang vắng. Qua quá trình nhiều năm sau băng

hà, nước biển lùi dần, được phù sa rửa mòn và từ các dòng chảy đầu nguồn,

qua sông Bạch Đằng trôi về tích tụ, bồi đắp đã trở thành vùng đất rộng, màu

mỡ, phì nhiêu. Sau những trận chiến thắng giặc ngoại xâm đất nước được

thanh bình, nông dân và ngư dân các nơi tiếp tục đến đây cư ngụ, khai hoang,

lấn biển, lập trại trồng tỉa rau, lúa, chài lưới và mò bắt hải sản.

Do phải vật lộn với sóng thần, gió biển, dầm phơi với nắng lửa, hít thở với

mặn sít, nhất là với chị em phụ nữ luôn luôn phải thay nam giới đi buôn bán

trên sông, đi lưới chài trên biển, đi quân dịch nơi xa, đồng bãi quanh năm đều

do chị em lo. Để khắc phục hoàn cảnh khắc nghiệt ấy họ đã nghĩ ra tấm khăn

che mặt, bịt kín cả phần trên đầu và phần dưới mắt. Phần là để bảo vệ làn da

khỏi bị ảnh hưởng của gió biển, phần là để giữ ấm vào mùa đông, đặc biệt là



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



22



Khóa luận tốt nghiệp



vào mùa hè để làn da không bị rám nắng. Lúc đầu thì một nhóm nhỏ làm sau

lan ra toàn thể bắt chước kinh nghiệm làm theo dẫn đến nhiều nơi trong vùng

đều làm, lâu dần thế hệ sau tiếp bước thế hệ trước tự nhiên thành lệ tục. Cả khi

ở nhà các cô cũng quấn khăn, họ chỉ kéo xuống cằm để tiện sinh hoạt.

Mỗi địa phương trên đất nước ta đều có những tục lệ, đặc trưng riêng, có

những tục lệ chỉ là thói quen và sẽ mất dần theo thời gian. Nhưng có những

tục lệ được duy trì lâu dài và trở thành một yếu tố văn hóa đặc sắc văn hóa

vùng. “Tục bịt mặt” của các cô gái Phục Lễ cũng đã dần dần trở thành nét văn

hóa tiêu biểu của Thủy Nguyên và được giữ nguyên trong hội làng - hội hát

Đúm. Trong không khí vui tươi náo nhiệt của hội làng mà các cô gái vẫn cứ

bịt kín mặt làm cho các chàng trai rất tò mò. May thay họ có câu hát để làm

quen để giao tiếp, “nói chuyện” và hi vọng các cô sẽ “mở mặt” để các chàng

được ngắm dung nhan xinh đẹp của các cô. Nhưng không phải lúc nào lời đề

nghị của các chàng cũng được chấp thuận, có cô gái trong suốt quá trình hát

hội cứ bịt kín khăn ở mặt làm cho các chàng trai thêm tò mò, háo hức. Các cô

chỉ thực sự “mở mặt” khi các cô được giao tiếp với các chàng mà thấy “tâm

đầu, ý hợp” thấy quyến luyến. Và chính điều này càng làm cho hội hát Đúm

càng thêm hấp dẫn và lôi cuốn.

Tục “bịt mặt” của phụ nữ thuộc tổng Phục Lễ cùng với “hội Mở mặt” và

làn điệu hát Đúm đã gắn kết với nhau tạo nên diện mạo văn hóa riêng, có sức

hút cộng đồng và tạo nên cảm hứng cho mọi người diễn xướng. Phục Lễ là

một xã có địa hình, khí hậu đặc trưng cho miền đất ven biển thuộc huyện

Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Trải qua nhiều thế kỷ đến nay, vùng đất

này đã có những thay đổi nhất định. Nhưng văn hóa dân gian, nghệ thuật dân

gian vẫn được bảo tồn và ngày càng phát huy trong cuộc sống hiện đại. Đặc

biệt hơn, ở xã Phục Lễ, đã từ lâu tồn tại hát Đúm, một loại hình dân ca giao

duyên đặc sắc chứa đựng nét văn hóa riêng mang đậm tính bản địa. Trong 8

huyện ngoại thành thuộc thành phố Hải Phòng và 37 xã của huyện Thuỷ



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



23



Khóa luận tốt nghiệp



Nguyên thì xã Phục Lễ là trung tâm bảo lưu và duy trì nghệ thuật hát Đúm cổ

truyền cho tới nay.

Tiểu kết chương 1

Là một vùng đất được hình thành sớm, Thủy Nguyên chứa đựng những

yếu tố văn hóa độc đáo, đặc sắc. Những di chỉ khảo cổ của người Việt ở Tràng

Kênh, Việt Khê, những di tích văn hóa như đình, chùa, miếu… đã khẳng định

vùng huyện Thủy Nguyên là nơi lưu giữ những dấu ấn văn hóa cổ vô cùng

quý giá. Tổng Phục Lễ là tiêu biểu cho vùng địa hình, khí hậu đặc trưng của

miền đất ven biển này nơi đã hình thành “tục bịt mặt” của phụ nữ, một trong

những tục lệ cổ hiếm hoi và chính từ “tục bịt mặt” này đã hình thành nên làn

điệu hát Đúm. Đó chính là cơ sở, là nền tảng quan trọng để khẳng định yếu tố

độc đáo, đặc sắc của loại hình dân ca cổ còn được bảo lưu và phát huy trên

vùng đất tổng Phục Lễ - huyện Thủy Nguyên - thành phố Hải Phòng. Mặc dù,

hát Đúm và tục bịt khăn che mặt có ở cả năm xã Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ, Du

Lễ và Tam Hưng nhưng điểm hát Đúm hàng năm được chọn ở chùa Phục Lễ.

Vì vậy, Phục Lễ trở thành trung tâm hát Đúm của cả vùng và mang màu sắc

riêng của vùng tổng Phục Hải Phòng xưa.

Hát Đúm hình thành và phát triển trong xã hội cũ gắn với nền văn hóa

nông nghiệp, nay trong xã hội hiện đại, vai trò của nó trong đời sống văn hóa

tinh thần của người dân Thủy Nguyên không thay đổi. Từ đời này qua đời

khác, hát Đúm cùng với hội chùa làng đã là một nhu cầu không thể thiếu được

về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của nhân dân vùng này.



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



24



Khóa luận tốt nghiệp



Chương 2

LÀN ĐIỆU HÁT ĐÚM Ở XÃ PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG

2.1. KHÁI NIỆM HÁT ĐÚM

Trên phương diện ngữ nghĩa, đại từ điển tiếng Việt giải nghĩa: “Đúm là

sự tập trung nhiều người một chỗ để vui chơi hát hò” [7, tr.27].

Một số nhà nghiên cứu văn hóa xã hội cho rằng Đúm đồng nghĩa với

cụm từ “Đàn Đúm” chỉ sự tập hợp, tập trung đông người vui chơi. Từ điển

tiếng Việt giải nghĩa : “Đàn Đúm là tụ tập nhau lại để chơi bời”

Trong cuốn “Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam” giải nghĩa: “Hát

Đúm” là lối hát dân gian có nhiều người tham gia.

Trong cuốn “Non nước Đồ Sơn” tác giả Trịnh Cao Tưởng viết: “Đúm

như nguyên nghĩa của nó, là một tập hợp không có số lượng chính xác, ví như

đúm mạ, đàn đúm… “Đúm” có liên hệ gần gũi với các từ như: túm, tụm,

cụm… cho nên người ta cũng có khi gọi hát Đúm là “hát Túm” hay “hát

Đám”. Như vậy, hát đúm có nghĩa là từng đám, từng cụm trai gái tập hợp

nhau lại để hát giao duyên…”

Trong cuốn “Dân ca người Việt”, PGS. TS Tú Ngọc nhận định: “Ở đồng

bằng Bắc Bộ, hầu như địa phương nào cũng có lối hát giao duyên riêng của

mình với những tên gọi nôm na như hát đúm, hát ví. Đây cũng là những lối

hát đối đáp nam nữ dựa trên một làn điệu phổ những phổ thơ dân gian đơn

giản, quen thuộc như thể bốn chữ, thể lục bát” [12, tr.132].

“Bên cạnh hát đúm, chúng ta còn thấy có hát ví. Tại sao cùng một loại hát

giao duyên tương tự mà người ta lại phân là “hát đúm” và “hát ví”? Tìm hiểu

và so sánh những điệu hát của những hình thức dân ca này trong cùng một địa

phương, chúng ta mới chỉ thấy có xuất xứ của từ “ví” là ở phần nội dung văn

học (sự sánh ví, sự ví von); còn từ “đúm” là do chữ “đàn đúm” hoặc “quả

đúm trầu”, trước hoặc trong khi ca hát, trai gái trao mời nhau “quả đúm trầu”

[12, tr.134]. Nhận định của PGS. TS Tú Ngọc đã mở rộng khái niệm hát Đúm

với sự tập trung vào hình thức diễn xướng, đặc tính, thể loại.



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Trường ĐHSP Hà Nội 2



25



Khóa luận tốt nghiệp



Là loại hình dân ca giao duyên, hát Đúm - một sinh hoạt văn hóa nghệ

thuật dân gian được biểu hiện ở những góc độ khác nhau. Lúc nó đứng độc

lập, hát lẻ, hát tự phát trên cánh đồng, lúc bên bến sông trong khi lao động, có

lúc nó được tổ chức thành đội hình theo nhu cầu của cuộc chơi mà ta gọi là

“hát Hội”; “hát Hàng”…

2.2. LÀN ĐIỆU HÁT ĐÚM Ở XÃ PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG

2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của hát Đúm ở xã Phục Lễ - Thủy

Nguyên - Hải Phòng



Hải Phòng khác với nhiều vùng biển khác, đây là vùng đất lâu đời và

phát triển từ rất sớm. Chính vì là vùng đất phát triển từ rất sớm nên nơi đây

cũng đã hình thành và phát triển nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, đặc biệt

phải kể đến hát Đúm. Hát Đúm cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian

khác phát triển không đồng đều ở những vùng khác nhau. Những vùng đất

được hình thành sớm thì có đời sống văn hóa tinh thần phong phú và đặc sắc

hơn. Hát Đúm ra đời từ cuộc sống sản xuất chiến đấu và sáng tạo của nhân

dân lao động. Nhưng ở những vùng khác nhau, nó lại có nguồn gốc ra đời và

quá trình phát triển khác nhau. Có nơi hoàn chỉnh, phong phú về đề tài, nội

dung, đa dạng về mặt tiết tấu nhưng lại nghèo về làn điệu. Có nơi phong phú

về làn điệu nhưng lại đơn điệu và nghèo về lời ca. Có nơi lại nghèo cả làn

điệu lẫn lời ca.

Nơi tập trung và tiêu biểu hơn cả của hát Đúm Hải Phòng là huyện Thủy

Nguyên. So với các vùng khác thì vùng này đất đai và con người phát triển sớm

hơn. Tuyệt đại đa số dân chuyên làm nghề nông, chỉ có một số xã như Phả Lễ,

Lập Lễ, Phục Lễ có nghề đánh cá biển, ở đây hát Đúm được sản sinh và tập

trung chủ yếu ở vùng nông nghiệp. Đặc biệt hội làng mùa xuân ở xã Phục Lễ Thủy Nguyên là nơi phát triển cao nhất của hát Đúm, chẳng những giàu về số

lượng bài ca mà đề tài, nội dung tư tưởng cũng rất phong phú, đa dạng.



Nguyễn Thị Luyên



Lớp K35 Lịch sử Văn hóa



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

×