Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.18 KB, 65 trang )
Trong truyện ngắn Cải ơi, việc bất ngờ bỏ nhà đi của đứa trẻ đã khiến
ông Năm Nhỏ ân hận và khổ sở suốt đời vì nỗi oan giết con riêng của vợ. Ông
Năm Nhỏ đã phải lưu lạc thăng trầm nơi xứ lạ quê người, qua mười hai năm
rong ruổi trên khắp các nẻo đường, làm đủ mọi nghề tìm đủ mọi cách để
mong tìm được đứa con: “Ngã ba Sương nhiều đêm thổn thức trong tiếng
“Cải ơi”, nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu tao tác giữa lưng trời” [42;9].
Đặt ông Năm Nhỏ vào tình huống đó, Nguyễn Ngọc Tư đã cho thấy trọn vẹn
tình yêu thương tha thiết của một người cha, thấy sự kiên trì, lòng quyết tâm
để chứng minh cho sự trong sạch của chính mình. Chúng ta cũng thấy được bi
kịch của con người, khi bị hiểu lầm bị mắc tiếng oan.
Tình huống bất ngờ xảy đến với nhân vật Sa trong Chuyện vui điện
ảnh, cũng khiến người đọc không khỏi xót xa. Chỉ vì một vai diễn mà thái độ
của mọi người thay đổi với nhân vật Sa. Hôm đài truyền hình chiếu bộ phim
chiến tranh, hồi đầu mọi người còn khen Sa mặc bộ đồ oai nhưng mọi người
đã không còn nhớ đến “chú Sa” ở xóm Cựa Gà, mà chỉ còn nhớ “thằng Cón”
ác ôn. Dường như vai diễn đó đã khiến nhân vật Sa đánh mất đi một điều gì
đó không thể tìm lại đựơc, cũng không thể bù đắp được, những tình cảm ngọt
ngào tình nghĩa làng xóm giờ không còn được như xưa.
Vết chim trời lại là tiếng khóc nghẹn ngào giữa trưa, mang theo bao đau
đớn dằn vặt của nhân vật người cha. Câu hỏi “Sao bay lại bắn Út Hơn của
má?” như xoáy sâu vào nỗi đau đã vùi chôn vào dĩ vãng khi hai anh em phải
đứng ở hai đầu chiến tuyến. Chính từ buổi trưa hôm ấy nhân vật tôi đã biết
“cha vừa vào cõi chết”, buổi trưa định mệnh ấy đã ám ảnh nhân vật người cha
ám ảnh mọi người trong gia đình. Sự chờ đợi đằng đẵng mù khơi, biết đến
bao giờ, người cha mới có được sự thanh thản? Bi kịch sảy ra khi quá khứ bị
đào xới, khi con người ta cố gắng quên mà không được.
44
Đối với mỗi con người, nỗi đau mất mẹ là nỗi đau khôn tả. Trong Gió lẻ,
nhân vật Mỹ Ái cũng đã chịu bao đau đớn khi mẹ treo cổ tự vẫn còn người
cha thì bạc tình, dối trá. Mỹ Ái bỏ nhà đi rồi chịu bao đắng cay tủi nhục trên
đường đời khiến cô quên cả tiếng người, hay nói đúng hơn là Mỹ Ái từ chối
nói tiếng người. Bởi vì tiếng nói của con người đã giết chết tất cả những gì
yêu thương. Chỉ vì một chuyện nhỏ mà Mỹ Ái gây ra đã khiến cha mẹ cô cãi
nhau, cha nói một câu độc ác để rồi ba giờ sau cha tìm thấy mẹ treo mình trên
xà nhà, cuộc đời cô bắt đầu những chuỗi ngày nhục nhã đau đớn từ khi ấy.
Chuyện gì đến cũng phải đến ngay khi ở cõi người mà Mỹ Ái cũng không thể
tồn tại, phải sống trong câm lặng thì đến cõi ma cô cũng phải bồng bềnh trong
bóng tối “Em thấy mình thực sự trôi, bồng bềnh và mộng mị trong một không
gian tối dần và rồi, bóng tối bắt đầu vô tận” [44;172]. Nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư được coi là nhà văn nhân hậu nhưng đối với Mỹ Ái thì chị đã không thể
tìm cho nhân vật của mình một lối thoát. Mỹ Ái đã không còn người mẹ yêu
thương mà chỉ còn lại người cha dối trá, cuộc đời cô biết ra sao khi cô sợ
tiếng người sợ sự bạc ác của cõi đời, có lẽ cái chết là một sự giải thoát.
Cũng mang những nỗi khổ riêng mình nhân vật Nương và Điền trong
Cánh đồng bất tận, cũng gánh chịu những bất hạnh chỉ vì người mẹ ngoại
tình. Mẹ Nương bỏ đi trong nỗi ô nhục vì bị đứa con nhìn thấy, người cha
quay về biết sự tình, căm hận đốt hết quần áo của mẹ Nương và đốt cả nhà rồi
dẫn theo hai đứa con sống cuộc sống du mục. Đó chính là bước ngoặt trong
cuộc đời người cha Út Vũ và hai đứa trẻ. Theo lời Nương, vì căm hận vợ nên
người cha thường đánh hai đứa con, vì chúng là hình ảnh của mẹ chúng. Bản
thân Út Vũ không phải là một người chồng, người cha vô trách nhiệm nhưng
đứng trước cú sốc quá lớn anh đã không thể vượt qua, chính anh đã tự tay đẩy
cuộc đời mình và hai đứa con rơi vào vòng bi kịch.
45
Trong truyện ngắn Chuồn chuồn đạp nước, Nguyễn Ngọc Tư cũng đã
đặt nhân vật của mình vào tình huống khó xử, khi mà nhân vật người cha
trong một chương trình truyền hình đã trợ giúp sai cho con gái mình. Người
cha đã tự dằn vặt mình. Sự dằn vặt thật ghê gớm đó đã ăn mòn tâm hồn người
cha. Khi biết hình ảnh đẹp đẽ của mình trong lòng vợ con đã sụp đổ, người
cha rối bời không lối thoát “Cha đã đi qua ba bảy hai mươi mốt bình minh,
luôn thức dậy với nỗi tuyệt vọng mình còn nhớ” [44;28]. Ông bạn nhà thơ
thấy cha gầy sọp, la lên, “trời đất, không chừng vợ con mầy đã đi ra khỏi cái
trường quay đó rồi, sao mầy còn ở lại hoài chi cho khổ vậy” [44;28]. Cũng vì
một lần sai lầm ấy mà nhân vật người cha ấy đã vùi đầu vào sách, đọc nhiều
tới mức “lên mâm cơm là nói vanh vách những hiện tượng thiên nhiên, lịch sử
những kì quan thế giới… Đặc biệt là chuồn chuồn” [44;29]. Nguyễn Ngọc Tư
đã khai thác tâm lí con người thật sự nhạy bén và cũng đã đẩy nhân vật vào
tận cùng của bi kịch. Đó là khi con người ta biết mình mắc phải lỗi lầm và cố
gắng làm tất cả để sửa chữa, nhưng một khi lòng tin đã bị đánh mất thì sẽ mãi
mãi không thể lấy lại được...
Có người đã từng nói tình huống truyện như một lát cắt trên thân cây để
từ đó ta thấy được cả đời thảo mộc. Thật vậy, tình huống truyện không chỉ là
yếu tố thúc đẩy cốt truyện phát triển mà còn là chất xúc tác để nhà văn tái
hiện rõ nét hơn tính cách, bản chất của mỗi nhân vật. Qua việc đặt nhân vật
vào những tình huống đầy bất ngờ để từ đó cho nhân vật của mình một con
đường để đi. Từ đó đã phần nào cho thấy sự tinh tế, sắc sảo trong cách miêu
tả số phận đường đời mỗi nhân vật của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
3.1.2. Tình huống cảm thông chia sẻ
Tình huống cảm thông chia sẻ là kiểu tình huống thường xuyên xuất hiện
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Ở đây, nhân vật của chị trải lòng mình ra
để hiểu và sẻ chia cảm thông với nỗi khổ đau của những người xung quanh.
46
Kiểu tình huống này thể hiện rất rõ quan niệm con người sống để yêu thương
của Nguyễn Ngọc Tư. Qua đó, ta thấy được tấm lòng nhân hậu, nỗi lòng xót
xa cho những kiếp người bi kịch của nhà văn. Đồng thời nó còn thể hiện niềm
tin đẹp đẽ của chị về con người: cuộc đời này vẫn còn nhiều tấm lòng nhân ái,
sẵn sàng chia sẻ giúp đỡ người khác trong hoạn nạn và gian nan.
Trong truyện ngắn Cuối mùa nhan sắc, Chín Vũ suốt đời đi theo tiếng
gọi của tình yêu. Ông hết lòng hi sinh, yêu thương và chăm sóc đào Hồng dù
không được đáp lại: “Ông thương đào Hồng từ giây phút đầu tiên, người đâu
mà đẹp quá chừng, đẹp tới đứng tim người ta” [43;89]. Ông công tử đã bỏ nhà
bỏ phú quý đi theo gánh hát. “Không biết hát hò, tướng mạo cục mịch, nhỏ
con, ông không được lên sân khấu… Cực mấy cũng chịu, miễn là ngày ngày
được nhìn thấy đào Hồng hát” [43;89 - 90]. Chín Vũ đã cùng đào Hồng đi qua
những tháng năm cơ cực đắng cay. Dù muốn đỡ đần cho bà một đoạn đường
đời nhưng ông cũng biết bà đang chờ đợi một điều gì đó. Chín Vũ là một con
người suốt đời hi sinh cho người mình yêu, suốt đời theo đuổi chữ nghĩa, chữ
tình rồi lấy đó là niềm hạnh phúc duy nhất cho cuộc đời. Đó là một con người
đáng trân trọng và đáng được hưởng hạnh phúc, nhưng hạnh phúc hay đau
thương thì chỉ có ông mới biết.
Cũng giống như Chín Vũ, anh chàng chèo đò Lương trong Lương đã thể
hiện sự thông cảm, sẻ chia sâu sắc với cuộc đời đầy bất trắc của Bông. Có lẽ
bởi cuộc đời của Lương đầy những mất mát đau khổ, nên anh hiểu cho
Bông khi hoàn cảnh xô cô lao vào vòng xoáy. Cuộc đời con người mồ côi
nghèo xơ xác, bởi cũng không dám bày đặt giận cuộc đời nên lúc nào Lương
cũng cười. Dù Bông không còn khả năng làm mẹ nhưng Lương vẫn quyết lấy
Bông, để quãng đời còn lại của cô được sống trong sự yêu thương. Có lẽ vì
thế người ta vẫn gọi anh là Lương khùng nhưng anh không khùng “Lương chỉ
47
không muốn mình giống như bao thằng đàn ông khác, nhìn Bông như một
món đồ chơi. Bông là Bông là con gái, là người” [44;113].
Trong truyện ngắn Làm mẹ, Nguyễn Ngọc Tư đã thổn thức cùng nhân
vật của mình khi giãi bày tấm lòng của hai người mẹ có hai số phận khác
nhau. Diệu vì khối u buồng trứng mà không thể có con, cảm thấy có lỗi với
chồng nên chị đã chọn Lành để sinh cho mình một đứa con. Chị yêu thương
Lành hết mực hi vọng Lành khoẻ mạnh và đứa con cũng khoẻ mạnh nhưng
Lành đã bỏ đi. Diệu đau nhưng Diệu hiểu tấm lòng của một người mẹ “làm
người thì ai lại đi giành con với người ta”. Khi Lành trở về vì “những người
có tình nghĩa dễ gì bỏ được nhau”, Diệu đã đốt bản hợp đồng để cùng nhau
chăm sóc đứa con trong tình cảm trân trọng, cảm thông. Dường như bi kịch
của cuộc đời đã gắn kết họ như những mảnh ghép của số phận.
Những nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư dù được gắn vào
kiểu tình huống nào cũng luôn sẵn sàng hi sinh vì người khác chấp nhận khổ
đau riêng mình không một lời oán than dù đó có là mất mát hay đau thương
3.2. Ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc tự nhiên
Đọc truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, ấn tượng đầu tiên là ngôn ngữ trong
tác phẩm của chị là thứ ngôn ngữ đời thường, dân dã và mộc mạc. Ngôn ngữ
này xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của chị, những câu văn có chất thơ, nó
là khúc nhạc lòng thiên nhiên Nam Bộ dân dã, tự nhiên nhưng cũng đầy vẻ
quyến rũ vút lên từ những trang văn nồng nàn tình người. Đặc biệt đó là sự tài
tình khi Nguyễn Ngọc Tư sử dụng thứ ngôn ngữ đời thường để thể hiện
những đau đớn, những trăn trở của mỗi nhân vật trong các tác phẩm của mình.
Đa phần đối tượng mà Nguyễn Ngọc Tư phản ánh trong truyện ngắn của mình
đều là những người dân sống ở thôn quê. Chính vì thế, khi đi vào tìm hiểu
ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ta nhận thấy, cách diễn đạt,
48
cách hành văn của chị nhiều khi nôm na, mộc mạc, hóm hỉnh nên cũng rất dễ
đọc, dễ hiểu và dễ cảm.
Để diễn tả nỗi buồn của con người, Nguyễn Ngọc Tư có những cách nói
rất “bình dân” như: “buồn ác chiến”; (…Nhờ giữa hai bài hát có mục nhắn tìm
con buồn ác chiến - Cải ơi); “buồn vô địch cấp huyện” (Mấy chuyện này may
mà Xuyến giấu trong lòng, phải kể ra là buồn vô địch cấp huyện chứ sá gì cái
mũi So Le nhỏ nhoi này - Duyên phận So Le); “buồn như sắp đâm đầu xuống
sông mà chết” (Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn như sắp
đâm đầu xuống sông mà chết - Cái nhìn khắc khoải), buồn chao chát trong
lòng (Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng - Một mối tình)…
Để tả cảnh hành động bỏ chạy của ai đó, Nguyễn Ngọc Tư có những
cách nói lạ như: “chạy xịt khói”, “chạy xà quần”, “chạy xấc bấc xang bang”,
“Thàn bùi ngùi, người ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui thiếu có
chữ h, lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa ế ngoi ngóp nằm nghe mưa dầm,
nhiều bữa đứng soát vé bị đám du đãng địa phương rượt chạy xịt khói”
[44;8,9].
Có thể nói, chính thói quen sử dụng từ ngữ như trên đã làm cho ngôn
ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư gần với ngôn ngữ hàng ngày của
người dân nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Điều này góp phần tạo
nên một văn phong trong sáng, giản dị, không cầu kì và có phần nào đó nôm
na, mộc mạc, chân chất nhưng vẫn tạo được một hiệu quả cảm xúc và thẩm
mỹ rất cao.
“Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng, nó theo người ta rồi. Biết nó hư thân vậy,
má thà sanh cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời này má
không coi nó là con má nữa. Rồi má hỉ mũi cái rột: con coi kỹ, có phải cái nhà
thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được” [42;130].
Nếu nói ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu tư duy của con người, thì
ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy ngôn
49
ngữ của chị thể hiện cụ thể và sinh động những phẩm chất về văn hóa, xã hội
và con người vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
3.2.2. Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ
Khác với tiểu thuyết, truyện ngắn thể hiện một lát cắt của cuộc đời con
người. Mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng về đời sống nhằm thể hiện tài năng
của mình. Có thể nói ấn tượng đầu tiên và dễ thấy nhất trong ngôn ngữ truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chính là khả năng khai thác, vận dụng nhuần nhị
và có hiệu quả vốn hệ thống từ địa phương Nam bộ, để phản ánh và làm bật
nổi những nét văn hóa về vùng đất và con người vùng sông nước miền Tây
Nam Bộ.
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chứa đựng một hệ thống từ địa
phương, nó thể hiện cách xưng hô khi giao tiếp rất đặc trưng của người dân
vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tùy vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, mà
Nguyễn Ngọc Tư sử dụng những lớp từ riêng biệt. Dễ thấy nhất trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là lớp từ chỉ cách gọi tên người trong quá trình
giao tiếp rất đặc trưng của người miền Tây Nam Bộ, đó là cách gọi tên theo
thứ tự sinh ra trong gia đình như: “Anh Hai”, “Anh Năm”, “Ông Tư”… Hoặc
gọi kèm tên thật với thứ tự sinh như: Hai Nhớ, Tư Bụng, Tư Đờ, Chín Vũ, Út
Vũ… Khi xưng hô với người trong gia đình, Nguyễn Ngọc Tư rất thường hay
sử dụng lớp từ: “má”, “tía”, “chế”,“má sắp nhỏ”, “má con tao”,“má nó”, “ba
thằng …”, “ba nó”, “bà nó”, “mầy”, “tao”, “bây”, “tụi bây”, “tụi nó” “mấy
đứa nhỏ”, “sắp nhỏ”…
Nói về việc sử dụng từ địa phương trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư, không thể không đề cập đến hệ thống từ thể hiện sắc thái biểu cảm của
người nói đặt ở cuối những câu cảm hay câu nghi vấn. Đây cũng là lớp từ rất
đặc trưng trong ngôn ngữ giao tiếp của người miền Tây Nam Bộ như: “á”, “à”,
“hen”, “hôn”, “phải hôn”, “vậy”, “nghe”, “nghen”, “vậy nghen”,“chớ”, “chớ
bộ, “mà”, “lận”, “quá chừng”, “quá trời”, “vậy à”, “vậy cà”, ‘bộ”, “hả”, “ha”.
50
Có thể khẳng định, chính việc sử dụng ngôn ngữ địa phương đã góp
phần không nhỏ để Nguyễn Ngọc Tư tái hiện chân thực, sống động không khí
Nam Bộ, con người Nam Bộ với những số phận bất hạnh. Điều đó đã cuốn
hút độc giả vào thế giới chân thực, bình dị trong truyện ngắn của chị, thật
đúng khi người ta gọi Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của miệt vườn.
3.3. Giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.3.1. Giọng điệu xót xa thương cảm
Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà
văn đối với hiện tượng được miêu tả , I.X. Turgenev đã hết sức có lý khi cho
rằng mỗi nghệ sĩ giống như con chim. Mỗi loại chim có một cấu trúc thanh
quản khác nhau, bởi thế tiếng hót của chúng khác nhau. Cũng tương tự như
thế, mỗi nhà văn phải biết tạo ra một giọng điệu nghệ thuật riêng, giọng điệu
ấy chỉ có thể cất lên từ cổ họng của người nghệ sĩ. Vì vậy, tìm cho đúng giọng
điệu để viết là công đoạn khó khăn nhất của nhà văn.
Trong một tác phẩm văn học có thể có một hoặc nhiều giọng điệu khác
nhau: có giọng điệu người kể, có giọng điệu nhân vật, có giọng điệu khinh
bạc, hài hước, mỉa mai, châm biếm…chẳng hạn như giọng điệu trầm tư trắc
ẩn của Nguyễn Minh Châu; Giọng điệu mỉa mai, châm biếm của Phạm Thị
Hoài; Giọng điệu lạnh lùng, tàn nhẫn của Nguyễn Huy Thiệp…
Giọng điệu xót xa, thương cảm trong văn học Việt Nam trở thành cảm
hứng chủ đạo trong các tác phẩm nữa cuối thế kỷ XVIII và nữa đầu thế kỷ
XIX. Bắt đầu từ Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, Truyện
Kiều…thể hiện tinh thần xót xa thương cảm đối với mỗi kiếp người nhất là
phụ nữ. Sang thế kỷ XX, XXI, các nhà văn kế thừa có cách tân và đem lại
tiếng tăm cho một số nhà văn như: Nam Cao, Kim Lân, Võ Thị Hảo, Trần
Thuỳ Mai…
51
Giọng điệu chi phối trong toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là
giọng điệu xót xa thương cảm, nó được coi là giọng chủ âm trong toàn bộ
sáng tác của chị. Điều này bắt nguồn từ cội rễ “thương người như thể thương
thân”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam, truyền thống ấy được kết
nối dài lâu qua mỗi thời đại, vì văn học nói gì thì cái đích hướng đến cuối
cùng là con người. Giọng điệu này thể hiện rõ thái độ của Ngọc Tư trước hiện
thực được miêu tả. Nó góp phần quan trọng trong việc khắc hoạ số phận bi kịch
của nhân vật, cho nên khi người trần thuật kể về bất cứ nhân vật nào cũng đầy
sự xót xa, thương cảm. Để phát huy hiệu quả cho giọng điệu này, chị đã sử
dụng một lượng câu hỏi tu từ cực lớn nhằm khắc họa những diễn biến tâm lí
phức tạp bên trong nội tâm nhân vật. Mỗi truyện chị đặt ra năm, bảy câu hỏi tu
từ, đó là những câu hỏi có sức nặng chan chứa tình người, tình đời như: “Tắm
ở đâu, mấy cưng? Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh
cũng đáng đời, hen mấy cưng? Mấy cưng thương chị thiệt hả? Tôi lắc đầu, hai
gàu nước của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa? Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim
ta đau nhói, cái gì làm cho ta thấy giận dữ, nặng nề? Trời đất, sao vậy nè
cưng?” [43]. Bên cạnh đó, những từ ngữ ngoại cảnh có tính cộng hưởng đã tạo
dựng thêm trường ngôn từ gợi đau, gợi buồn như “bẻ bàng ngồi”,“cười héo
queo héo quắt”.
So với các cây bút cùng thế hệ, Ngọc Tư thực sự đã tìm cho mình một vị
trí đứng riêng biệt. Chị chảy tiếp mạch văn chương truyền thống, đó vừa là lợi
thế vừa là thử thách, vì để bạn đọc không chán mình thì nhà văn phải vượt
qua truyền thống, tự tìm tòi sáng tạo và tự đổi mới làm lạ hoá trang văn.
3.3.2. Giọng điệu tự nhiên, tưng tửng
Bên cạnh giọng chủ đạo - xót xa thương cảm, chị còn sử dụng giọng tự
nhiên, tưng tửng. Để phát huy hiệu quả giọng điệu này, tác giả dùng dạng
ngôn ngữ suồng sã và thủ pháp thật như đùa. Song những lời nói tự nhiên,
52
tưng tửng ấy không làm cho người đọc cười lâu mà khi ngưng tiếng cười thì
âm vang nỗi đau khổ, dằn vặt và cô đơn sẽ còn lại mãi. Trong Cuối mùa nhan
sắc: “Có người hỏi sao bữa nay không uống cà phê. Ông Chín Vũ cười, lắc
đầu, cười tiếp với cái vẽ không muốn nói mà thèm nói quá trời đi:
- Để dành tiền mua cho cổ chai dầu thơm.
Ông già trịnh trọng thì thào. Cả quán rộ lên cười:
- Già mà còn yêu.
- Mắc yêu thì yêu - ông già cự lại vẻ mặt sung sướng không giận gì ai”.
[43;38].
Hay trong Cánh đồng bất tận: cái ngày má Nương bỏ đi theo trai đồng
nghĩa với nó là hai đứa trẻ mất mẹ, chúng phải truy lùng nguyên nhân bằng sự
ngây ngô của mình.
- “Hồi chiều má con không nấu cơm…
- Vậy sao?
- Má con nằm trên giường thở dài…
- Vậy hả? Thở ra làm sao?
- Tôi hết biết tả [43;170].
Do nhân vật phát ngôn tự nhiên hồn hậu, nghĩ sao nói vậy không rào trước
đón sau. Nên khi đọc đến những đoạn văn trên, ngay cả những độc giả ít “tiếu
lâm” nhất cũng không thể không tủm tỉm cười. Cũng chính nhờ đặc tính của
chất giọng này đã làm cho truyện bớt đi phần nặng nề, cay cú.
3.3.3. Giọng điệu lo âu khắc khoải
Đây cũng là giọng điệu nổi bật trong ngòi bút của nữ nhà văn trẻ Nam
Bộ. Chị viết về những con người thật thà, chất phác, những nghệ sĩ nghèo khổ
nhưng thiết tha với nghề. Chỉ ngay nhan đề đã ẩn dấu sự lo âu khắc khoải đó
là “Cải ơi, Gió lẻ, Biển người mênh mông, Cái nhìn khắc khoải, Sầu trên đỉnh
Puvan...”.
53
Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến cho người đọc sự thổn thức đa đoan, sự
vỡ lẽ trước cuộc đời. Chị đặt hàng loạt câu hỏi tu từ, và dấu chấm lửng ở kết
truyện khiến câu chuyện vừa day dứt vừa khơi mở những cảm xúc trong lòng
độc giả.
- Rồi nó nghẹn ngào, còn tui, người ta đã quăng ở đây mười tám năm,
mà không ai trở lại tìm, tôi chờ hoài…[43;11].
- Cuộc đeo duổi vẫn còn dài Cưng à…[43;164].
- Sao nông năn nỗi vầy, Hoài? [42;87].
- Sao bây lại bắn Út Hơn của Má? [44;7].
Có thể thấy dấu chấm lửng, và câu hỏi tu từ là phương tiện hiệu quả thể
hiện giọng điệu đầy khắc khoải lo âu trong các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư. Những tha thiết những lo âu khắc khoải là dòng xúc cảm của nhà văn
trước cuộc đời con người. Khiến cho người đọc không khỏi trăn trở khôn
nguôi khi gấp trang sách lại.
3.3.4. Giọng điệu trữ tình chan chứa yêu thương
Giọng điệu trữ tình sâu lắng cũng là nét nổi bật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư. Không ồn ào, phô diễn trên bề mặt, giọng văn của chị dung
dị mà sâu lắng, vừa xôn xao buồn, bâng khuâng xao xuyến nhẹ nhàng lắng
đọng, vừa trăn trở suy tư và đầy tâm trạng mỗi khi nhân vật của mình rơi vào
những đau thương:
- Những con người tính từng ngày qua để lay lắt thêm một tuổi nữa vậy
mà hát coi cũng ngon lành [43;88].
- Đôi khi những lời vô tình làm em nhớ tới một vài thứ em mất. Đôi khi
nhìn vài người mẫu áo tắm đứng nằm sóng xoà trong mấy tờ lịch phai úa, em
điềm nhiên nghĩ, mình đã từng có những da thịt như họ. Giờ thì không còn
[44;159].
54