Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.04 MB, 170 trang )
tâm lý (đã trình bày ở chương 1), họ chủ yếu đưa ra 2 bước. Trong khi đó có đến 55,56%
GV không hiểu rõ tiến trình so sánh là gì nên không đưa ra được các bước của tiến trình mà
chỉ nêu một cách chung chung như “so sánh các đặc điểm, hình dạng, lợi ích…”, “quan sát
vật để tư duy về điểm giống và khác”; có trường hợp GV nhầm lẫn tiến trình so sánh sang
hướng dẫn khái quát hóa như “Bước 1: tìm điểm giống và khác của đối tượng, bước 2: xếp
chúng vào một nhóm theo các tiêu chuẩn kích thước, độ dài” hay “ Quan sát – Kết nhóm –
Phân loại – Kết luận”. Trong tổng số GV được hỏi, có 3 GV thẳng thắn trả lời không biết
tiến trình so sánh. Tóm lại, GV thực sự chưa hiểu rõ hay chỉ hiểu mơ hồ về tiến trình so
sánh nên nhận thức về các bước của tiến trình so sánh không chính xác.
55,56
2,78
41,67
Hiểu đúng
Hiểu sai
Không trả lời
Biểu đồ 2.4. Thực trạng nhận thức của giáo viên về tiến trình SS (tính theo %)
-
Kết quả điều tra bằng phiếu thăm dò ý kiến với câu hỏi mở
Trước câu hỏi đóng “Các bước của tiến trình so sánh là gì?”, có 96,3% GV đưa ra 2
bước, chỉ có 3,7% GV trả lời gồm 3 bước. Đa số GV đều không chú ý đến bước 2 của tiến
trình so sánh. Chính họ không hiểu rằng nếu không hướng dẫn trẻ thực hiện đủ 3 bước của
tiến trình này, đặc biệt nếu bỏ bước 2 thì sẽ dẫn tới việc trẻ dễ bị bỏ sót các đặc điểm giống
nhau và khác nhau của đối tượng so sánh.
Bảng 2.8. Nhận thức của giáo viên mầm non về tiến trình so sánh
Tiến trình so sánh gồm:
STT
SL
(N=108)
Tỉ lệ %
2 bước:
1
1. Quan sát đối tượng so sánh
104
96,3
4
3,7
2.Tìm ra đặc điểm giống nhau và khác nhau
3 bước:
2
1. Quan sát đối tượng so sánh
2. Nêu đặc điểm cần so sánh
56
3. Tìm ra đặc điểm giống nhau và khác nhau
Như vậy, chúng ta kết luận rằng GV chưa nắm vững được 3 bước của tiến trình so
sánh để hướng dẫn trẻ so sánh đúng cách. Khi trao đổi với GV, lý do tại sao kết quả so sánh
của trẻ chỉ ở mức TB, đại đa số GV cho rằng nguyên nhân là do kiến thức của trẻ ít, đề tài
trừu tượng (như động vật sống trong rừng không được quan sát thực tế) nên trẻ không có
kinh nghiệm, trẻ chưa tập trung chú ý. Thực tế, nguyên nhân chính là GVMN chưa nắm
được các bước của TTSS và GVMN chưa chú ý dạy trẻ cách so sánh. Chính nhận thức sai
lệch của GV ảnh hưởng không tốt đến khả năng so sánh của trẻ.
2.2.2.2. Kết quả nhận thức của giáo viên mầm non về khả năng so sánh của trẻ
MG 5-6 tuổi trong hoạt động làm quen với môi trường xung quanh
Bảng 2.9. Đánh giá của giáo viên về khả năng so sánh của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong
hoạt động làm quen với môi trường xung quanh
Khả năng so sánh của trẻ
Đánh
giá của
GV
Số lượng đối tượng trẻ so sánh
Số lượng đặc điểm giống và khác nhau
cùng lúc
So sánh
dưới 3 đối
tượng
So sánh 3
đối tượng
So sánh
Tìm ra dưới 4
Tìm ra 4 đặc
Tìm ra trên 4
trên 3 đối
đặc điểm giống
điểm giống
đặc điểm
tượng
và khác
và khác
giống và khác
SL GV
63
8
37
53
33
22
Tỉ lệ %
58,3
7,4
34,3
49,1
30,5
20,4
Từ kết quả thống kê số liệu phiếu thăm dò ý kiến GV, chúng tôi nhận thấy có chỉ 7,4%
GV cho là trẻ MG 5-6 tuổi có thể so sánh được 3 đối tượng trong HĐLQVMTXQ. Trong
chương trình GDMN mới ban hành năm 2009 có nêu trẻ có khả năng so sánh 3 đối tượng.
Trên cơ sở tâm lý học, trẻ MG 5-6 tuổi trung bình có thể so sánh 3 đối tượng trong
HĐLQVMTXQ cùng lúc. Tỉ lệ nhận định khác ý kiến này cũng chiếm khá cao 92,65%. Số
lượng GV cho rằng trẻ so sánh cùng lúc dưới 3 đối tượng là 63/108, chiếm tỉ lệ hơn ½ tổng
số GV được hỏi (58,3%).
Điều này cho thấy nhận thức của GV về khả năng so sánh của trẻ MG 5-6 tuổi trong
HĐLQVMTXQ là chưa chính xác. Ở Bảng 2.9 cũng thể hiện nhận thức của GV về khả
năng so sánh của trẻ tìm số lượng đặc điểm giống và khác nhau. Có 53/108 GV cho rằng trẻ
tìm được dưới 4 đặc điểm giống và khác nhau, chiếm tỉ lệ 49,1%. Trung bình trẻ MG 5-6
tuổi so sánh và tìm được dưới 4 điểm cho cả điểm giống với điểm khác là hơi ít so với khả
57
năng của trẻ. Một đứa trẻ MG 5-6 tuổi ở mức trung bình có thể tìm được 2 điểm giống và 2
điểm khác nhau của đối tượng so sánh. Đây là điều cần nên xem xét vì số GV nhận định
đúng khả năng tìm ra số lượng điểm giống và khác của trẻ không nhiều và như vậy sẽ ảnh
hưởng đến việc đánh giá đúng khả năng của trẻ trong so sánh.
Phỏng vấn trực tiếp GVMN ở một số trường MN ghi nhận được như sau: với câu hỏi
“trong chương trình GDMN 2009 qui định trẻ so sánh được bao nhiêu đối tượng”, GV đều
không trả lời. Thế nhưng, khi hỏi thực tế khả năng trẻ của lớp họ so sánh được mấy đối
tượng, đa số GV nhận định trẻ MG 5 – 6 tuổi có thể so sánh được 2 đối tượng. Khi hỏi nếu
đưa 3 đối tượng cho trẻ so sánh cùng lúc, GV trả lời trẻ so sánh không chính xác 3 đối
tượng cùng lúc hoặc có ý kiến cho là trẻ thường lấy đối tượng thứ nhất so sánh với đối
tượng thứ hai, rồi sau đó lấy đối tượng thứ nhất so với đối tượng thứ ba. Điều này cho thấy
do GV ít dạy trẻ so sánh trong HĐLQVMTXQ, đồng thời GV chỉ dựa trên thực tế dạy học
của họ, chưa nắm được chương trình nên chưa đáp ứng yêu cầu của chương trình. Vì vậy,
khả năng so sánh của trẻ không được nâng cao.
Nhìn chung, đánh giá của GV chưa hoàn toàn chính xác về khả năng so sánh của trẻ
dẫn đến GV sẽ lựa chọn biện pháp nâng cao khả năng so sánh của trẻ không phù hợp.
Bên cạnh việc đánh giá khả năng so sánh của trẻ MG 5-6 tuổi trong HĐLQVMTXQ,
chúng tôi cũng đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng so sánh của trẻ để GV đánh giá
mức độ quan trọng.
Bảng 2.10. Thứ tự tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng so sánh của
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong HĐLQVMTXQ
TT
1
2
Các yếu tố
Mối quan hệ giữa GVMN với trẻ
Biện pháp nâng cao khả năng so sánh cho
trẻ từ phía GVMN
SL
Tỉ lệ %
Thứ hạng
30
27,8
3
15
13,9
5
3
Cơ sở vật chất và phương tiện dạy học
41
38
1
4
Tính tích cực nhận thức của trẻ
31
28,7
2
18
16,7
4
5
Chương trình GDMN do Bộ Giáo dục và
đào tạo ban hành năm 2009
58
Thu thập từ 108 phiếu thăm dò ý kiến của GV, chúng tôi nhận thấy việc GV xếp hạng
thứ tự tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng so sánh của trẻ MG 5-6 tuổi
trong HĐLQVMTXQ được phân bố rải rác, không có yếu tố nào có tỉ lệ trên 50% ý kiến
cho là quan trọng nhất.
Trong số các yếu tố trên, yếu tố về cơ sở vật chất và phương tiện dạy học có 38% GV
xếp là có tầm ảnh hưởng cao nhất đến khả năng so sánh của trẻ MG 5-6 tuổi trong
HĐLQVMTXQ. Thực tế hiện nay số lượng trẻ trong 1 lớp quá đông, đồ dùng dụng cụ và
các phương tiện dạy học hiện đại ở các trường dường như không được trang bị đầy đủ để
GV có thể sử dụng tổ chức cho trẻ thực hiện các hoạt động làm quen với MTXQ có nội
dung so sánh theo phương pháp dạy học hiện đại.
Hai yếu tố được GV đánh giá là ít ảnh hưởng đến khả năng so sánh của trẻ là biện pháp
phát triển khả năng so sánh cho trẻ từ phía GVMN (13,9%) và Chương trình GDMN do Bộ
Giáo dục và đào tạo ban hành năm 2009 (18,5%). Đây là một suy nghĩ sai lầm vì Chương
trình GDMN chính là tài liệu cơ sở để GV xây dựng các bài tập, trò chơi trí tuệ cho trẻ thực
hiện thao tác so sánh phù hợp với độ tuổi của trẻ. Biện pháp phát triển khả năng so sánh cho
trẻ từ phía GVMN có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao khả năng so sánh của trẻ
MG 5 – 6 tuổi nhưng GV ít chú ý. Biện pháp phát triển khả năng so sánh cho trẻ chính là
cách thức GV dạy trẻ so sánh dựa trên phương tiện vật chất đầy đủ, yêu cầu của chương
trình GDMN. Nếu cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ, phương tiện, đồ dùng dụng cụ phong
phú, trẻ có tính tích cực ham học hỏi nhưng GV không biết đề ra biện pháp phù hợp thì khả
năng so sánh của trẻ không được nâng cao.
2.2.2.3. Thực trạng việc sử dụng các biện pháp nâng cao khả năng so sánh của trẻ
-6 tuổi trong hoạt động làm quen với môi trường xung quanh
a. Thực trạng việc GVMN yêu cầu trẻ thực hiện thao tác so sánh trong HĐLQVMTXQ
Thống kê từ phiếu thăm dò ý kiến với câu hỏi đóng, trong số 3 đề tài, trái cây là đề tài
được 89 GV cho là thường xuyên yêu cầu trẻ thực hiện so sánh (chiếm tỉ lệ 82,4%). Có
47,2% GV đưa ý kiến đề tài động vật sống trong rừng (có 47,2% GV) và đề tài các loại
quần áo trẻ em (có 56,5%) thỉnh thoảng GV mới yêu cầu trẻ thực hiện thao tác so sánh.
Bảng 2.11. Tần số GVMN yêu cầu trẻ thực hiện thao tác so sánh
STT
Đề tài
1
Trái cây
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không bao giờ
SL
%
SL
%
SL
%
89
82,4
19
17,6
0
0
59
2
Động vật sống trong rừng
55
50,9
51
47,2
1
0,9
3
Các loại quần áo trẻ em
42
38,9
61
56,5
4
3,7
Sở dĩ có thực trạng trên là do trái cây là đề tài nằm trong chương trình GDMN và các
đối tượng trái cây trẻ đã được làm quen ngay từ tuổi nhà trẻ nên rất gần gũi với trẻ. Động
vật sống trong rừng cũng giống như trái cây nhưng do trẻ không được trực tiếp quan sát
những đối tượng này bên ngoài mà chỉ qua tranh ảnh nên GV ít yêu cầu trẻ thực hiện so
sánh. Đề tài các loại quần áo trẻ em không nằm trong yêu cầu của chương trình GDMN nên
GV ít dạy trẻ và ít yêu cầu trẻ thực hiện so sánh.
b.Thực trạng đánh giá của GVMN về việc dạy trẻ so sánh trong các đề tài của
HĐLQVMTXQ
Bảng 2.12. Đánh giá của GV về việc dạy trẻ so sánh
Khó thực hiện
nhất
Tên đề tài
Dễ thực hiện nhất
Thực tế có tổ chức
HĐ
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ %
Trái cây
0
0
90
83.33
74
68.5
Động vật sống trong rừng
60
55.55
8
7.40
25
23.1
Các loại quần áo trẻ em
48
44.45
10
9.25
8
7.4
Cùng với phiếu thăm dò ý kiến, chúng tôi tham dự một số HĐLQVMTXQ theo 3 đề tài
trái cây, động vật sống trong rừng và các loại quần áo trẻ em nhằm tìm hiểu những biện
pháp giáo viên đã áp dụng để nâng cao khả năng so sánh của trẻ trong HĐLQVMTXQ.
Thu thâp từ những thông tin trên phiếu hỏi mở và qua trò chuyện , GV cho biết lí do GV
xếp đề tài trái cây dễ thực hiện vì nó quen thuộc và GV có thể sử dụng phương tiện là vật
thật để dạy trẻ so sánh, trẻ có thể dùng 5 giác quan để so sánh. Trong khi đó, với đề tài động
vật sống trong rừng chỉ có 8 GV cho là dễ thực hiện và có 83% GV còn lại cho rằng đề tài
con vật sống trong rừng là đề tài khó thực hiện nhất vì các đối tượng của đề tài con vật sống
trong rừng không thể dùng vật thật dạy mà phải dùng tranh ảnh, phim ảnh cho trẻ quan sát
và so sánh nên GV mất thời gian chuẩn bị đồ dùng dạy học, vì vậy thỉnh thoảng GV mới
chọn để trẻ so sánh. Tuy nhiên, thực tế dự giờ có 25 GV chọn làm đề tài động vật sống
trong rừng tổ chức HĐ có yêu cầu trẻ thực hiện so sánh vì GV cho rằng con vật là đối tượng
hấp dẫn trẻ, khơi gợi trí tò mò của trẻ và đề tài nằm trong chương trình GDMN nên chắc
60
chắn sẽ phải cung cấp kiến thức cho trẻ về đề tài này, theo đó có thể vận dụng cho trẻ so
sánh; mặt khác đề tài này có nhiều nội dung mới lạ thu hút trẻ tìm hiểu, có nhiều đặc điểm
để trẻ so sánh. Và tương tự ở đề tài các loại quần áo trẻ em, 10 GV cho là dễ thực hiện vì
chúng gần gũi và dùng vật thật để dạy trẻ so sánh được nhưng thực tế chỉ có 8 GV có áp
dụng biện pháp dạy trẻ so sánh, có thể nguyên nhân do nội dung đề tài này bản thân GV khó
khai thác để dạy trẻ so sánh.
c.Thực trạng việc sử dụng phương tiện so sánh
Để tổ chức các đề tài so sánh cho trẻ dễ thực hiện, dễ hiểu, việc lựa chọn phương tiện so
sánh cũng góp phần không nhỏ để giúp trẻ so sánh tốt.
Quan sát biểu đồ tần số lựa chọn phương tiện so sánh từ phiếu thăm dò ý kiến với câu
hỏi mở (biểu đồ 2.5), ta thấy phương tiện vật thật có đến 100 GV sử dụng cho trẻ so sánh,
chiếm tỉ lệ 92,59 %; chỉ có 7 GV dùng tranh ảnh làm phương tiện so sánh, chiếm tỉ lệ
6,48%; ngoài ra có 1 GV cho rằng việc lựa chọn phương tiện so sánh tùy thuộc vào đối
tượng so sánh mà lựa chọn cho phù hợp với trẻ (0.93%).
6,48
0,93
Tùy đối tượng SS
Vật thật
Tranh ảnh
92,59
Biểu đồ
2.5. Tần số sử dụng phương tiện so sánh
Khi hỏi sử dụng phương tiện so sánh trong 3 đề tài, GV trả lời vật thật sử dụng cho
nhiều đề tài, đặc biệt là đề tài trái cây và đề tài các loại quần áo trẻ em. Số lượng GV sử
dụng phương tiện vật thật nhiều là do vật thật mang tính trực tiếp, cụ thể, trẻ quan sát dễ
dàng và hứng thú hơn. Còn đề tài động vật sống trong rừng chủ yếu GV dùng tranh ảnh,
phim ảnh để dạy.
GV cho phương tiện vật thật sử dụng chủ yếu vì trẻ có điều kiện nhìn rõ đặc điểm
giống và khác nhau của các đối tượng. Thế nhưng, thực tế dự giờ, chúng tôi nhận thấy GV
chủ yếu dùng tranh ảnh để dạy so sánh kể cả ở những đề tài trái cây. Trò chuyện với GV, rút
ra được lí do là: thứ nhất GV chưa chú tâm tìm đối tượng vật thật vì việc tìm vật thật mất
nhiều thời gian và công sức , thứ hai là vật thật tốn kém, GV không được sự hỗ trợ của nhà
61
trường để mua vật thật. Trong khi đó, tranh ảnh được GV sử dụng nhiều vì chúng dùng
được nhiều lần, mang tính kinh tế cao, ít hao hụt. Như vậy, GV không dựa trên đặc điểm
nhận thức của trẻ mà chỉ dựa trên cảm tính của mình. Đối với trẻ chưa có nhiều kinh
nghiệm, tranh ảnh khó so sánh hơn. Khi trẻ so sánh tốt, tranh ảnh sẽ hỗ trợ tốt.
Bảng 2.13. Mức độ giáo viên sử dụng các phương tiện so sánh
Mức độ sử dụng (N=108)
S
T
Phương tiện
Thường xuyên
T
Thỉnh
Không bao
Không lựa
thoảng
giờ
chọn
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
Vật thật
55
50,9
52
48,1
0
0
1
0,9
2
Phương tiện mô phỏng
33
30,6
58
53,7
13
12
4
3,7
3
Tranh ảnh
92
85,2
14
13
2
1,9
0
0
4
Biểu tượng
20
18,5
63
58,3
19
17,6
6
5,6
5
Phương tiện khác
17
15,7
59
54,6
13
12
19
17,6
Thông qua phiếu thăm dó ý kiến và phỏng vấn trực tiếp GV, khi đưa ra câu hỏi về mức
độ sử dụng các phương tiện so sánh, chúng tôi thu được kết quả như sau:
+ Ở mức độ thường xuyên: tranh ảnh là phương tiện được sử dụng nhiều nhất (85, 2%)
vì GV cho rằng tranh ảnh dùng được với mọi đề tài, dễ dàng cất giữ và tiết kiệm vì dùng
được lần sau. lại được nhà trường trang bị, GV không tốn tiền mua. Kế đến là tỉ lệ phương
tiện vật thật 50, 9% GV cũng chọn dùng thường xuyên vì lí do dễ tìm, sống động có thể vận
động phụ huynh hỗ trợ. Nhưng biểu tượng được chọn chỉ với 18, 5 % vì biểu tượng trừu
tượng, là phương tiện so sánh khó đối với trẻ. Bên cạnh đó, 17 GV cũng chọn phương tiện
khác sử dụng thường xuyên (15, 7%). (xem bảng 2.13)
+ Ở mức độ thỉnh thoảng, chỉ có 14 GV (13%) sử dụng tranh ảnh. Còn lại các phương
tiện có tần số sử dụng gần xấp xỉ nhau, cụ thể tỉ lệ ở từng phương tiện: vật thật 48, 1% ,
phương tiện mô phỏng 53, 7%, biểu tượng 58, 3% và phương tiện khác là 54,6%.
+ Ở mức độ không bao giờ: có 17, 6% GV không bao giờ chọn biểu tượng cho trẻ so
sánh vì tính chất của phương tiện này và vì biểu tượng chỉ sử dụng nhiều ở cấp tiểu học. Số
lượng không chọn phương tiện mô phỏng và phương tiện khác chiếm tỉ lệ bằng nhau là
12%, và chỉ có 2 GV không bao giờ sử dụng tranh ảnh để làm phương tiện so sánh.
Như vậy, chúng tôi có thể nhận định rằng sự lựa chọn phương tiện so sánh phụ thuộc
vào tài chính của GV, đối tượng so sánh có tìm được vật thật để dạy không, kinh nghiệm
62
của trẻ về MTXQ. Tính chất của phương tiện cũng dẫn đến tần suất GV chọn dùng phương
tiện ấy.
d. Thực trạng sử dụng các biện pháp nâng cao khả năng so sánh của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trong HĐLQVMTXQ
Mức độ sử dụng các biện pháp
• Kết quả điều tra qua phiếu thăm dò ý kiến với câu hỏi mở
Khi hỏi GV về các biện pháp nâng cao khả năng so sánh của trẻ, đa số GV đưa ra các biện
pháp như sau:
Bảng 2.14. Giáo viên đề xuất các biện pháp nâng cao khả năng SS cho trẻ MG 5- 6 tuổi
STT
Tên biện pháp
1
GV đề xuất các biện pháp
SL
Tỉ lệ %
Tạo tình huống có vấn đề
75
69,4
2
Sử dụng bài tập nâng cao khả năng so sánh
22
20,4
3
Tổ chức các trò chơi tư duy
108
100
4
Thông qua thí nghiệm khám phá khoa học
35
33,3
Có 100% GV tổ chức các trò chơi trí tuệ dạy trẻ so sánh. Vì theo đánh giá của GVMN thì
trò chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ MG, khi tham gia trò chơi trẻ cảm thấy vui sướng và
hứng khởi.Vì vậy GV tổ chức trò chơi trí tuệ trẻ vừa được chơi vừa được học so sánh, và
như vậy việc yêu cầu trẻ thực hiện nhiệm vụ so sánh không quá căng thẳng. Đồng thời tổ
chức các trò chơi trí tuệ còn là một số biện pháp mà các giáo viên đã áp dụng nhiều năm nên
họ đã quen sử dụng. Nếu thay đổi các biện pháp dạy học thường xuyên sẽ tốn rất nhiều công
sức và thời gian. Bên cạnh đó, một số biện pháp như: Tạo tình huống có vấn đề (69,4%),
thông qua thí nghiệm khám phá khoa học (33,3%) cũng được giáo viên quan tâm sử dụng.
Tuy nhiên có nhiều GV để phiếu trống, không trả lời, chứng tỏ GV rất kém trong việc nghĩ
ra các biện pháp nâng cao khả năng so sánh cho trẻ, song song đó việc sử dụng các biện
pháp trong thực tế cũng hạn chế.
• Kết quả điều tra qua phiếu thăm dò ý kiến với câu hỏi đóng
Thực trạng sử dụng các biện pháp phát triển khả năng so sánh cho trẻ qua hoạt động
làm quen với MTXQ cho thấy giáo viên sử dụng chúng với các mức độ khác nhau.
Cụ thể:
+ Biện pháp tổ chức trò chơi trí tuệ: tỉ lệ GV vận dụng trò chơi trí tuệ thường xuyên
để nâng cao khả năng so sánh của trẻ cũng chiếm 100%. Điều này chứng tỏ GV nhận thức
63
trò chơi trí tuệ có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động nhận thức của trẻ. Qua thực tế quan sát
một số hoạt động GD, chúng tôi nhận thấy GV chưa biết cách tổ chức các trò chơi trí tuệ để
giúp trẻ thực hiện hành động so sánh, chưa biết cách sưu tầm, thiết kế các trò chơi trí tuệ có
chứa đựng yếu tố so sánh để vận dụng vào việc nâng cao khả năng so sánh của trẻ trong
HĐLQVMTXQ. Vì vậy GV chưa phát huy hết ý nghĩa của trò chơi trí tuệ trong các
HĐLQVMTXQ để nâng cao khả năng so sánh của trẻ.
Bảng 2.15. Khảo sát ý kiến của giáo viên về các biện pháp nâng cao khả năng so sánh
cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong HĐLQVMTXQ
Mức độ sử dụng (N=108)
STT
Thường
Các biện pháp
xuyên
Thỉnh thoảng Không bao giờ
SL
%
SL
%
SL
%
1
Tạo tình huống có vấn đề
73
67,6
31
26,3
4
3,7
2
Sử dụng bài tập nâng cao khả năng so sánh
81
75,0
24
22,2
3
2,8
3
Tổ chức các trò chơi trí tuệ
108
100
0
0
0
0
4
Thông qua thí nghiệm khám phá khoa học
37
34,3
45
41,7
15
13,9
+ Biện pháp sử dụng bài tập nhằm phát triển khả năng so sánh cho trẻ chiếm 75% tỉ
lệ GV chọn. Tuy nhiên quan sát cho thấy hầu hết bài tập phát triển khả năng so sánh cho trẻ
MG thường được GV lấy từ tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, tự thiết kế, sưu tầm
từ sách, báo, internet... Như vậy, giáo viên đã có đầu tư tìm tòi một số bài tập nhằm nâng
cao khả năng so sánh cho trẻ. Tuy nhiên số lượng bài tập lại không nhiều, chúng thường
xuyên được giáo viên sử dụng lặp đi lặp lại và trở nên nhàm chán với trẻ, làm trẻ mất dần
hứng thú và làm giảm hiệu quả phát triển tư duy cho trẻ. Trên thực tế, một số ít giáo viên có
ý thức chịu khó tìm tòi, suy nghĩ thiết kế bài tập mới cho trẻ, tuy nhiên nội dung của các bài
tập GV sử dụng lại ít hướng tới phát triển khả năng so sánh cho trẻ. Điều này cho thấy nhận
thức chưa đầy đủ của GV về nhiệm vụ GD này cũng như trình độ còn hạn chế của họ.
+ Biện pháp tạo tình huống có vấn đề: Trong số GV được hỏi có 67, 6% GV thường
xuyên sử dụng tình huống có vấn đề trong quá trình hình thành khả năng so sánh cho trẻ
trong HĐLQVMTXQ, 26, 3% GV thỉnh thoảng sử dụng và 3,7 % GV không bao giờ sử
dụng biện pháp này. Như vậy một số GV đánh giá chưa đúng tầm quan trọng của biện pháp
64